![]() |
Hóa Ra Môi Khô Nứt Nẻ Không Phải Vì Lười Uống Nước Mà Là Do Những Điều Này
1 Attachment(s)
Hóa Ra Môi Khô Nứt Nẻ Không Phải Vì Lười Uống Nước Mà Là Do Những Điều Này
Thời tiết thu đông, môi bạn bắt đầu khô và nứt nẻ, thậm chí nứt đến chảy máu. Đa số chúng ta khi gặp phải vấn đề này thì nghĩ rằng do mình ít uống nước, và sau đó bắt đầu cố gắng bổ sung nước, nhưng vẫn không thể giải quyết vấn đề một cách triệt để. Thực ra nguyên nhân của môi khô nẻ, hoặc một số vấn đề khác trên cơ thể, bắt nguồn từ việc chúng ta bị thiếu hụt vitamin. Bây giờ chúng ta cùng nhau xem thử mình đang bị thiếu loại vitamin nào, và đâu là cách bổ sung vitamin hiệu quả thông qua thực phẩm, để tránh phải sử dụng đến thuốc. 1. Lở miệng, viêm miệng: Thiếu vitamin B2 Mỗi ngày chúng ta nên hấp thụ lượng vitamin B2 khoảng 1.3 mg đối với nam, khoảng 1.1 mg đối với nữ. Nếu thấy xung quanh vùng miệng có tình trạng nứt nẻ, hoặc viêm nhiễm, loét lở, thì có thể là do trong cơ thể thiếu vitamin B2. Bổ sung vitamin B2, có thể giúp chữa lành tế bào tổn thương một cách nhanh chóng. Ngoài ra vitamin B2 cũng đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của da và tóc. Thiếu vitamin B2, da sẽ khô, tóc xơ rối và dễ gãy rụng. Bạn cần bổ sung vitamin B2 từ trong thức ăn hoặc thực phẩm chức năng. Nguồn bổ sung: Mỗi ngày uống 250 ml sữa sẽ giúp bổ sung vitamin B2 cho cơ thể. Các loại thức ăn như nấm hương, nấm mèo, đậu phộng, mè đen, hạnh nhân… cũng chứa nhiều vitamin B2. 2. Ăn không ngon miệng, giảm vị giác: Thiếu kẽm Mỗi ngày, bác sĩ khuyên nên hấp thụ 5.5-9.5 mg kẽm đối với nam, 4-7 mg kẽm đối với nữ. Cơ thể người khi thiếu nguyên tố kẽm, sẽ giảm thiểu sức đề kháng, biếng ăn, chậm phát triển, rụng tóc, chức năng vị giác thoái hóa…Vì vậy nếu như cảm thấy ăn không ngon miệng, vị giác giảm, lại có tình trạng vết thương lành chậm, thì cần cẩn thận, vì đây có thể là triệu chứng cơ thể đang thiếu kẽm. Nguồn bổ sung: Trong thịt bò, thịt dê… chứa nhiều kẽm. Bạn nên bổ sung chúng trong bữa ăn hàng ngày, nhưng chú ý không ăn quá nhiều. 3. Dạ dày không khỏe: Thiếu vitamin A Nhu cầu cần thiết hàng ngày là 0.7 mg vitamin A đối với nam, 0.6 mg đối với nữ. Vitamin A không chỉ là nguyên tố quan trọng bảo vệ của sổ linh hồn, mà nó cũng có thể giúp cho đường hô hấp và dạ dày hình thành 1 lớp màng bảo vệ một cách tự nhiên, phòng tránh vi khuẩn hoặc chất độc xâm hại cơ thể. Vì vậy nếu không cung cấp đủ vitamin A, không chỉ không tốt đối với mắt, mà còn không tốt cho đường hô hấp và dạ dày. Nguồn bổ sung: Mỗi ngày ăn chút cà rốt, hoặc là mỗi tuần ăn 1-2 lần nội tạng của động vật cũng là cách bổ sung vitamin A. 4. Dễ tức giận, tính cộc cằn: Thiếu sắt Mỗi ngày nam cần hấp thụ 8.7 mg, nữ cần 14.8 mg lượng sắt mới đủ. Sắt là nguyên tố quan trọng, giúp cho cơ thể tạo ra tế bào hồng huyết cầu. Đối với phụ nữ mỗi tháng phải trải qua thời điểm mất máu, thì chất sắt càng quan trọng hơn, nếu không dễ dàng gặp tình trạng tinh thần không tốt, tâm trạng dễ dàng buồn bã, chán nản. Nguồn ăn uống: Thịt đỏ, trứng gà, rau cải màu xanh đậm… đều là thức ăn có chứa chất sắt, và nhớ là bổ sung nhiều vitamin C để tăng cường việc hấp thụ sắt. 5. Gót chân sưng phồng: Thiếu kiềm (kali) Kiềm là nguyên tố quan trọng điều tiết sự cân bằng giữa axit kiềm của lượng máu và dịch thể trong cơ thể, duy trì sự cân bằng lượng nước và sự ổn định của áp lực thẩm thấu. Thiếu kali trong thời gian dài sẽ dẫn đến tình trạng nhịp tim không ổn, dễ mất nước, hay đổ mồ hôi, dễ bị chuột rút… Thiếu hụt kali trong thời gian dài, cơ thể sẽ trở nên sưng phồng, đặc biệt vùng gót chân thể hiện rõ rệt nhất. Nguồn bổ sung: Tập thể dục xong có thể ăn chuối để bổ sung lượng kali bị thiếu hụt, phòng tránh được tình trạng chuột rút. Mỗi ngày ăn một lượng trái cây, rau củ quả nhất định, sẽ giúp bổ sung được lượng kali cần thiết. 6. Đau mỏi khắp người: Thiếu vitamin D Người nào ít phơi nắng, không đủ lượng vitamin D, sẽ dễ dẫn đến đau mỏi mãn tính. Vitamin D là chất dinh dưỡng không tự động tổng hợp trong cơ thể người, nên việc bổ sung lại càng quan trọng. Vitamin D cũng là chất quan trọng đối với sức khỏe xương khớp, và răng miệng. Nguồn bổ sung: Mỗi tuần ăn ít nhất 2 bữa cá như cá hồi, cá mòi cơm… kết hợp với việc phơi nắng vào sáng sớm hoặc chiều muộn, sẽ đảm bảo cung cấp vitamin D cho cơ thể. 7. Những bệnh thường gặp khác – Khô mắt: thiếu vitamin A, carotene. – Hôi miệng: thiếu vitamin B6, kẽm. – Răng không chắc khoẻ: thiếu vitamin A, canxi, sắt. – Môi khô, bong tróc: thiếu vitamin A, B2. – Thiếu máu, tay và chân lạnh: thiếu vitamin B6, acid folic, sắt. – Mệt mỏi, thiếu năng lượng: thiếu vitamin B1, B2, B6. – Rụng tóc quá nhiều, nhiều gàu: thiếu vitamin A, B6, kẽm, canxi. Nguồn: kienthuckhoahocvesuc khoe.com |
Con Chó Vện Và Người Tù Cải Tạo - Nguyễn Vĩnh Long Hồ
1 Attachment(s)
Con Chó Vện Và Người Tù Cải Tạo - Nguyễn Vĩnh Long Hồ
Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người “sinh Nam, tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm. Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn. Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sỹ ở lán 4. Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra. Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn. Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi! Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội CSBV quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 hôït và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa Cộng Sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa. Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường... Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, dấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà. * Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói: - “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!” Tôi hỏi: - “Vậy chớ, mầy định đi đâu?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực: - “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm! Mầy còn phải hỏi lôi thôi!” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói: - “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!” Đèo quả quyết nói: - “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.” Tôi nghi ngờ, hỏi: - “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?” - “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!” - “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi. Đèo nói, giọng quả quyết: - “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!” Tôi cười, nói: - “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để tao chuồn!” Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía. Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối: - “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...” Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên: - “Chờ tớ! Chờ tớ...” Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn: - “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!” Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng: - “Chó tới! Chó tới...” Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không phải “Chờ tớ!” thì đã muộn. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặc lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc! Tôi thét lên, cầu cứu: - “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...” Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được: - “Trúng chỗ nào vậy cha?” Tôi bực quá thét: - “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!” - “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước. “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!” Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước. Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy. Thế là thoát nạn! Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che phần dưới lại, sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dãi tội nghiệp! Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã từng chà xát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật đó! Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào! Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn: - “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!” Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can: - “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà!” Hắn đáp có vẻ rất tự tin: “Mầy yên chí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!” Tôi miễn cưỡng nói: - “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!” Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “Bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”. Mẹ kiếp! Sống ở Miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người. Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi, người tù cải tạo và “đồng chí vện”ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặc con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”... Tôi nhìn con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt âu yếm nhìn nhau...tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu. Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng xuất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.” Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông anh càng ngày tròn trịa ra. Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn tóm tèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện... Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, hưng Đèo cương quyết ngăn cản. Hắn nói: - “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!” * Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ. Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc. Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy...Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!” Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh. Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi: - “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!” Tôi nói: - “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!” Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói: - “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?” - “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên, tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!” - “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi. Ông cụ thở dài, nói: - “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ!” Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi: - “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?” Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi: - “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?” - “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?” - “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói. - “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát. “Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!” Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói: - “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc “con nhọng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!” Ông cụ nghe đến thuốc “con nhọng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó sơi nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bật thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa. Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc “Reostop” còn đủ 10 viên rồi dấu dưới gối. Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu,ï rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò: - “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy!” Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho chính bản thân mình. Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị là cựu thiếu tá Trần Sỹ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến sĩ, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm. Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm. Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng - một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên “Reostop” của Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn... Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại thuốc nầy? * Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ. Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm. Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa... Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài não nuột; đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau với Việt Cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: “Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt Cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo. Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi mệt mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai. Tôi nghe cả láng hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi! Đèo chết rồi!...”. Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô; hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù... * Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt còn có Trương Đăng Sỹ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách trại khoảng 2 cây số. Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh. Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về; hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi! Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cỏng trại. Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng. Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và thương mến. Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!”. Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó với tôi chăng? Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa đấy! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu!” Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối. Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn. Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường. Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung Quạnh hiu vằng vặc vây quanh mộ Rên rỉ bầy ve tiếng não nùng Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy Bao la rừng núi, suối trời mây Người đi vĩnh viễn đã yên phận Ngàn dặm người thương đâu có hay! Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời Công danh phú quí lá vàng rơi Than ôi! Thành bại đều chung cuộc Tuần tự rồi ai cũng thế thôi! Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật mình: - “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?” Tôi nhanh trí, đáp: - “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.” Hắn nói: - “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.” - “Được, việc gì thế?” tôi hỏi. Hắn nói như ra lệnh: “Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!” Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn đau. Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn. * Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi. Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và lạnh đến rét run. Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương. Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí. Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi: - “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ nó đi nhá!” Có tiếng quát vọng xuống: - “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!” Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới: - “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!” Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ: - “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!” Tôi vội vàng đính chính ngay: - “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!” Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói: - “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?” Tôi buông thỏng một câu: - “Đèo chết rồi!” Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn: - “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?” - “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!” Bà cụ nói: - “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhọng” của anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình nhỉ?” Tôi buộc lòng phải thú thật, nói: - “Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!” Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run: - “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!” Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình: - “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!” Tôi hỏi: - “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?” Cụ Trừng giải thích: - “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.” Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa: - “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!” Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn Lãnh đạo Cộng Sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam. Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao!” Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại Miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. * Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sỹ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN! Nguyễn Vĩnh Long Hồ |
Trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975
![]() Sau ngày ký Hiệp định Paris, miền Nam Việt Nam mạnh hơn miền Bắc. Tháng 11 năm 1972 TT Nixon vội cho chuyên chở tới VNCH gần 600 máy bay các loại gồm: 208 máy bay phản lực gồm chiến đấu và oanh tạc cơ loại nhẹ và khoảng 360 trực thăng các loại, 23 phi cơ thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh 175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48 (Nixon No More Vietnams trang 170-171). Trận Ban Mê Thuột tháng 3-1975 Trong khi ấy BV bị thiệt hại nặng và thảm bại trong trận muà hè đỏ lửa, tính tới tháng 9/1972 có vào khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh CS bị giết, khoảng 700 chiến xa bị phá hủy (Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 587), ngoài ra trận oanh tạc dữ dội Giáng sinh 1972 bằng B-52 đã gây thiệt hại rất nặng cho hạ tầng cơ sở BV như kho hàng, đường xe lửa, nhà máy điện, phi trường…. Mặc dù mạnh hơn miền Bắc rất nhiều nhưng miền Nam không được phép đánh ra Bắc mà chỉ được ở yên trong thế tự vệ chờ địch tới, điều này ai cũng biết cả. Khoảng gần một năm sau tình hình bắt đầu thay đổi, cán cân quân sự nghiêng về phía BV. Ngay sau khi ký Hiệp định Paris, CSBV vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định, chiến tranh vẫn tiếp diễn, trong khi miền Nam VN bị cắt quân viện dần dần , miền Bắc vẫn được CS quốc tế tiếp viện dồi dào, về chi tiết tôi sẽ nói sau. Cuộc chiến tranh giữa hai miền là một cuộc chiến viện trợ tiếp liệu, cả hai bên đều không tự sản xuất được vũ khí đạn dược mà phải tùy thuộc vào quân viện bên ngoài, bên nào nhiều tiếp liệu, vũ khí đạn dược thì bên đó thắng. blank Tình hình chung hai bên Năm 1973 có thể chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn từ Hiệp Định Ba Lê 28/1 cho tới tháng 10/1973 và giai đoạn bạo lực cách mạng sau tháng 10/1973. Từ sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê đến tháng 10/1973 tình hình tương đối yên tĩnh. Tháng 6/1973 Quốc hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương Việt, Miên, Lào. Ngày 1/7/1973 Nixon ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8/1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10/1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (War Powers Act), Tổng Thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Thấy thời cơ thuận lợi đã tới, Bắc Việt bèn thay đổi đường lối đấu tranh từ chính trị sang quân sự bạo lực. Đại Hội 21 của Bộ Chính Trị tại Hà Nội trong tháng 10 quyết định đấu tranh quân sự, trước hết tiến đánh các đồn bót lẻ tẻ, phát triển tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn Theo Henry Kissinger (Years of Renewal trang 478) sau khi ký Hiệp định Paris, BV bắt đầu cho xây hệ thống đường xâm nhập tiếp liệu chằng chịt dài tổng cộng 20 ngàn km từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, rộng 8m, hàng ngàn km ông dẫn dầu cung cấp cho hàng chục ngàn xe vận tải. Sau Hiệp định khoảng gần một năm, Quốc hội Mỹ cắt giảm quân viện xương tủy VNCH mỗi năm 50%, từ 2,1 tỷ tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975, con số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá (theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Dưới thời TT Nixon, chính phủ đã đề nghị Quốc hội cấp 1 tỷ 4 viện trợ quân sự cho miền nam VN năm 1975, Ủy ban quốc phòng Thượng viện do Nghị sĩ John Stennis làm chủ tịch cắt bớt còn 1 tỷ, nay dưới thời TT Ford Ủy ban chuẩn chi Thượng viện do Nghị sĩ John McClellan làm chủ tịch cắt 300 triệu còn 700 triệu (Years of Renewal trang 472). Theo bản tin của BBC.com ngày 10/5/2006 một buổi hội thảo qui mô tổng kết cuộc chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 14 và 15/4/2006. Trong số các bài đọc ở hội thảo, tác giả Trần Tiến Hoạt và Lê Quang Lạng thuộc Viện Lịch sử Quân sự Cộng sản Việt Nam có bài tham luận về nguồn chi viện của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa dành cho miền Bắc trong cuộc chiến. Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung Cộng viện trợ 684,666 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí. Như vậy số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau. Theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn Đánh hơi thấy Mỹ quẳng miếng xương Đông Dương, CS quốc tế và CSVN nhanh tay ra vồ ngay lấy. Cuối tháng 10/1974 Bộ Chính Trị Hà Nội quyết định kế hoạch tác chiến năm 1975, tranh thủ bất ngờ, tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành Tổng công kích. Trong giai đoạn 1969-1972 sự vận chuyển súng đạn của CS vào Nam gặp nhiều khó khăn vì bị không quân Việt-Mỹ ném bom, bắn phá nhưng kể từ sau ngày ký Hiệp Định Paris 1/1973, BV đã dùng 16 ngàn xe vận tải chở súng đạn qua xa lộ Đông trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh một cách tự do thoải mái nên giai đoạn 1973-1975 Hà Nội đã đem được nhiều vũ khí đạn dược vào Nam gấp mấy lần giai đoạn trước ( 1969-1972) Trong khi ấy Tổng Thống Thiệu không có một nhận định nào rõ ràng về lực lượng cũng như kế hoạch sắp tới của CS. Ngày 9/12/1974 , khoảng một tuần trước khi BV tấn công Phước Long, tại dinh Độc Lập trong một phiên họp cao cấp quân sự gồm Hội đồng Tướng lãnh và các vị Tư lệnh Quân khu, ông Thiệu cho biết trong năm 1975 BV có thể đánh với qui mô lớn nhưng không bằng năm 1968 và 1972, địch chưa có đủ khả năng đánh vào các thị xã lớn, dù đánh cũng không giữ được! BV chỉ đánh các thị xã nhỏ như Phước Long, Gia Nghĩa. Về điểm này Frank Snepp, trong Decent Interval, Tướng BV Văn Tiến Dũng và ông Cao Văn Viên đã ghi nhận gần giống nhau như vậy, ông Thiệu lạc quan cho rằng BV chưa phục hồi sau trận mùa hè đỏ lửa 1973. Từ tháng 10 năm 1974 Bộ Tổng Tham Mưu Bắc Việt đã trình bày kế hoạch tác chiến lên Bộ Chính Trị và Quân uỷ Trung ương, họ đã chọn chiến trường Cao Nguyên làm chủ yếu, Văn Tiến Dũng đã ghi nhận trong hồi ký. “Tháng 10 năm 1974, trời cuối thu bắt đầu lạnh, gợi cho các cán bộ quân sự chúng tôi nhớ đến mùa chiến dịch sắp đến. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp nghe Bộ Tổng tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược. . . . …Hội nghị nhất trí thông qua phương án của Bộ Tổng tham mưu, chọn chiến trường Tây nguyên làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn và rộng khắp năm 1975” (Đại thắng mùa xuân trang 24) BV cho rằng TT Thiệu đã bố trí lực lượng mạnh ở hai đầu, tại Quân khu 1 và 3 thì bố trí nhiều đơn vị chủ lực, nhiều chiến xa, đại bác và máy bay chiến đấu, còn tại Quân khu II ta chỉ để 2 Sư đoàn 22 BB và 23 BB. Quân khu II rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh, VNCH phải trải quân giữ đất nhiều nên khả năng phòng thủ yếu. Bộ chính trị CSBV đã đồng ý kế hoạch nêu trên và chọn Tây nguyên để làm hướng chiến trường chủ yếu trong cuộc tiến công năm 1975. Hà Nội đã chọn chiến trường Tây Nguyên (Quân khu II) làm chủ yếu vì tại đây lực lượng VNCH yếu hơn ba quân khu I, II, IV. Đại tá Phạm Bá Hoa nói hồi ông học tại trường Đại Học Quân Sự năm 1960 có được đọc một tài liệu nói “Trong chiến tranh Việt Nam, ai chiếm được cao nguyên miền Trung thì người đó sẽ nắm phần chiến thắng”, Cộng Sản cũng nói ai làm chủ Tây Nguyên thì làm chủ chiến trường. Bắc Việt chủ trương tấn công Quân khu II trước phần vì VNCH phòng thủ yếu tại đây vả nó là vị trí yết hầu. Một phần vì ông Thiệu không chủ trương giữ Quân khu II, một vùng cao nguyên cẵn cỗi mà trong thâm tâm đã có ý tưởng bỏ vùng núi rừng miền Trung rút quân về vùng đất mầu mỡ Quân khu III và IV, trên thực tế lãnh thổ quá rộng, không đủ lực lượng trừ bị để tăng cường Sau khi lựa chọn chiến trường Tây Nguyên, Bắc Việt lựa chọn địa điểm tấn công, tại buổi họp của Quân Uỷ Trung Ương Bắc Việt ngày 9/11/1974 Lê Đức Thọ tay trùm CSBV tham dự để nâng cao quyết tâm chiếm cho được Ban Mê Thuột, Thọ nói “Phải đăt vấn đề dứt khoát là giải phóng Buôn Ma Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Buôn Ma Thuột là thế nào?” (Sách đã dẫn Trang 31) Bắc Việt đã chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột từ bốn tháng trước ngày tấn công trong khi ta chưa có tin tức tình báo rõ rệt. Chiến dịch Tây nguyên được mang mật danh 275. Ngày 13/12/1974 Bắc Việt đưa gần ba Sư đoàn tấn công Phước Long, đến ngày 7/1 tỉnh này hoàn toàn lọt vào tay địch. Tổng số 4,500 binh sĩ, sĩ quan chỉ còn 850 người sống sót. Tỉnh trưởng Phươc Long. Quận trưởng Phước Bình mất tích, 3,000 trong số 30 ngàn dân trốn thoát, một số viên chức hành chánh bị CS hành quyết, thất bại tại Phước Long là đương nhiên vì một Tiểu đoàn bộ binh và 5 Tiểu đoàn địa phương quân không thể chống lại 3 Sư đoàn CS. Chính phủ VNCH không tăng viện cho Phước Long vì không đủ khả năng thực hiện tiếp tế, cứu viện bằng trực thăng vận từ Biên Hoà. Nói về mặt kinh tế chính trị Phước Long kém quan trọng hơn Tây Ninh, Pleiku, Huế… Hà Nội cho đánh Phước Long để thăm dò Mỹ, khi thấy Mỹ chỉ phản đối xuông thì họ làm tới. Sau trận Phước Long TT Thiệu biết chắc Cộng Sản sẽ đánh lớn tại Cao Nguyên đầu năm 1975 nhưng chưa biết chắc chỗ nào vì địch nghi binh tối đa. Phía VNCH không đoán được ý định của họ, theo Tướng Hoàng Lạc trước khi Văn Tiến Dũng vào Nam, Giáp đã dặn dò Dũng phải nghi binh tối đa để đánh lạc hướng Nguỵ. Tình hình chính trị quân sự VNCH năm 1975 rất là bi đát. Năm 1967 quân phí tại Việt Nam là 20 tỷ Mỹ Kim, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên 29 tỷ, hai năm 1970, 1971 rút xuống còn 12 tỷ mỗi năm vì Mỹ đang rút quân. Khi nửa triệu quân đồng minh đã rút đi, VNCH phải một mình gánh vác tất cả chiến trường với tiền viện trợ bị cắt giảm từ cuối 1973 mỗi năm 50%. Việc cắt giảm đưa tới tình trạng thê thảm, theo tiết lộ của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuốn Những Ngày Cuối Của VNCH (NNCCVNCH) trang 86, 87. Hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ. Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã dẫn trang 92) Theo sử gia Bill Laurie, cấp số đạn súng lớn như đại bác 105 ly, 155 ly, 175 ly.. năm 1975 đã bị cắt giảm trên 90% . Theo Tướng Cao Văn Viên vì thiếu cơ phận thay thế, xe tăng, giang thuyền, máy bay …nằm ụ chờ rỉ sét. Thiếu thuốc men, số tử vong tăng cao, tinh thần xuống thấp. Không quân VNCH năm 1975 có 2075 máy bay các loại, đứng thứ tư trên thế giới về số lượng. Binh chủng Thiết giáp có 2,200 chiến xa và thiết xa các loại. Pháo binh có khoảng 1,500 khẩu đại bác . Hải quân có 1,600 tầu chiến và giang thuyền các loại. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế nhiều máy bay, xe tăng.. hư hỏng thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ. Lục quân VNCH có hơn một triệu quân trong đó 40% là chủ lực quân vào khoảng 400 ngàn người gồm những lực lượng tác chiến và yểm trợ, 50% là ĐPQ , Không quân, Hải quân, Cảnh sát. Quân đội VNCH được tổ chức theo lối Mỹ, một người lính tác chiến có năm người yểm trợ như hành chánh tài chánh, quân y, quân trang, quân dụng. Trên thực tế lực lượng chiến đấu chỉ vào khoảng từ 170 cho tới 180 ngàn người. Lính nhà nghề chỉ có 13 Sư đoàn chủ lực và 17 Liên đoàn Biệt động quân tương đương khoảng hơn 2 Sư đoàn (trên thực tế một Liên đoàn có hơn 1000 người). Tổng cộng ta có vào khoảng 15 Sư đoàn chính qui (nếu kể cả BĐQ). Lực lượng được bố trí toàn quốc như sau. Quân khu Một: 5 Sư đoàn (1, 2, 3, Nhẩy Dù, TQLC), 4 Liên đoàn BĐQ. Quân khu Hai: 2 Sư đoàn (22, 23), 7 Liên đoàn BĐQ Quân khu Ba: 3 Sư đoàn (5, 18, 25), 4 Liên đoàn BĐQ Quân khu Bốn: 3 Sư đoàn (7, 9, 21) Địa phương quân VNCH năm 1975 có khoảng 325 ngàn người, Tổng cộng VNCH có 15 Sư đoàn chủ lực (nếu kể cả BĐQ) tức 45 trung đoàn, đem chia cho 44 tỉnh toàn quốc thì trung bình mỗi tỉnh chỉ có một Trung đoàn chính qui bảo vệ trong khi BV có khả năng tập trung hằng chục Trung đoàn để tấn công một địa điểm vì họ không phải trải quân giữ đất như Miền Nam. Theo ông Cao Văn Viên trên thực tế quân số VNCH thiếu hụt do nạn đào ngũ, mỗi năm mất khoảng một phần tư (1/4) quân số, ngoài ra ta cũng phải kể nạn lính ma lính kiểng. (NNCVNCH trang 79) Lực lương chính qui Bắc Việt năm 1975 gồm 4 Quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương một Quân đoàn). Mỗi quân đoàn gồm 3 sư đoàn và các lữ đoàn phòng không, pháo binh, thiết giáp, công binh.. Tổng cộng họ có 15 sư đoàn bộ binh, khoảng 6 trung đoàn đặc công và hơn 10 trung đoàn độc lập. Toàn bộ lực lượng tương đương với 20 Sư đoàn bộ binh chưa kể các đơn vụi cơ giới, yểm trợ So về lực lượng chính qui, nhân lực thì quân đội BV đã nhiều hơn quân đội VNCH , họ không phải phòng thủ, mỗi khi tấn công họ dồn lại tạo một mũi dùi mạnh. Trong khi đó Quân đội chủ lực VNCH đã ít hơn lại phải trải rộng từ Cà Mâu ra Bến Hải để giữ đất, như đã nói trên ta có 13 sư đoàn, kể cả 15 liên đoàn Biệt động quân thì có tương đương 15 sư đoàn hay 45 trung đoàn, miền nam có 44 tỉnh, trung bình một tỉnh chỉ có một trung đoàn bảo vệ. Theo hồi ký Văn tiến Dũng tại Cao nguyên về bộ binh BV đông hơn VNCH 5 lần, pháo binh gấp 2 VNCH (sách đã dẫn trang 49) vì họ tập trung Khoảng 80% chủ lực quân CSBV đã có mặt tại miền Nam đầu năm 1975, họ để lại Quân đoàn 1 (gồm 3 Sư đoàn) tại miền Bắc làm lực lượng tổng trừ bị. Sau khi Quân khu II và I của VNCH sụp đổ, Bắc Việt đưa hết cả 3 Sư đoàn trừ bị vào Nam. Trong giai đoạn 1973-1975 Hà Nội cho chuyên chở vũ khí vào Nam thoải mái vì không bị oanh kích nên số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của họ tại miền Nam nhiều gấp hai hoặc gấp ba lần năm 1972. Pháo binh và Thiết giáp BV đưa vào Nam được ước lượng không chính xác khoảng hơn 500 khẩu trọng pháo và hơn 500 xe tăng. So sánh với tình hình năm 1972 ta thấy năm 1975 quả là bi đát, năm Quân khu II gồm 12 tỉnh, diện tích rộng lớn nhất, bằng nửa Việt Nam Cộng Hoà mà chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22 và 23) và 7 Liên đoàn Biệt động quân bảo vệ, toàn bộ lực lượng chưa tới ba Sư đoàn là nơi yếu thế nhất đã được BV chiếu cố tấn công. Quân khu II dân số trên 3 triệu gồm các tỉnh Cao nguyên Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Lâm Đồng, Quảng Đức, Phú Bổn, Tuyên Đức, phía Đông là các tỉnh duyên hải gồm Bình định, Khánh Hoà, Bình Thuận… có 3 thành phố chính là Nha Trang, Qui Nhơn, Tuy Hòa, dân số tại đây thưa thớt hơn các quân khu khác. Sư đoàn 23 BB bảo vệ Cao nguyên, sư đoàn 22BB chịu trách nhiệm các tỉnh duyên hải. Diễn tiến trận đánh Tư Lệnh Quân đoàn II Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh phó Quân đoàn Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm, Tư Lệnh phó Quân khu Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, Tham mưu trưởng Đại tá Lê Khắc Lý. Tại Ban Mê Thuột chủ lực quân của VNCH gồm 2 Tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung đoàn 53 đóng tại phi trường Phụng Dực (có nhân chứng nói chỉ có một tiểu đoàn) và ba Tiểu đoàn Địa phương quân. Theo Bút ký của Nguyễn Định, Ban Mê Thuột như một thành phố bỏ hoang, các đơn vị chủ lực đã được đưa tăng cường cho Pleiku và các nơi khác. Cũng theo ông này lực lượng của ta tại đây kể cả Nghĩa quân, Cán bộ xây dựng nông thôn, Nhân dân tự vệ cũng không quá 2,000 người. Con số Nguyễn Định đưa ra có lẽ quá thấp vì quân số tại các tỉnh nhỏ như Phước Long, Bình Long đã vào khoảng trên dưới 3,000 người, lực lượng VNCH tại Ban Mê Thuột chắc hẳn không dưới 3,000 hoặc 4,000 người vì đó là một tỉnh lớn. Lực Lượng CS tại Quân khu II theo tài liệu Bắc Việt như sau: “Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm: 5 sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 trung đoàn bộ binh (25, 271, 95A, 95B), trung đoàn đặc công (14, 27), trung đoàn xe tăng- thiết giáp 273, 2 trung đoàn pháo binh (40, 675), 3 trung đoàn phòng không (232, 234, 593), 2 trung đoàn công binh (7, 575), trung đoàn thông tin 29, 6 tiểu đoàn vận tải, nhiều đơn vị bảo đảm của Bộ và lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh diễn ra chiến dịch. Riêng lực lượng Mặt trận Tây Nguyên tham gia chiến dịch gồm 36 tiểu đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn đặc công, 13 tiểu đoàn pháo mặt đất, 18 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp với tổng số quân 44.900 người. Về vũ khí trang bị: có 88 pháo lớn, 1.561 súng chống tăng và hàng vạn súng bộ binh, 6 cơ cấu bắn B-72, 343 súng phòng không, 32 xe tăng, 25 xe bọc thép, 679 xe ô tô các loại. Ngoài ra còn có 21.800 cán bộ chiến sĩ làm lực lượng dự bị ở phía sau và hoạt động ở các hướng khác. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: Hoàng Minh Thảo (Tư lệnh), Đặng Vũ Hiệp (Chính uỷ) Trich trong: Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.) Như thế lực lượng CS tại Cao nguyên gồm 5 Sư đoàn BB và 4 Trung đoàn độc lập tương đương với 6 Sư đoàn, gấp hơn hai lần chủ lực quân VNCH, tổng số nhân lực kể cả lực lượng dự bị là 66,700 người. Bắc Việt đã được Nga, Tầu viện trợ cho nhiều vũ khí tối tân, ngoài ra họ còn được trang bị nhiều hoả tiễn tầm nhiệt hiện đại. Theo nhận định của phía CS, họ tập trung lực lượng tại khu vực chủ yếu nên tại đây bộ binh BV đông hơn VNCH gấp 5 lần, xe tăng coi như ngang nhau, pháo binh gấp 2. (Hồi ký ĐTMX Văn tiến Dũng trang 49) Ngày 5/2/1975 Văn Tiến Dũng từ phi trường Gia Lâm đáp máy bay xuống Đồng Hới rồi vào Quảng Trị, tới sông Bến Hải, y đi xuồng máy tới Bộ chỉ huy chiến dịch tại phía Tây Gio Linh để chỉ đạo toàn bộ chiến dịch. Ban Mê Thuột là tỉnh lỵ của Darlac, dân số 250,000 người gồm Kinh, thượng, Tầu và các chủ đồn điền Pháp và Ý, (cũng có tài liệu nói dân số 150,000 người), thị xã gồm 60,000 người. Tỉnh có nhiều đồn điền cà phê, cao su, nhiều thắng cảnh đẹp, nhiều gỗ quí, dân chúng đa số sống bằng nghề trồng trọt, làm đồn điền. Ban Mê Thuột có vị trí chiến lược quan trọng, phía bắc nối liền Pleiku, Kontum, Phú Bổn.. phía Nam đi Quảng Đức, Phước Long, phía Đông nối liền Nha Trang. Trước khi mặt trận diễn ra, theo Nguyễn Trọng Luật, tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, BV đưa những tin tức giả qua điện thoại để nghi binh, kế đó tấn công bất ngờ, đông đảo, nghi binh tối đa, họ vờ đánh Pleiku để nhử quân đội VNCH lên giải toả rồi cắt các đường dẫn đến Ban Mê Thuột, chiếm phi trường sau cùng ba mặt giáp công. Các Trung đoàn, Sư đoàn BV cắt các đường giao thông 19, 14, 21 nghi binh thu hút quân đội VNCH về phía Bắc (tức Pleiku) sau đó ồ ạt tấn công thị xã Ban Mê Thuột. Theo hồi ký Văn tiến Dũng BV không đóng quân sẵn ở vị trí xuất phát tấn công mà tập kết từ xa vận động đến, chuyển quân bằng xe molotova, đây là lần đầu tiên BV đánh trận bằng xe hơi. BV bỏ qua vòng ngoài bất ngờ thọc sâu vào thị xã phối hợp với lực lượng đặc công đã có sẵn trong thị xã, rồi từ đó đánh ra ngoài, họ không đánh theo lối bóc vỏ. (Sách đã dẫn trang 69) Ngày 1/3/1975 Sư đoàn 968 Bắc Việt chiếm đồn bót gần Thanh An, pháo kích phi trường Cù Hanh, Pleiku. Ngày 3/3 Trung đoàn 95 và Sư đoàn 3 CS ngăn chận quốc lộ 19 tại An Khê. Ngày 5/3 Trung đoàn 25 CS cắt Quốc Lộ 21 giữa Phước An và Khánh Dương, cắt đường Nha Trang-Ban Mê Thuột. Tướng Phú cho tăng cường Trung đoàn 45 tại Thanh An và cho 2 Tiểu đoàn BĐQ và thiết giáp giải toả quốc lộ 19. Ngày 7/3 Sư đoàn 320 CS chiếm Thuần Mẫn, ngày 9/3 Sư đoàn 10 CSBV tấn công Đức Lập, Quảng Đức, căn cứ núi lửa bị tràn ngập. BV cô lập Ban Mê Thuột cả Bắc và Nam mà Tướng Phú vẫn cho là địch sẽ đánh Pleiku, ông lại nghĩ chúng nghi binh vờ đánh Ban Mê Thuột. Tuy nhiên theo đề nghị của Bộ tư lệnh Quân đoàn ông đã cho trực thăng vận 2 tiểu đoàn BĐQ thuộc Liên đoàn 21 từ Kontum đến Buôn Hô cách 30 km ở phía Bắc Ban Mê Thuột. Sự sai lầm của Tướng Phú đã được CS khai thác triệt để, họ nghi binh tối đa để đánh lừa ông và gọi đây là cuộc chiến tranh cân não. Ngày 9/3 Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột đã triệu phiên họp khẩn cấp tại toà hành chánh và báo động đỏ, cắm trại 100%. Hai giờ sáng ngày 10/3 đặc công Việt cộng trong thị xã đột nhập phi trường phá huỷ một máy bay, 3 Sư đoàn CS 316, 10, 320 với ba mũi tấn công thị xã phối hợp với đặc công đã nằm bên trong. CS pháo kích ầm ầm như phong ba bão táp vào các vị trí của quân trú phòng rồi đưa xe tăng, xe kéo pháo, phòng không, quân xa.. ồ ạt tiến về thị xã từ xa, lần đầu tiên BV đánh trận bằng xe hơi. Trận bão lửa đã được Nguyễn Định ghi nhận . “…Tiếng rít của hoả tiễn và đạn đạo 130 ly khủng khiếp như xé cả không gian mà người ta thực sự chưa từng nghe thấy một lần trong đời. Những tiếng nổ cứ liên tục như những dây pháo đại không ngừng, làm vỡ tung hết các cửa kiếng và rung chuyển cả thành phố như cảnh tượng động đất được thấy trên màn bạc . . Thành phố đã như con tầu chao nghiêng trong bão tố.”(Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.) Theo hồi ký Văn Tiến Dũng (trang 69), trong một đêm BV đã đưa được một lực lượng đông đảo 12 Trung đoàn gồm bộ binh và các đơn vị xe tăng, pháo binh, phòng không.. khoảng ba Sư đoàn vào trận địa đúng thời gian. Họ bỏ qua các đồn bót dọc đường, tiến về thị xã, bắc phà cho cả đoàn xe vượt sông Serepok, các mũi tiến công đã tiến vào đúng thời gian. Địch chia làm 3 mũi tấn công, mũi thứ nhất đánh trại Mai Hắc Đế, cánh thứ hai đánh phi trường Phụng Dực (có 2 Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 53) tại đây 4 xe tăng bị bắn cháy, 200 tên địch bị hạ, cánh thứ ba đánh phi trường L19 để tiến vào thị xã tấn công tiểu khu, khi vào thị xã 10 xe tăng đã bị ĐPQ bắn cháy. Vào buổi chiều Cộng quân chiếm được một nửa thành phố, ĐPQ, nghĩa quân, cảnh sát vẫn chiến đấu anh dũng tại nhiều nơi. Tướng Phú cho trực thăng vận Liên đoàn 21 BĐQ xuống Buôn Hô từ đó hành quân vào thị xã tiến chiếm Tiểu khu Ban Mê Thuột nhưng Liên đoàn không đạt được mục tiêu vì sự điều quân vị kỷ của Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB. Nhiều tài liệu và nhân chứng cho thấy ông điều động Liên đoàn 21 đưa gia đình, vợ con ông về Trung tâm huấn luyện cách Ban Mê Thuột vài cây số để ông đưa trực thăng xuống bốc đi. Cảnh hoang tàn ghê rợn của thành phố đã được Nguyễn Định mô tả như sau. “Mười sáu giờ ngày thứ hai 10 tháng 3 năm 1975, Cộng quân hoàn toàn làm chủ tình hình tại thị xã Ban Mê Thuột, ngoại trừ khu vực Bộ tư lệnh sư đoàn 23 bộ binh còn được trấn giữ. Trong thành phố tiếng súng nổ đã im, nhưng cảnh hoang tàn của thị xã thật không cách nào tả cho xiết. Những khu phố bị cháy không ai dập tắt. Đóm lửa, tro tàn, và bụi khói bao phủ khung trời thị xã như một màn sương đục. Mặt đường lỗ loang những dấu đạn cầy. . . . Rải rác trên các khu phố những vũng máu và thây người, kẻ bị thương, bị chết không ai săn sóc. Thị xã không hẳn là bãi tha ma, mà là hỗn độn của một thế giới nửa sống nửa chết.” (Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, bút ký.) Và dưới đây lúc sáu giờ chiều. “Trong nội vi thị xã, cho đến 6 giờ chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, trận chiến được coi như kết thúc. Thành phố bây giờ như một bãi tha ma, chứa đầy tử khí. Những đống tro tàn của nhiều khu phố bị cháy, bụi khói và gạch vụn gợi cho người ta cái cảm xúc của một chiến trường tàn cuộc lạnh lẽo rợn người”. ( Nguyễn Định, BMTNĐCC.) Sáng 11/3 không quân oanh tạc lầm vào Bộ Chỉ Huy của Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột cắt đứt liên lạc với Quân đoàn II. Bắc Việt cho tăng cường Sư đoàn 320 tiếp tục tấn công phi trường Phụng Dực, Trung đoàn 53 cầm cự đến ngày 17/3 thì chấm dứt, Phạm Huấn cho biết họ chiến đấu quả cảm tới người cuối cùng, nhưng cũng có tài liệu nói một số ít thoát ra khỏi vòng vây chạy vào rừng. Nguyễn Định nói các lực lượng trú phòng như ĐPQ, nghĩa quân, Cảnh sát đã chiến đấu hết sức mình nhưng phải chịu thua trước số đông áp đảo của địch. Ngày 11/3 Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23 lập kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột. -Trung đoàn 45 được trực thăng vận từ đèo Tử Sĩ đến quận Phước An để tiến vào hướng Đông thị xã. - Liên đoàn 7 BĐQ được không vận từ Sài Gòn ra thay trung đoàn 44, Trung đoàn này sẽ được trực thăng vận tới Phước An. Ngày 13/3 Trung đoàn 45 tiến về Ban Mê Thuột bị chận đánh cầm chân tại vòng đai thị xã, Liên đoàn 21 Biệt động quân bị đánh rút ra khỏi phi trường L19, cuộc trực thăng vận Trung đoàn 44 bị hủy bỏ, pháo binh chỉ còn hai khẩu 105 ở Phước An, không quân gặp nhiều khó khăn vì BV xử dụng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7. Ngày 15/3 Tổng thống Thiệu hủy bỏ kế hoạch tái chiếm và cho lệnh rút khỏi Phước An. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 thất vọng nói “ không có một tia hy vọng nào giải cứu Ban Mê Thuột”. Cuộc phản công tái chiếm Ban Mê Thuột thất bại vì ta không đủ lực lượng vả lại các đường dẫn vào Ban Mê Thuột đã bị cắt hết. Nguyên nhân, hậu quả BV lấy được nhiều chiến lợi phẩm của VNCH, Cục trưởng hậu cần BV khoe là họ đã lấy được nhiều lương thực, xe cộ, nhiều đạn trong kho Mai Hắc Đế, Ban Mê Thuột. Tác giả Nguyễn Đức Phương đã nhận xét về diễn tiến trận đánh chiếm Ban Mê Thuột của Cộng quân như sau. “Do những thất lợi về phương tiện vận chuyển và yếu tố quân số của QLVNCH, kế hoạch tấn công Ban Mê Thuột của Tướng Văn Tiến Dũng khá đơn giản, bao gồm hai yếu tố bí mật bất ngờ và tập trung đông quân số để áp đảo địch quân. Đầu tiên đánh vào một số diện tại quân khu 2 để lôi cuốn các đơn vị QLVNCH có nhiệm vụ giải toả. Sau đó cắt đứt các trục lộ giao thông chính dẫn đến mục tiêu đồng thời chiếm các phi trường để ngăn chận tiếp viện bằng đường hàng không để sau cùng cường tập tiêu diệt điểm với chiến thuật ba mũi giáp công” (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 716.) Hậu quả của trận Ban Mê Thuột không thể lường trước được. Một ngày sau khi BV tấn công Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thịêu mở phiên họp tại Dinh Độc Lập ngày 11/3 gồm Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Quang, Phụ tá an ninh Quốc Gia. Nội dung nói về kế hoạch di tản Quân khu I và II về giữ Quân khu III và IV và chỉ giữ một phần duyên hải Vùng II vì lãnh thổ quá rộng không đủ lực lượng bảo vệ. Ngày 14/3 trong một phiên họp tại Cam ranh với Hội Đồng Tướng Lãnh ông Thiệu quyết định di tản toàn bộ chủ lực thuộc Quân đoàn II về duyên hải qua tỉnh lộ 7. Trận Ban Mê thuột mở đầu cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Việt Nam. BV có yếu tố bất ngờ, bảo mật, Ban Mê Thuột không thuận lợi cho việc phòng thủ. Từ tháng 2/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đã báo cáo tin tức cho thấy BV chuẩn bị đánh Ban Mê thuột do tù binh, hồi chánh viên khai báo kế hoạch của địch. Các cuộc hành quân Phượng Hoàng của Cảnh sát, nghĩa quân, những người khai thác lâm sản… đã báo cáo cho chính quyền Ban Mê Thuột biết tin tức về địch xuất hiện gần thị xã. Khi Tồng thống Thiệu đến ăn Tết với Trung đoàn 44, Trung tá Trưởng phòng 2 Sư đoàn 23 đã trình lên Tổng thống, ông bèn lệnh cho Tướng Phú điều Sư đoàn 23 trở lại Ban Mê Thuột nhưng Tướng Phú tin Cộng quân sẽ đánh Pleiku, chúng giả vờ nghi binh tại Ban Mê Thuột. Tướng Nguyễn cao Kỳ sau này cho biết chúng ta không bị bất ngờ khi CS tấn công Ban mê Thuột, ông Cao Văn Viên đã được thông báo cho biết kế hoạch đánh Ban Mê Thuột, theo ông Kỳ Tướng Viên đã bàn với Tướng Thiệu, Phú về kế hoạch phòng thủ Ban Mê thuột. Tướng Phú cứ nhất quyết ông nắm vững tình hình, địch sẽ đánh Pleiku, sự thực ông đã mắc kế nghi binh của CS, không ai cản được ông ấy. Bộ TTM của QĐVNCH đã cảnh báo Tướng Phú coi chừng BV đánh Ban Mê Thuột nhưng ông vẫn khăng khăng địch sẽ đánh Pleiku. Theo Đại tá Nguyễn Trọng Luật, CS biết phía VNCH hay nghe lén truyền tin của họ và họ đã đưa những tin giả để đánh lừa ta. Tướng Phú đã mắc lừa kế nghi binh của CS, theo Tướng Hoàng Lạc trước ngày Văn Tiến Dũng lên đường vào Nam, Võ Nguyên Giáp đã dặn Dũng phải nghi binh tối đa để đánh hoả mù. Yếu tố bất ngờ của Ban Mê Thuột cũng như Tết Mậu Thân ở chỗ không ai tiên đoán được tầm mức rộng lớn của nó. Bộ Tư lệnh Quân đoàn II không thể ngờ được Bắc Việt đã đưa vào Quân Khu II đến 6 Sư đoàn vì thiếu tin tình báo, không đánh giá đúng mức lực lượng địch Yếu tố địa hình Ban Mê Thuột không có chướng ngại thiên nhiên như Kontum để trì hoãn sự tiến quân của CSBV, diện tích rộng hơn Kontum Pleiku nhiều. Ban Mê Thuột trên thực tế không có vòng đai phòng thủ liên tục, quá nhiều đồn điền san sát nhau, địch có thể lợi dụng ngụy trang. Những cánh rừng già phía Tây Bắc đã được công binh CS chuẩn bị sẵn. Tại Ban Mê Thuột tấn công bằng chiến xa rất khó, Pleiku với những đồi thoai thoải dễ hơn nhưng BV đã cho công binh dọn đường trước, họ cưa 2 phần 3 các gốc cây lớn, cây không bị đổ, máy bay thám thính ở trên cao nhìn xuống không thấy dấu hiệu gì, CS ngụy trang rất khéo ngay từ thời chiến tranh Việt Pháp 1946-1954 cũng vậy. Khi mặt trời lặn chiến xa cứ việc ủi sập cây mà tiến vào thị xã dễ dàng. Hai giờ sáng Cộng quân pháo ầm ầm vào thị xã như vũ bão để che lấp tiếng động cơ xe chạy, đến 7 giờ xe tăng địch đã vào trong thành phố. Tướng Phú mới lên nhậm chức Tư lệnh quân đoàn có vài tháng nên không nắm vững tình hình cho lắm, không có uy tín với Bộ Tổng tham mưu. Ông nhậm chức Tư lệnh quân khu ngày 5/11/1974 do Phó Tổng thống Trần văn Hương đề nghị thay thế Tướng Nguyễn Văn Toàn bị kết án tham nhũng, không do Tổng Tham mưu trưởng đề nghị nên trước khi ra đơn vị, lên trình diện Bộ Tổng Tham mưu đã không được Tướng Cao Văn Viên tiếp đón. Theo Phạm Huấn, Quân đoàn II lủng củng nội bộ, nhiều sĩ quan cao cấp tại Quân đoàn vô kỷ luật, bất mãn không hợp tác với Tướng Phú, ông mới nhậm chức chưa đủ thời gian nắm vững tình hình. Ngoài ra 2 tháng trước khi sẩy ra trận Ban Mê Thuột, theo Nguyễn Đức Phương quân số Quân đoàn II không tới 70%, thiếu tiểu đội trưởng. Tham mưu trưởng với Bộ tham mưu bất hợp tác, hai Tướng phó tư lệnh hữu danh vô thực, các đơn vị chỉ phòng ngự mà không có một cuộc hành quân thăm dò nào để tìm diệt địch. Nhiều người qui trách nhiệm cho Tướng Phú đã để mất Ban Mê Thuột, Phạm Huấn cho rằng ông không đủ khả năng nắm giữ một Quân đoàn. Mặc dù đã có tin tức tình báo cho hay Việt Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, ngay cả Tướng Viên và ông Thiệu đã nhắc nhở Tướng Phú coi chừng Việt Cộng tấn công Ban mê Thuột nhưng ông vẫn nói mình nắm vững tình hình, vẫn một mực tin rằng địch sẽ đánh Pleiku, không ai cản được ông vì đã bị mắc lừa kế nghi binh của CS. Dư luận chung của giới chức cao cấp quân sự và các ký giả, sử gia.. đều cho rằng Tướng Phú là người không đủ khả năng để chỉ huy một đại đơn vị nên đã để mất Ban Mê Thuột. Ông Cao Văn Viên cho rằng việc thay đổi chức vụ Tư Lệnh Quân khu II là một trong những nguyên do đưa tới sự thất thủ Ban Mê Thuột, ý ông nói cựu Tư lệnh Quân khu II Nguyễn Văn Toàn có nhiều kinh nghiệm và khả năng hơn Tướng Phú. Ngoài ra tại Quân khu II lực lượng BV rất mạnh, họ đã đưa vào chiến dịch Tây nguyên tới gần 6 Sư đoàn trong khi ta chỉ để 2 Sư đoàn chủ lực và 7 Liên đoàn Biệt động quân lại phải trải ra phòng thủ nhiều nơi trong Quân khu. Theo Nguyễn Đức Phương dù biết trước Ban Mê Thuột bị tấn công để tăng cường yểm trợ cũng khó mà giữ được, VNCH chỉ có thể đưa tới mặt trận một, hai Trung đoàn hoặc một vài Liên đoàn biệt động quân vì không còn quân trừ bị, cái khó nó bó cái khôn. Nguyễn Đức Phương cho rằng qua kinh nghiệm Mùa hè đỏ lửa 1972, mặc dù đã tập trung Sư đoàn 23 BB tại Kontum nhưng việc phòng thủ khó có thể thành công nếu không có yểm trợ của máy bay chiến lược B-52, mặt trận Ban Mê Thuột chỉ có sự yểm trợ của không quân chiến lược B-52 mới có thể cứu vãn tình thế, nhưng từ nay yểm trợ của B-52 không bao giờ có được. Như đã nói ở trên lực lượng hai bên đã rất chênh lệch CS lại đánh lén, thì họ phải thắng. Theo Nguyễn Đức Phương nếu biết trước và tăng cường yểm trợ để gây tổn thất nặng nề cho BV thì có thể giảm bớt áp lực địch tại các mặt trận khác hy vọng không đưa tới tình trạng hốt hoảng hỗn loạn dây chuyền đưa tới sụp đổ. Chúng ta có thể kết luận Ban Mê Thuột thất thủ vì. -Lực lượng và hỏa lực hai bên quá chênh lệch, BV đã đưa vào trận địa khoảng 3 Sư đoàn, gấp mười lần quân trú phòng trong khi VNCH chỉ có hai tiểu đoàn (1, 3) thuộc Trung đoàn BB 53, còn lại là phụ lực quân, cảnh sát. Trận giội bão lửa được Văn tiến Dũng kể lại trong hồi ký (trang 68) và Nguyễn Định trong bút ký cho thấy hỏa lực địch áp đảo của địch - Sự sai lầm của Tướng Phú khi cho rằng CSBV tấn công Pleiku trước, ông đã mắc lừa kế nghi binh của đối phương. -Lãnh thổ rộng thu hút gần hết chủ lực quân, lực lượng tổng trừ bị không còn. -Chủ lực quân VNCH tại quân khu II thiếu hụt không đủ để chống lại áp lực mạnh của BV -Thiếu tin tức tình báo. Nhưng phải nói rằng yếu tố chính là VNCH đã bị cắt giảm hỏa lực tới xương tủy. Trước đó vài tháng, tại Phước Long quân đội VNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ đạn dược. Mấy tuần sau khi Phước Long mất, ngày 24 và 25/1/1975 TT Thiệu gửi hai bức thư cho TT Ford phản đối CSBV tấn công chiếm Phước Long vi phạm trắng trợn Hiệp định Paris. Kissinger trong Years of Renewal trang 490 nói TT Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm hầu còn đạn xử dụng Trận Ban Mê Thuột đã đưa tới sụp đổ Quân đoàn II và những sụp đổ kế tiếp lớn lao hơn thế, đó là một khúc quanh bi thảm trong cuộc chiến tranh dài nhất của thế Kỷ. © Trọng Đạt Tài Liệu tham khảo. Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001. Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam. Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003 Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975, Cali 1988. Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, Texas 1990 Trần Đông Phong: Việt Nam Cộng Hoà, 10 Ngày Cuối Cùng , Nam Việt 2006. Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005. Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005. Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999 Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985 Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing. Stanley Karnow: Viet Nam, A History, A Penguin Books 1991. Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Viet Nam War, A history in documents, Oxford University Press 2002. Nguyễn Định: Ban Mê Thuột Ngày Đầu Cuộc Chiến, doanket.orgfree.com Nguyễn Trọng Luật: Nhìn Lại Trận Đánh Ban Mê Thuột,doanket.orgfre e.com Trần Gia Lương: Một Cái Nhìn Về Tướng Phạm Văn Phú, Sài Gòn Nhỏ Dallas 2004 Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn Ai Mất, Người Việt Dallas số 7-10-2005. Nguyễn Kỳ Phong: Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam: Người Việt Dallas 21-6-2006 Lewis Sorley: Lịch Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas số 26-4-2006. Trước Sau In Trang Gửi ý kiến của bạn Tên của bạn Email của bạn 1234567Trang sauTrang cuối sai-gon-xua Ai đã đặt tên cho các đường phố Sài-Gòn trước 1975? Vũ Linh Châu & Nguyễn Văn Luận 08 Tháng Năm 2018(Xem: 1688) Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính kèm của tác giả Nguyễn văn Luận, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử này đã được hoàn thành bởi… một người. Một vài nhận xét về Giáo dục tại Việt Nam và Hoa Kỳ- Đỗ Thế Vinh 27 Tháng Hai 2019(Xem: 111) Tôi rất hy vọng những nỗ lực và thành quả của giới trí thức tỵ nạn Việt Nam như bộ Dòng Việt (GS Lê Văn), sách và bài viết về ngữ học, văn phạm |
NGỒI XUỐNG ĐÂY
![]() Ngồi xuống đây tao đút mầy lần cuối Để mai nầy biết có gặp nữa không Nợ trần gian nợ cơm áo chất chồng Tao bương chải đời long đong vô định Ngồi xuống đây giữa tâm tình người lính Đừng nghĩ gì những toan tính thế gian Tao với mầy từng vượt những gian nan Đã sống chết _ Lầm than _ Và tủi nhục Ngồi xuống đây tao đút mầy thêm chút Cũng như mầy ngày xưa đút cơm tao Giữa Cổ thành tiếng quân dậy lao xao Tao gục xuống và mầy lao ra cứu Tao biết lắm mầy sống đời mãnh thú Con hùm thiêng trong giây phút sa cơ Thân phế nhân đành trôi nổi mịt mờ Muốn sống lại thuở viễn mơ rừng núi Thôi mầy ạ ! Đời chúng mình gió bụi Chết ngang tàng trong ngày tháng tư đen Tao với mầy chinh chiến đã thành quen Thì tủi nhục cũng để rèn nhân cách Vậy hãy sống ngẩng cao đầu trong sạch Biết tử sinh thì nhận lấy cho hùng Tao với mầy có dòng máu chảy chung Thà đổ xuống không bao giờ khuất phục From: steven claudia |
SỰ ĐỜI HAI CHỮ THẮNG THUA
SỰ ĐỜI HAI CHỮ THẮNG THUA
Có một hòa thượng lên núi chặt củi, trên đường trở về, ông phát hiện cậu thiếu niên nọ đã bắt được một con bướm và đang cố gắng khom hai bàn tay lại để giữ cho nó khỏi bay. Nhìn thấy người tu hành, cậu cất lời: “Thưa hòa thượng, cháu và ngài đánh cược một ván được không?” Hòa thượng hỏi lại: “Cược thế nào?” “Ngài đoán xem con bướm trong tay cháu sống hay chết? Nếu ngài đoán sai, bó củi sẽ thuộc về cháu”, – cậu thiếu niên trả lời. Vị hòa thượng nọ đồng ý và đoán: “Con bướm trong tay cháu chết rồi.” Cậu thiếu niên cười lớn đáp: “Ngài đoán sai rồi.” Nói đoạn, cậu mở tay ra, con bướm từ trong bay lên. Hòa thượng nói: “Được, gánh củi này thuộc về cháu.” Nói xong, ông đặt gánh củi xuống, vui vẻ bước đi. Cậu thiếu niên không biết vì sao hòa thượng lại có thể vui vẻ đến như vậy nhưng nhìn gánh củi trước mặt, cậu ta cũng không để tâm lắm mà vui vẻ gánh gánh củi về nhà. Nhìn thấy con về, người cha liền hỏi số củi đó ở đâu ra, cậu mới đem chuyện kể lại cho cha nghe. Nghe hết câu chuyện của con trai, đột nhiên ông giơ tay tát con một cái, giọng giận dữ: “Con ơi là con! Con hồ đồ quá rồi! Con nghĩ là mình đã thắng sao? Ngay cả khi con đã thua, con cũng không hề biết mình đã thua đấy.” Lời cha nói khiến cậu con trai ngơ ngác, không hiểu gì. Người cha liền lệnh cho cậu ta gánh bó củi lên vai, hai cha con mang củi đến trả cho nhà chùa. Nhìn thấy vị hòa thượng nọ, người cha liền cất tiếng: “Thưa thầy, con trai tôi đắc tội với thầy, xin thầy lượng thứ.” Hòa thượng gật đầu, mỉm cười nhưng không nói gì. Trên đường trở về nhà, cậu thiếu niên sau một khoảng thời gian băn khoăn cuối cùng cũng đã nói ra những nghi vấn trong lòng. Người cha thở dài, nói: “Vị hòa thượng đó cố ý đoán con bướm chết, như thế con mới thả nó ra và thắng được gánh củi. Nếu ông ấy nói con bướm còn sống, con sẽ bóp chết con bướm và con cũng sẽ thắng cược. Con cho rằng vị hòa thượng đó không biết con tính toán gì sao? Người ta thua một bó củi nhưng đã thắng được thứ giá trị hơn rất nhiều, đó là lòng từ bi. Còn con, con đã thua, đã để mất thứ quý giá đó mà chẳng hề hay biết.” Câu chuyện có thể rất đơn giản nhưng đó là bài học cho chúng ta trong cuộc sống. Thắng, thua, thành, bại là những chuyện thường xuyên giày vò cuộc sống của con người. Có những lúc chúng ta tự cho rằng mình đã thắng nhưng trên thực tế, có khi chúng ta đã thua nhiều hơn mà chẳng hề hay biết.(....from Sưu Tầm) |
ĐỜI NGƯỜI
ĐỜI NGƯỜI
Tôi sắp bước sang tuổi bảy mươi mốt nên thường nghĩ suy về đời người, thân phận con người mà chủ yếu là bản thân minh và bạn hữu. Khi có người gọi mình bằng bố hay ông là mình biết mình đã già. Biểu hiện dễ thấy nhất của tuổi già là sức khỏe giảm sút. Tất cả hệ thống tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết … đều “có vấn đề”. Ngoài chuyện tóc bạc răng long lại còn đau xương nhức khớp, ôi thôi lắm cái khổ. Đa phần đến tuổi nầy không ai còn ham muốn gì ngoại trừ sức khỏe tốt, không bệnh tật và rà soát lại quảng đời đã trải qua. Tôi có mấy người bạn vong niên vì ở gần nhau nên thỉnh thoảng gặp nhau để vui vài cốc bia rượu. Đề tài rất phong phú từ sức khỏe đến thể thao hay những câu nói độc đáo của những chính khách… Nói chung là tốt vì xả được stress (mua vui cũng được một vài trống canh mà) và yên tâm là bạn mình vẫn còn OK, còn uống bia được và… còn nói tếu táo với nhau. Bài học của bọn già cả quê mùa chúng tôi là lạc quan và bình tĩnh mà sống. Ông bạn tôi hơn tôi mười tuổi bị tai biến hai lần rồi mà vẫn còn uống bia. Ông bảo: “Mình đã đầu tư vào bia rượu sáu bảy chục năm rồi giờ bỏ cũng uổng”. Về đề tài xem xét lại cuộc đời của mỗi con người bọn tôi có đúc kết là cuộc đời mỗi người có tám giai đoạn nhưng để cho có vẻ tiếu ngạo giang hồ bọn tôi gọi là tám hồi. Mà nói cho cùng thì mỗi người cũng giống như những kiếm sĩ, những danh thủ; sau khi luyện công xong thì xuống núi vào đời hành hiệp. Mỗi người một tuyệt kỹ, một trường phái không ai giống ai và có một điểm giống nhau là ai cũng cho rằng mình là số một. 1. HỒI 1 – HỒI NHỎ: Hồi nhỏ là thời gian từ khi mới sinh ra đến khi tốt nghiệp. Hồi nầy chúng ta chịu sự quản lý và sanh sát của gia đình, cha mẹ và thầy cô giáo. Nhìn chung thì hồi nầy tương đối êm đềm và ít biến động vì không có trách nhiệm với ai cả; mỗi mỗi chỉ là cho bản thân mình. Nói chung là học sao cho tương đối khá là được chỉ hơi vất vả là vào những năm cuối trung học và đại học thì nếu thi rớt thì phải nhập ngũ. Hồi một chấm dứt với một mảnh bằng đại học, một nghề nghiệp hoặc một binh nghiệp. 2. HỒI 2 – HỒI HỘP: Hồi hai nầy kéo dài khoảng hơn ba mươi năm bát đầu vào những năm cuối của hồi một; sở dĩ gọi là hồi hộp vì toàn là những biến cố, biến động làm cho chúng ta xao xuyến, lo âu, lo sợ… và phải luôn suy nghĩ, khổ sở tìm các giải pháp… Nói chung là luôn hồi hộp. Cái hồi hộp đầu tiên là giây phút “hồn lỡ sa vào đôi mắt em, chiều nao xỏa tóc ngồi bên rèm” để rồi tiếp theo là “chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em…”. Rồi những trang thư trên giấy học trò được viết nhưng không gửi, những buổi tan học lẻo đẽo theo sau, rồi những chiều những đêm tan trường về chung lối mà lại chọn lộ trình xa nhất để kéo dài giây phút bên nhau. Ôi cái thuở ban đầu lưu luyến ấy nó rất dễ thương nhưng đầy hồi hộp. Nhưng rồi một nỗi lo lớn hơn xuất hiện: hai kỳ thi tú tài một và hai. Thời của chúng tôi hết năm lớp 11 (đệ nhị) là phải thi bằng tú tài một; đậu được tú tài một mới lên lớp 12 (đệ nhât), cuối năm nầy phải thi bằng tú tài hai; nếu đậu tú tài hai coi như hoàn tất trung học và lên đại học. Nếu rớt tú tài một hoặc tú tài hai thì phải “xếp bút nghiên theo nghiệp đao cung”. Bởi vậy nên “rớt tú tài anh đợi ngày đi, đau lòng anh muốn khóc”; đi đây là nhập ngũ là vào binh nghiệp. Đến đây thì bạn hữu bắt đầu ly tán… Hai năm cuối của bậc trung học là đầy áp lực, tất cả phải gác lại và tập trung vào việc học – kể cả việc yêu đương. Nhưng đó chỉ là lý thuyết thôi vì làm sao mà ngừng yêu được, rất khó. Tôi nhớ có người bạn trước ngày thi mấy tháng anh ta phải xuống tóc (cạo đầu) và từ biệt người yêu để chuyên tâm vào việc đèn sách. Cuối cùng anh cũng đậu tú tài nhưng người anh yêu thì đã yêu người khác. Sau khi vượt qua ải trung học thì phải thi tiếp vào những đại học chuyên nghiệp. Mỗi lần thi là một lần hồi hộp. Nếu thi đậu thì bạn sẽ được định hướng nghề nghiệp tương lai; bạn sẽ là bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư. Nhưng nếu rớt thì bạn có thể ghi danh học các đại học không cần thi tuyển như khoa học, luật… Điều đáng lo đối với một thanh thiếu niên từ tỉnh nhỏ lên Sài gòn học đại học là làm sao có đủ tiền chi phí cho bốn năm đại học. Nhưng nhờ trời sinh voi thì phải sinh cỏ nên dù vất vả anh em cũng tốt nghiệp và sắm bộ vest để lãnh văn bằng chấm dứt bốn năm sống như trong địa ngục. Mọi hân hoan của ngày tốt nghiệp rồi cũng qua mau mà cái kế tiếp là phải giải quyết việc làm. Tốt nghiệp vào cuối tháng bảy mà hạn hoãn dịch là tháng mười một, nghĩa là đến tháng mười một thì chuẩn bị nhập ngũ mà nếu không có chỗ nhận đi làm thì mình thành như con thuyền không bến. Lại thêm một lần khốn khó, được một cái là anh em chúng tôi rất thương nhau nên họp lại và người nào có khả năng hoãn dịch tiếp thì đợi chỗ mới hoặc đi làm sau nhường chỗ cho anh em khác cần đi làm trước. Sau khi đã tu luyện xong môn võ công của mình mọi người bắt đầu công cuộc hành tẩu giang hồ và vẫn còn ở trong vòng hồi hộp. Trong hồi nầy chúng ta bị kéo vào một vòng xoáy tràn ngập nhiều biến cố như tán gái, cưới vợ, sinh con, làm việc cật lực để xây dựng tổ ấm, lấy lòng mấy sếp lớn nhỏ mặc dù … rất chán nản. Bây giờ không biết tại sao mình có thể tồn tại được trong những ngày tháng dài đến ba bốn mươi năm với nhiều biến cố như vậy. Bây giờ thì hành giả hay kiếm sĩ hay anh hùng (bạn có thể gọi bằng bất cứ từ nào bạn thích) đã thấm mệt và chuẩn bị gác kiếm. 3. HỒI XUÂN: Đây là một hồi đặc biệt, ngắn ngủi mà ông bạn vong niên yêu cầu đưa vào cho đầy đủ. Nó xày ra trong một thời gian ngắn một vài năm khi mà ta bị mệt mỏi, chán nản thì tự dưng cảm thấy như có một luồng sinh lực mới tuôn tràn vào cơ thể làm cho hưng phấn và ta lại lao vào mọi việc một cách hăng say nhiệt tình. Nhưng rồi những ngày vui nào cũng qua mau và ta phải đối diện với sự thật là lực bất tòng tâm. 4. HỒI HƯU: Thế rồi bỗng nhiên ta được cho phép dừng bước giang hồ trở về với mái nhà nhỏ của riêng mình. Con cái giờ đã lớn, đã lập gia đình đã đi xa; nhà chỉ còn hai người già nhưng vẫn còn son hoặc tệ hơn như tôi chỉ một mình. Việc gì làm được thì đã làm rồi, việc chưa làm được thì không còn sức để làm. Việc đúng việc sai thì cũng xong rồi đâu sửa được. Thôi thì an phận mà vui thú chim cá cảnh vậy. Cũng có người không chịu nổi cảnh trống trải cô độc nên lại vác kiếm quay lại giang hồ, để thấy mình “hiện hữu”. Hồi nầy kéo dài bao lâu là do phúc phận của mỗi người, ai mà biết được ngày sau. Nhìn chung thì hồi nầy tương đối yên bình vì không phải chiến đấu, không tranh hơn thua với ai nữa. Thế nhưng đời đâu phải bằng phẳng như nước hồ thu đâu. Không chiến đấu với ngoại cảnh thì lại phải chiến đấu với bản thân mình. Phần cơ thể vật chất đã bị lão hóa nên xuống cấp và nhiều bệnh xuất hiện: đau nhức xương khớp, huyết áp, tiểu đường, tiêu hóa, bài tiết, gan mật… Chúng ta lại có những người bạn mới như y tá, bác sĩ… Phần tâm thức cũng không bình yên. Những lo lắng về bệnh tật, muộn phiền, tiếc nuối… Tất cả như một cơn lũ tràn về. 5. HỒI TƯỞNG: Trong hồi nầy vì vô sự nên người ta nghĩ về những ngày qua, quá khứ. Khi họp mặt hay gặp lại bạn cũ ta ưa nhắc lại những chuyện cũ. Những mùa phượng, những rung động với cô em học chung trường, những giận hờn, những xót xa… Và từ đây đưa đến một hồi phụ là … hồi ký. Từ hồi tưởng hồi ức ta có dịp nhìn lại toàn bộ cuộc đời chiến đấu của mình, những thành công, những thất bại, những sai lầm… Rồi chúng ta tự hỏi minh: ta đã được sinh ra, đã sống đã hoạt động qua nhiều hồi và bây giờ ngồi đây chờ đợi hồi kết; vậy thì mục đích tối hậu và ý nghĩa của đời sống mỗi người là gì? Chẳng lẽ chỉ là học tập, lập gia đình, làm việc rồi… “nghỉ ngơi”. 6. HỒI HƯỚNG: Hồi hướng ở đây có nghĩa là quay đầu nhìn lại mình. Từ nhỏ chúng ta chỉ nhìn ra ngoài, nhìn ngoại cảnh, nhìn người khác… từ đó có đánh giá đúng sai, đẹp xấu, thiện ác… Tất cả cái đó, điều đó quyết định hành động chúng ta. Chúng ta bị ràng buộc vào mệnh đề của Descartes: “Tôi suy tư vậy tôi hiện hữu” và suy tư trên nền của lý luận nhị nguyên (tốt – xấu, thiện – ác…). Những câu hỏi trên buộc ta phải nhìn lại mình và tìm hiểu bản chất của mình, của đời người, của thân phận con người. Trước chúng ta đã có nhiều vị làm điều đó như: Đức Phật, Chúa Jesus, Lão Tử, Trang Tử, nhiều thiền sư, triết gia… Lịch sử cho thấy không nhiều người đặt những câu hỏi kiểu nầy và chịu khó tìm hiểu bản chất của đời người. Việc nầy tùy thuộc vào duyên nghiệp của mỗi người và không có chuyện đúng sai ở đây. “Gió theo lối gió, mây đường mây”. 7. HỒI SỨC: Trở lại chuyện kiếm hiệp, đến hồi nầy thì rất gay go cho hành giả trong sự nghiệp chiến đấu với bệnh tật. Và tôi cũng không dám bàn thêm vì nó cũng sắp đến hồi kết mà ông bạn già của tôi gọi là hồi kèn. Gọi là bạn cũng không đúng vì ông anh nầy lớn hơn tôi mười tuổi và đã hai lần tai biến, hai lần hồi sức nhưng anh vẫn lạc quan vẫn vui với bè bạn. Mỗi khi gặp nhau thấy anh vẫn khỏe vẫn vui, ai có hỏi sức khỏe thế nào anh bảo: “kệ mẹ nó, thằng nào rồi cũng chết cả, cứ sống vui đi, quan tâm làm gì, chuyên gì đến sẽ đến lo sao được”. 8. HỒI KẾT: Hồi nầy được tô điểm bằng nhạc và hoa. Bạn sẽ được thưởng thức Lòng mẹ, Như cánh vạc bay, Cát bụi, Đường đời, Diễm Xưa, Hạ trắng… (Share from FB MPL) |
![]() Bức tranh vẽ Tổng thống Trump “Vượt qua đầm lầy” trở nên nổi tiếng Nghệ sĩ Jon McNaughton ở Utah, Hoa Kỳ đã vẽ Tổng thống Donald Trump và các thành viên trong chính quyền của ông “Vượt qua đầm lầy”, mô phỏng theo bức tranh biểu tượng “Washington vượt qua sông Delaware”. Bức tranh này đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Bức tranh “Vượt qua đầm lầy” (Crossing the Swamp) liên quan đến một trong những khẩu hiệu của Tổng thống Trump trong một chiến dịch năm 2016 đó là “hút cạn đầm lầy”, đề cập đến việc giải quyết các vấn đề bê bối như tham nhũng và lợi ích nhóm ở thủ đô Washington. Trong tranh, Tổng thống Donald Trump là người cầm ngọn đèn soi đường. “Đừng bao giờ bỏ cuộc. Đừng bao giờ buông ngọn đèn của bạn”, ông Trump viết trên Twitter, “Đừng bao giờ dừng lại cho đến khi đầm lầy khô cạn”. Vượt qua đầm lầy Danh sách các nhân vật từ trái qua phải: Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Nikki Haley, Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, Chủ tịch Phát triển Nhà và Đô thị Ben Carson, Tổng thống Mỹ Trump, Tổng chưởng lý Jeff Sessions, Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence, Đệ nhất phu nhân Melania Trump, Bộ trưởng Ngoại giao Mike Pompeo, Thư ký Báo chí Nhà Trắng Sarah Sanders, con gái Tổng thống Trump Ivanka Trump, Cố vấn An ninh Quốc gia John Bolton, Tham tán cho Tổng thống Kellyanne Conway, Chánh văn phòng Nhà Trắng John Kelly. (Ảnh: Jon McNaughton) Nghệ sĩ John McNaughton viết trên trang cá nhân: “Hơn 240 năm trước, George Washington đã vượt qua thung lũng Forge và sông Delaware để mang lại một chiến thắng đáng kinh ngạc cho Lục quân Lục địa. Đây là điều mà nhiều người nghĩ là không thể – đánh bại một tên bạo chúa và đội quân hùng mạnh của ông ta. Hôm nay, ông Trump đã nỗ lực vượt qua “đầm lầy” của Washington DC khi ông mang đến ánh sáng của sự thật, hy vọng và sự thịnh vượng. Dòng nước đục ngầu của nhà nước ngầm bị bao phủ đầy sâu bọ nguy hiểm, hoàn toàn sẵn sàng để tiêu diệt sự thịnh vượng của Mỹ cho ý thức hệ cá nhân của họ và lợi ích tài chính. Các thành viên cốt cán của Đảng Dân chủ, những người theo phong trào “Không bao giờ Trump” trong Đảng Cộng hòa, Nhà nước ngầm và Fake News (Tin giả) sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn chặn phần lớn người Mỹ thành công. Là một người nghệ sĩ, tôi vẽ những gì tôi cảm thấy cần phải nói về tình trạng hiện tại của đất nước chúng ta. Tôi hy vọng ông Trump sẽ được nhớ đến như vị Tổng thống đã phục hồi sự vĩ đại của nước Mỹ. Tôi cũng muốn lên trên chiếc thuyền đó để được tự do!” Nghệ sĩ John McNaughton nói thêm rằng ông hy vọng mọi người sẽ “nghiên cứu bức tranh và cố gắng hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn“. Thường Xuân Và Một hình ảnh thay ngàn lời nói |
Là người có niềm tin vào Sự Thật, nên đọc bài này.
Cách đây 5 năm thì ai dám nghĩ tác giả của cuốn sách Death by China lại có thể làm cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Mỹ và có tiếng nói quan trọng tại Tòa Bạch Ốc. Nhưng điều không ngờ lại xảy ra và tác giả của cuốn sách “chết bởi Trung Quốc” đã trở thành cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump. Đây là tình huống mà giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã không ngờ tới và chắc chắn sẽ còn phải đau đầu rất nhiều với tác giả của cuốn sách Death by China.
Đọc cuốn sách Death by China thì thấy Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro đã vạch trần tất cả những mối nguy đến từ chính sách kinh tế của Trung Quốc. Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì Trung Quốc đã đưa ra chính sách gian lận thương mại, ăn cắp công nghệ, làm hàng giả, hàng kém chất lượng để phá hủy toàn bộ hệ thống kinh tế chuẩn mực của các nước tư bản giầu có trước đây như Mỹ và Châu Âu. Trung Quốc đã cố tình làm hàng giả, hàng kém chất lượng và bán phá giá để cho nhiều nhà máy, nhiều công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản. Khi các nhà máy, các công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản thì người dân không có việc làm và người dân không có việc làm thì không có tiền lương mà không có tiền lương thì phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc. Đối với những nước giầu có như Mỹ và Châu Âu thì Trung Quốc đưa hàng giả, hàng kém chất lượng vào để giết chết các nhà máy, các công ty. Còn đối với các nước nghèo đói như Campuchia, Việt Nam, Lào và Châu Phi thì Trung Quốc đã đưa cả hàng độc hại để không chỉ giết chết các nhà máy, các công ty mà giết chết luôn cả người dân. Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì nếu Mỹ và Châu Âu không có chính sách ngăn chặn Trung Quốc thì chỉ cần trong vòng 10 năm đến 20 năm nữa là Trung Quốc sẽ chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế toàn cầu. Khi Trung Quốc đã chi phối được kinh tế toàn cầu thì dĩ nhiên là Trung Quốc sẽ chi phối về chính trị và đi xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia khác. Điều này thì ai cũng có thể nhìn thấy qua các chính sách của Trung Quốc đối với các nước nhỏ và nghèo trong khu vực như Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines, và Malaysia. Giới chính trị gia salon của Mỹ và Châu Âu đã không nhận ra được mối nguy từ Trung Quốc hoặc có nhận ra, nhưng đã cảm thấy bất lực, nên đành phải nín nhịn Trung Quốc để được yên thân trong nhung lụa của cung điện vỏ kén giàu sang. Dưới thời Tổng Thống Barack Obama thì tỷ lệ thất nghiệp của người dân Mỹ ngày càng gia tăng mà không có cách giải quyết, ngân sách quốc gia thì thâm hụt và phải vay mượn tứ tung. Có 8 năm cầm quyền mà tiêu tiền ngân sách quốc gia nhiều hơn cả mấy đời Tổng Thống Mỹ cộng lại. Chính sách của Hillary Clinton thì chẳng khác gì Barack Obama nhưng vẫn có người đi ủng hộ Hillary Clinton và chống Trump thì quả là kém về chính trị và vô trách nhiệm với nước Mỹ, với Châu Âu và với thế giới. Tổng Thống Trump là một nhà kinh tế, là một tỷ phú đã từng điều hành hàng ngàn công nhân nên ông hiểu được chính sách kinh tế của Trung Quốc. Từ sự thấu hiểu mà Tổng Thống Trump đã quyết định chọn người có điểm chung là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro để làm cố vấn kinh tế và đưa ra các biện pháp ngăn chặn Trung Quốc. Thực sự là Mỹ đã quá muộn và ngăn chặn được kinh tế Trung Quốc là một bài toán vô cùng khó. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, đã thâu tóm và lũng đoạn được chính trị của nhiều quốc gia. Trong khi hàng hóa Made in China thì đã tràn ngập thị trường Mỹ và Châu Âu. Người dân thì vì không có việc làm và không có tiền nên vẫn phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc. Mỹ và Châu Âu đã quá muộn để ngăn chặn Trung Quốc nhưng muộn mà còn có Tổng Thống Mỹ dám đứng ra ngăn chặn thì thế giới vẫn còn hy vọng. Cuộc đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là một cuộc đấu đầy khó khăn và khốc liệt. Nhưng với kinh nghiệm của thương trường, với lòng can đảm và với một quyết tâm cao thì Tổng Thống Trump đang làm cho thế giới có nhiều hy vọng vào một chiến thắng trước Trung Quốc. Nếu cuộc đấu với Trung Quốc mà thành công thì lịch sử nhân loại sẽ ghi ơn Tổng Thống Trump và người cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump và cũng là người đã có công viết cuốn sách Death by China để vạch trần chính sách gian manh của Trung Quốc là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro. FB Đạt Tiến Nguyễn Trước Sau In Trang Gửi ý kiến của bạn Tên của bạn Email của bạn 1234567Trang sauTrang cuối hoadesign14 Chống Nghị Quyết 36 Của CSVN - Vi Anh 15 Tháng Tư 2019(Xem: 3) Mà con đường lợi hại nhứt là giúp cho người nhiều tham vọng, tham danh, tham tiền bất chánh Đọc thêm doanket1 Đoàn kết để chiến thắng??? 14 Tháng Ba 2019(Xem: 151) Nó là Trung quốc à? Nay mai Đoàn kết toàn dân để chiến thắng bệnh trĩ, bệnh sa tử cung ... thì bỏ mẹ. Đọc thêm hanoi “HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI. HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI!” Lê Nhàn 12 Tháng Ba 2019(Xem: 157) Đó là vì cha ông của họ sống có nhân, có nghĩa và chính lớp người đi trước đã dạy con cháu họ như vậy, chứ không phải cái thứ lưu manh, lừa đảo. Đọc thêm chua Đất nước mình quá lãng phí! Lê Thành Vinh 05 Tháng Ba 2019(Xem: 188) Một đất nước người ta cho kẻ nghèo một xu thì tiếc nhưng cho phật thánh 10 xu thì mừng, bởi cho phật thánh mới có lộc cho kẻ nghèo sợ bị lừa. Đọc thêm anhsang NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY - Diệu Hằng 22 Tháng Hai 2019(Xem: 199) ý thức và tư tưởng rất quan trọng cho sự phát triển và phát huy tiềm năng của con người, thế nhưng dưới chế độ cộng sản Đọc thêm state Toàn văn Thông điệp Liên bang 2019 của Tổng thống Mỹ Donald Trump 06 Tháng Hai 2019(Xem: 311) Những chiến thắng lớn nhất của chúng ta vẫn đang trên đường tới. Chúng ta vẫn chưa bắt đầu ước mơ. Đọc thêm bienhoa40 ĐỜI NGƯỜI 22 Tháng Giêng 2019(Xem: 268) Phần tâm thức cũng không bình yên. Những lo lắng về bệnh tật, muộn phiền, tiếc nuối… Tất cả như một cơn lũ tràn về. Đọc thêm bao-large-content-thumbnail NHỮNG SUY NGHĨ CHƯA ĐỊNH HÌNH VỀ NƯỚC MỸ- Huỳnh Ngọc Chênh 06 Tháng Giêng 2019(Xem: 367) Bộ quy tắc đó đã giúp cho bộ máy nhà nước Mỹ vận hành suôn sẻ gần 300 năm qua, đẩy xã hội Mỹ phát triển nhanh hơn Đọc thêm hanh-trinh-chau-phi-11-1- SỰ ĐỜI HAI CHỮ THẮNG THUA 14 Tháng Mười 2018(Xem: 705) Câu chuyện có thể rất đơn giản nhưng đó là bài học cho chúng ta trong cuộc sống. Thắng, thua, thành, bại là những chuyện thường Đọc thêm paris28 Nước cờ cuối cùng trong đấu pháp: 14 Tháng Mười 2018(Xem: 584) Nhưng chiến tranh cũng có thể không xảy ra nếu Tập Cận Bình đầu hàng trước khi Trump dốc toàn bộ binh lực để kết liễu Đọc thêm dontcare Bí ẩn: Tại sao Phu Nhân TT Trump cho truyền thông phỏng vấn? Trần Nguyên Nguời Xứ Bưởi 14 Tháng Mười 2018(Xem: 589) Cuộc phỏng vấn trên truyền hình của đài ABC News hôm thứ sáu (12/10) vừa qua với Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Melania Trump đã gây sôi nổi rất nhiều trong dư luận truyền thông báo chí Đọc thêm choco Cầm " C" chó đái - Bủi Bảo Trúc 12 Tháng Mười 2018(Xem: 21186) Đọc xong câu nói ô nhục của thằng khốn nạn thì chỉ muốn chửi cha tiên nhân bố cả cái bọn chuyên cầm cặc cho chó đái. Đọc thêm phongvan NGƯỜI DÂN TP WESTMINSTER CẦN BIẾT 30 Tháng Chín 2018(Xem: 21268) Chương Trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt ghi lại cuộc phỏng vấn của cô Roxanne Chow với 2 vị ra ứng cử chức nghị viên thành phố Westminster vào ngày 6 tháng 11 tới là Cảnh sát Tài Đỗ và Luật sư Jamison Power Đọc thêm vuotsong Người Việt Tỵ Nạn CS Tiểu Bang Cali Đã Thắng Tuyệt Đối: Thống Đốc Brown Ký Ban Hành Đạo Luật SB 895 25 Tháng Chín 2018(Xem: 842) Hôm nay, Thống Đốc Brown đã ký ban hành Đạo Luật SB 895, Uỷ Ban Soạn Thảo Giảng Dạy -IQC sẽ có đến ngày 31, Tháng Mười Hai, 2022 Đọc thêm hanquoc TẠI SAO HÀN QUỐC PHÁT TRIỂN RỰC RỠ? 09 Tháng Chín 2018(Xem: 588) Đúng 20 năm sau, năm 1988, Hàn Quốc đăng cai Olympic Seoul, cả thế giới không ai tin vào mắt mình khi thấy kỳ tích bên bờ sông Hàn Đọc thêm bieutinh Ứng cử viên HĐTP Westminster, ông Tài Đỗ được nhiều người, nhiều giới ủng hộ - Thanh Phong/VĐ 07 Tháng Chín 2018(Xem: 1182) nhất là cư dân Westminster xin hãy dồn phiếu cho anh trong kỳ bầu cử sắp tơi, để anh có cơ hội phục vụ mọi người Đọc thêm cosao-large-content-thumbnail CÁI MẶT VIỆT NAM - TẠP GHI HUY PHƯƠNG 07 Tháng Tám 2018(Xem: 709) “Tôi là người Việt Nam!” và cảm thấy thương cho tôi và thù ghét những con người đã làm cho hình ảnh Việt Nam xấu xa đi như hôm nay. Đọc thêm trump3 TRUMP “Vượt qua đầm lầy”, 06 Tháng Tám 2018(Xem: 675) Nghệ sĩ John McNaughton nói thêm rằng ông hy vọng mọi người sẽ “nghiên cứu bức tranh và cố gắng hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn“. Đọc thêm trump1 TRUMP SIÊU NHÂN ? Bùi Quang Vơm 31 Tháng Bảy 2018(Xem: 842) Đó là điều mà Henry Kissinger mới nói ngày 26/07 vừa rồi, rằng: "Donald Trump là nhân vật lịch sử, xuất hiện để kết thúc những điều cũ kỹ và giả dối" Đọc thêm tongthong TỴ NẠN VIỆT VÀ TT TRUMP - VŨ LINH 29 Tháng Bảy 2018(Xem: 662) bằng mọi giá vì đã lỡ ghét rồi? Chuyện VN là chuyện của VC và TC, kệ tụi nó đấm đá nhau, mắc gì mình phải lo? Đọc thêm tttrump VÕ SĨ TRUMP ĐI ÂU CHÂU- VŨ LINH 19 Tháng Bảy 2018(Xem: 653) trong thế tam quốc Mỹ-Nga-Tàu, không có cái ngu nào bằng cái ngu đánh cả hai đối thủ một lúc. Đọc thêm nangmai THẤY GÌ QUA BIỂU TÌNH 10.6 10 Tháng Sáu 2018(Xem: 1289) Họ đã khiến chúng ta, những người cho rằng mình học cao hiểu rộng, hiểu biết chính trị xã hội, tiền bạc dư thừa phải cúi đầu hổ thẹn! Đọc thêm |
Xin Đừng Nói Tại Tuổi Già- BS Nguyễn Ý Đức
![]() Sau khi đổ xăng, ông Minh lên xe lái về nhà. Đi được một đoạn, ông nghe thấy tiếng kim khí chạm vào xi măng rồi tiếng loong coong tiếp theo. Đang chạy trên đường phố nhiều xe, ông không ngừng lại để coi xem vật gì rơi. Một thoáng nghĩ, ông đoán đó là chiếc nắp bình xăng để trên mui xe đã rơi mất tiêu. Lại quên rồi. Ông tự nhủ, với một chút chán nản. Về đến nhà, ông ngần ngại một lúc rồi than vãn với bà vợ là hồi này mình già nên hay quên quá, và kể cho vợ nghe mất cái nắp bình xăng. Vợ mỉm cười, nói: Đây đâu có phải là lần đầu mà ông lo. Ông nhớ khi gia đình mình lái xe về quê cách đây mấy năm, ông quên đến hai lần. Và phải mua nắp khác thay vào. Cô con gái đứng gần đó, chêm vào: Bố ơi, bố có nhớ hồi xưa khi bố còn đi làm, đã bao nhiêu lần trước khi ra khỏi nhà, bố cứ kiếm cặp kính đọc sách của bố, trong khi bố gài nó trên mái tóc. Lúc đó bố đâu đã ở tuổi này. Ngồi nghĩ lại, ông Minh thấy bà vợ và con gái nói cũng đúng. Đã nhiều lần, cách đây cả chục năm, lâu lâu ông cũng không biết để chìa khóa xe ở đâu, đi chợ bảo mua vài món đồ rồi cũng quên một món, chứ đâu có phải chỉ từ ngày ông về hưu ở tuổi 60 mới hay quên. Vậy mà mỗi khi nghĩ đến cái tuổi đó, ông cũng mang một thoáng suy tư. Bước vào cái tuổi mà khi mình làm cái gì không giống ai thì thiên hạ cứ bảo ông bà ấy già rồi. Gặp người bạn xa vắng đã lâu, mình có vui miệng nói ít nhiều câu chuyện thì người phối ngẫu lại nhắc khéo để mình ngưng bớt lại, kẻo nói dài dòng, phiền lòng người nghe. Đau nhức xương cánh tay và đầu gối, kể lể với bác sĩ thì được trả lời: cụ ơi, cụ già rồi thì nó vậy đó, không sao đâu; hoặc tối ngủ hay thức giấc nửa khuya, không ngủ lại được thì lương y cũng bảo người già thường hay bị bệnh như vậy. Trăm dâu đổ đầu tằm, cái gì cũng đổ tại già. Riêng cái vụ “hay quên” thì vô số người, ngay cả bác sĩ đôi khi cũng phán rằng già thì nó lão suy, nói trước quên sau. Và có người cứ canh cánh sợ là già thì sẽ rơi vào tình trạng “lú lẫn, sa sút trí tuệ”. Mà nói đến bệnh sa sút trí tuệ thì cũng đáng e ngại thật. Một thăm dò ý kiến tại Mỹ coi xem con người sợ gì nhất. Sợ đau tim, ung thư, mù lòa, rớt máy bay, nghèo túng, hoặc thả vào chuồng cọp... Mỗi người có mỗi mối sợ khác nhau, nhưng lo sợ nhất vẫn là mất trí nhớ, lú lẫn, rồi chẳng biết mình là ai, ở đâu, quên ăn quên ngủ, phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình. Có người bảo, quên như vậy càng sướng chứ sao. Chẳng phải lo nghĩ, chẳng cần để ý tới chuyện đời. Nhưng, một lão bà vừa mới chôn cất chồng, mà về nhà liên tục kêu tên ông, tìm kiếm ông hết phòng này qua phòng khác. Đôi khi hiểu rõ trắng đen thì vật vã khóc than. Sự việc kéo dài suốt mấy năm trường, cho tới khi bà tạ thế. Bà đã ở trong tình trạng mất trí, lú lẫn. Và như vậy thì sướng nỗi gì! Trở lại với chuyện hay quên thì cũng có nhiều lý do. -Một độc giả hỏi thăm là có ông chú 70 tuổi hay bị quên tên người này người khác và ông cụ phải nhờ mọi người nhắc dùm. Khi không thỏa mãn thì ông trở nên hung hăng, đập phá, khó thở, phải uống viên thuốc an thần mới dịu xuống. Hỏi kỹ thì được biết ông đã bị tai biến não, và cơn suy tim. Sở dĩ ông hay quên vì huyết lên não giảm. Mà huyết giảm thì thiếu nuôi dưỡng, tế bào thần kinh kém hoạt động, và ông ta không nhớ tên người, đồng thời tính tình trở thành bất thường, đôi khi hoang tưởng. -Một lão bà than phiền không biết để cặp kính đọc sách báo ở đâu; vào phòng tắm rồi không biết để làm gì; mới nghe một câu chuyện mà nửa giờ sau đã quên; bạn bè than phiền bà hẹn tới chơi rồi không tới. Vì quên.... Bà hỏi có thuốc gì phục hồi trí nhớ cho bà. Lấy thêm chi tiết thì được biết chồng bà mới mất cách đây nửa năm, rồi bà quá thương tiếc mà không ăn không ngủ được, buồn chán chẳng thiết làm gì, ngay cả những thú vui khi trước. Bà được thầy thuốc cho uống thuốc chữa bệnh trầm cảm mấy tuần lễ thì tình trạng hay quên thuyên giảm. Bà đã bị bệnh sầu não, buồn phiền vì mất người chồng thân yêu. -Dùng nhiều dược phẩm cũng là rủi ro của kém trí nhớ. do tác dụng phụ của thuốc. Thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp là một thí dụ. Thuốc làm giảm muối và nước trong máu, hóa chất trong cơ thể thay đổi. Nếu liều lượng quá cao thì huyết áp xuống quá thấp. Não bộ người già rất nhậy cảm với những thay đổi này, sẽ trở nên kém hoạt động về ghi nhớ và tập trung. Và hay quên. Thuốc an thần, thuốc ngủ cũng ảnh hưởng tới trí nhớ. Cho nên thầy thuốc cần lưu ý ở điểm này và bệnh nhân cũng cần cho thầy thuốc hay mọi khác thường xẩy ra khi dùng thuốc. -Một vài bệnh kinh niên cũng ảnh hưởng tới trí nhớ. -Sau nhiều ngày đằng vân giá vũ du thuyết liên lục địa, về đến nhà được ít ngày thì nhà chính khách thấy trong người mỏi mệt, không tập trung tư tưởng được, hay quên và có khó khăn trong giải quyết công việc thường lệ. Nhiều khi nhân viên thấy ông ngồi thẫn thờ như người mất hồn, đi đứng không vững. Thầy thuốc cho là ông bị căng thẳng thần kinh, vì làm việc quá sức. Và đề nghị ông đi nghỉ dưỡng sức. Ông làm theo nhưng khó khăn vẫn không bớt. Một hôm ông té xỉu, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bác sĩ khám bệnh và phát giác nhịp tim ông rất thấp và không đều. Một máy điều hòa nhịp tim được gắn cho ông và ông trở lại bình thường. Ấy là do ông có bệnh tim mà không hay. Hay quên trong những trường hợp kể trên đâu có phải là vì tuổi hạc, tuổi cao. Nhưng nếu được xác định là bị bệnh Alzheimer, sa sút trí tuệ, lú lẫn thì quả là bệnh của một số người tuổi cao, người già. Vì thống kê cho hay, 4% người cao tuổi có thể bị bệnh nàỵ. Trong bệnh Alzheimer, não bộ bị thoái hóa, hóa chất não suy giảm, máu huyết nuôi não cũng ít đi, mà nguyên nhân chưa được tìm ra. Hậu quả của các thay đổi này đưa tới một căn bệnh của thế kỷ. Bác sĩ Lewis Thomas, Khoa Trưởng Đại Học Y Yale coi đây là một bệnh xấu xa nhất trong các bệnh. Bệnh không những tàn phá bệnh nhân mà còn gây hậu quả tai hại cho gia đình, bạn bè người bệnh. Nó bắt đầu với sự mất khả năng học hỏi, tính toán, suy nghĩ để rồi đưa đến sự khép kín hoàn toàn về tâm trí. Bệnh nhân tiếp tục sống không hồn cho tới ngày nào đó một bội nhiễm sưng phổi, những suy nhược tổng quát giải thoát cho họ. Kết luận Óc ghi nhận dữ kiện như một cái máy thu âm, bộ phận hải mã như là một cái nút kiểm soát. Bình thường, nút bấm này tắt, và chỉ mở để ghi khi nào dữ kiện được coi là quan trọng. Một dữ kiện không quan trọng thường lởn vởn trong đầu một lúc rồi tan biến đi. Cho nên nếu ta có quên tên một người nào đó trong tiệc cưới cũng là chuyện bình thường, giống như là lâu lâu ta quên, không biết chìa khóa xe, chìa khóa nhà để ở đâu. Nhưng lái xe đi làm mỗi ngày trên cùng con đường mà lạc lối; quên những hẹn quan trọng; kể đi kể lại cùng câu chuyện trong một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với bạn bè, thì là điều đáng ngại. Những thắc mắc, lo âu, tự hỏi: Ta già rồi chăng? Hay ta đang mắc chứng não suy trầm trọng? Liệu trí nhớ có bỏ ta ra đi như những con chuột tìm đường chạy trốn khỏi con tầu sắp chìm đắm dưới biển cả mênh mông! Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức at 3:36 PM |
Pilot
![]() Đời Phi Công... Không Người Lái - Nguyễn Văn Tới Đúng vậy, thưa quí vị độc gia. Không phải tôi gõ sai phím hay độc giả đọc lộn. Xin lặp lại lần nữa, đây là câu chuyện đời thật của một phi công lái máy bay không người lái (UAV). Lâu nay nhiều người trong chúng ta đã từng nghe về máy bay không người lái thường được gọi là Drones, hoặc chi tiết hơn một chút, gọi bằng tên Predators. Máy bay không cần phi công ngồi trong cockpit không phải là cái gì là mới nữa rồi, nhưng vào đầu thế kỷ thứ 21 này, khi thế giới đang bước vào kỷ nguyên của những kỹ thuật tân tiến, của nền công nghiệp 4.0, của thế hệ mạng wifi 5G với tốc độ internet nhanh gấp 100 lần 4G, của xe hơi không người lái (Autonomous driving cars), và máy bay không người lái UAV (Unmaned Aerial Vehicles) được điều khiển từ xa, thậm chí từ bên kia nửa vòng trái đất, đang được dùng rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, nhất là trong quân đội các nước. Trong quân đội Mỹ, đây là một loại vũ khí rất phổ biến, rất hiệu quả khi săn lùng và tiêu diệt khủng bố, như đã xảy ra với tên trùm Osama Bin Laden ở thành phố Abbottabad, Pakistan. Nhờ có trang thiết bị cảm ứng thân nhiệt (heat signature) và những hình ảnh chụp được từ UAV mà vệ tinh không thể có được. Quân đội Mỹ có thể theo dõi được tên trùm khủng bố này từ 15,000 feet cho đến 50,000 feet trên cao, mất nhiều tháng theo dõi và phân tích dữ liệu ngày đêm. Trong khi UAV lúc nào cũng ở trên quan sát, thì từ một phi trường ở Afghanistan, 3 chiếc trực thăng Black Hawks đặc biệt cất cánh, mất 90 phút vừa bay vừa tránh radar dày đặc của căn cứ quân sự nguyên tử Pakistan kế khu nhà tên trùm khủng bố, và nhờ công nghệ tàng hình, toán đặc nhiệm tới nơi, đột kích, và tiêu diệt kẻ gây biết bao tội ác cho thế giới loài người và đã giết hơn 3000 người Mỹ trong tháng 9 năm 2011. Đồng thời UAV cũng gây ra biết bao tranh cãi, kể cả biểu tình của những người phản chiến trong và ngoài nước Mỹ vì họ tố cáo drones đã giết lầm người dân vô tội. Với công nghệ ngày càng tân tiến thì máy bay không người lái cũng không ngoại lệ. Ngoài ra UAV còn được xử dụng để thu thập và phân tích thông tin tình báo, chụp và vẽ ảnh không đồ, hoặc quan sát, đánh giá những vùng bị thiên tai cần cứu giúp mà không thể đến bằng xe hay đi bộ. Tôi sẽ không đi sâu vào kỹ thuật, cái hay dở của chiếc máy bay, và càng không nói về chính kiến của công luận khi đề cập đến vũ khí đặc biệt này; tôi chỉ muốn kể lại câu chuyện đời của một người phi công không người lái mà tôi sẽ dùng ngôi thứ 3 số ít là HẮN. Công ty mà hắn đang làm việc không cho phép tiết lộ chi tiết việc làm, địa điểm công tác, và tên thật của nhân viên, xin bạn đọc thông cảm. * Hắn qua Mỹ khi tuổi đời đã bước vào hơn con số băm (30) và khi lòng nhân đạo của thế giới đã cạn kiệt cho người tỵ nạn Việt Nam. Một thân một mình với học lực chưa xong trung học ở Việt Nam trước năm 1975, sau ngày mất nước thì số phận của hắn chỉ là chôn tương lai trong vùng kinh tế mới rừng thiêng nước độc. Để kiếm sống, hắn và một tên bạn thân phải xoay trở đủ nghề. Hết lên non lại xuống biển, rồi xoay qua chặt củi Đước gần cửa biển Cần Giờ, vác củi lên vai lội bùn quá đầu gối, chất 15 thước củi xuống chiếc ghe 12 mét, và chèo bằng tay, có khi mất 2 ngày mới về đến bến Thị Nghè để bán. Củi Đước được chặt thành khúc dài 8 tấc và rất được ưa chuộng vào thời gạo châu củi quế những năm sau 1975 vì than rất đượm và cháy lâu hơn củi thường. Định mệnh khiến hắn bỏ biển trở lại rừng vì một tai nạn thương tâm xảy ra giết chết thằng bạn thân của hắn. Một đêm cuối năm trời thật lạnh, một nhánh sông có tên Rạch Mả, lòng sông chật hẹp, ngoằn ngoèo, và tối thui, nơi có nhiều ngội mộ của cán bộ cộng sản trong thời chiến tranh, chiếc ghe của hắn đã bán hết củi và được kéo chạy song song bởi một chiếc ghe bạn trang bị máy đuôi tôm Kohler (1). Lúc đó khoảng 2 giờ sáng, tiếng động cơ nổ đều, hai chiếc ghe vẫn đang trên đường về nhà. Hắn được phân công ngồi đằng lái bên ghe hắn để giúp cho tài công ghe có máy trong trường hợp khẩn cấp. Người bạn khác đang nằm ngủ giữa lòng ghe, còn thằng bạn thân nằm ngủ phía mũi ghe. Chiếc ghe máy bên kia cũng có 3 người, hai người khác nằm ngủ và tài công chính đang thức điều khiển máy và bẻ lái. Trùm mền ngồi dựa bánh lái ngủ gà ngủ gật, hắn bị đánh thức bởi tiếng động cơ Diesel ồn ào vang đến từ bên kia khúc quanh. Một đoàn tàu kéo thật dài đang chạy ngược chiều thình lình nhô ra, một sự va chạm dữ dội, ghe lắc lư mạnh giữa tiếng la hét thất thanh của nhiều người. Hai đoàn ghe dạt xa nhau ra, rồi mạnh ai nấy cố gắng điều khiển tàu lấy lại thăng bằng và tiếp tục hành trình của mình. Nhìn về mũi ghe, không thấy X., thằng bạn thân, mà chỉ thấy một góc tấm mền nửa trên ghe nửa dưới nước. Hắn la to yêu cầu tài công dừng lại để kiểm điểm người và đánh giá hư hại. Trời vẫn tối đen, nước thủy triều đang lên lớn nên gió theo con nước thổi lên những cơn gió lạnh buốt da. Cả 5 người đồng thanh kêu tên thằng bạn mà không nghe nó trả lời. Hơn 10 phút trôi qua, mọi người biết chắc rằng bạn mình đã chết. Hắn tiếp tục gào đến khan cổ, chỉ có sự im lặng đến rợn người đáp trả. Cởi áo vắt lên cọc chèo, hắn lao mình xuống dòng nước lạnh chảy xiết, lặn thật sâu đến khi hết hơi trong phổi mới trồi lên. Cứ như thế, hắn và mấy người bạn ghe, thay phiên nhau ngụp lặn mong kiếm được xác bạn mình. Trời dần hừng đông và con nước bắt đầu ròng (nước xuống), tất cả đều mệt lả vì đuối sức và lạnh, vẫn không thấy tăm hơi bạn mình. Trong nỗi tuyệt vọng cùng cực, chợt anh chàng câm bên ghe máy ú ớ la hét và chỉ ngón tay về phía bờ sông. Theo hướng chỉ, hắn thấy xác bạn nằm úp dật dờ trôi tắp vào bờ. Chèo ghe đến gần, hắn lại nhẩy xuống sông đưa xác bạn đến gần thành ghe. Mấy người bạn giúp kéo xác lên, đặt nằm ngay ngắn giữa lòng ghe. Khi vuốt tóc cho bạn mình, hắn thấy một vết cắt khoảng 5 cm bên thái dương trái. Mọi người đồng ý rằng khi bạn hắn té xuống nước, một cánh quạt động cơ chém vào màng tang nhưng không biết cánh quạt của bên nào. Bạn hắn nằm đằng kia, khuôn mặt vẫn như say ngủ, không biểu hiện sự đau đớn nào, chỉ có khuôn mặt nhợt nhạt đi vì lạnh mà thôi. Hắn thề sẽ không bao giờ trở lại nghề sông nước. Cũng lại định mệnh đưa hắn trở lại với nghề sóng nước khi cao trào vượt biên bằng thuyền trở nên rầm rộ vài năm sau đó, hắn được chiêu mộ làm taxi chở người vượt biên, để rồi ngày hôm nay, hắn có mặt tại đất nước tự do và đầy cơ hội này. Hắn hoang mang lắm không biết mình sẽ làm được gì trên quê hương mới mẻ này. Rồi những ngày cực khổ vừa làm vừa học, hắn cũng lấy được mảnh bằng của FAA (Federal Aviation Administration), rồi học thêm lái máy bay loại nhỏ 1 động cơ, để cuối cùng duyên phận đưa đẩy hắn trở thành phi công của loại máy bay không người lái, làm việc theo hợp đồng bay và huấn luyện cho quân đội Mỹ. Một thời gian dài trước đó, hắn bay cho các công ty tư nhân, sau làm việc trong những căn cứ quân sự trong nước, rồi trở thành huấn luyện viên bay (flight instructor) cho quân đội Mỹ. Hắn tình nguyện đi nhiều nơi trên thế giới, kể cả những quốc gia được gọi là vùng chiến sự (combat zone hay war zone), tham dự nhiều chuyến bay trinh sát ở các nước đồng minh, song song với nhiệm vụ theo dõi khủng bố trên khắp vùng trời Trung Đông. Hắn rất tự hào vì đã góp một phần nhỏ phục vụ cho quê hương đã dang đôi tay ôm ấp hắn, cho hắn được tự do theo đuổi ước mơ cháy bỏng của tuổi thơ, và hơn nữa là loại bỏ bớt những phần tử cực đoan cho quê hương mới này và nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày còn nhỏ, vì cha là lính nên gia đình cậu bé sống trong khu gia binh phi trường Sóc Trăng miền Nam Việt Nam, nơi đã ươm mầm và nuôi dưỡng ước mơ bay bổng, đã chắp thêm đôi cánh thiên thần cho cậu bay vào không gian. Hằng ngày cậu thường dõi mắt theo những chiếc khu trục cơ (skyraiders) với những động cơ gầm thét ồn ào, xé không gian lao vút vào bầu trời xanh. Những ngày đầu, cậu sợ hãi bịt chặt tai khi phi cơ gầm rú lao nhanh trên phi đạo lấy đà cất cánh. Sau quen dần, những âm thanh và hình ảnh của những con chim sắt luôn kích thích trí tưởng tượng và óc phiêu lưu của cậu bé quê mùa lớn lên bên những cánh đồng hiền hòa xanh mướt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng những chiếc trinh sát cơ L-19 còn gọi là máy bay Bà Già hay Đầm Già là lôi cuốn cậu bé nhiều nhất vì nó bay chậm và động cơ không ồn ào như các chiến đấu cơ bán phản lực kia. Ngày ấy, khi nhìn những người phi công Việt Nam Cộng Hòa cao lớn, oai vệ trong bộ quân phục bay áo liền quần (coverall), tay cầm nón bay (helmet) và cặp táp, leo vào buồng lái (cockpit) của chiếc phi cơ, đề máy nổ; cậu mê hoặc nhìn theo những cánh quạt quay tít trong khi phi cờ từ từ chạy (taxiing) trên đường băng và bẻ cua để vào phi đạo chính. Hình ảnh những chàng phi công VNCH bước đi hùng dũng in trên bóng trời chiều nhạt nắng trong những chuyến bay hoàng hôn mới đẹp và oai hùng làm sao! Tâm trí cậu lênh đênh phiêu bồng theo từng đôi cánh phóng vút vào trời xanh đến nỗi mẹ kêu về ăn cơm mà cậu cũng không nghe. Thật khó tưởng tượng cậu bé mơ mộng thời ấy nay có thể trở thành “phi công chính” cho loại máy bay không người lái lạ đời của thế kỷ 21. * Một ngày đẹp trời, trong một căn cứ quân sự trên đất Mỹ, có hai chàng phi công, một nhỏ con, gốc Châu Á, người kia mập ú, mắt xanh, tóc vàng, bụng phệ; cả hai quần short, áo polo, dáng điệu lè phè, tay cầm ly soda, đang khệnh khạng bước vào một cái hộp sắt được gọi là GCS (Ground Control Station). Chiếc phi cơ thì đang ở trên đường băng (ramp) đâu đó trong phi trường. Hai chàng phi công này nhìn chán lắm: tướng tá trông “oai phong lẩm... cẩm” gì đâu, dáng dấp lại tương phản với nhau đến buồn cười như trong phim “Ốm Béo” với hai tài tử Laurent và Hardy. Đã vậy, anh chàng mập còn đội thêm cái nón kết quay ngược đằng sau. Mười hai con giáp, không giống con giáp nào cả. Thưa quý độc giả, là một phi công không người lái thì ngoại hình không quan trọng, nếu cao ráo, khỏe mạnh đẹp trai thì thật lý tưởng, còn không thì cũng không sao sất! Không cần phải oai hùng lẫm liệt, cao lớn, khỏe mạnh, “râu hùm hàm én mày ngài” và vai u thịt bắp như Từ Hải. Cận thị đeo kiếng đít chai như hắn cũng không sao. Quan trọng là họ phải biết việc họ đang làm và phải hoàn thành nhiệm vụ thật xuất sắc. Người nhỏ con là hắn, phi công chính, cân nặng 148 lbs., cao 5’7’’, đeo kính khi làm việc; còn người béo tròn là phi công phụ mà trong nghề gọi là SO (Sensor Operator), dễ chừng cân nặng đến 270 lbs., cao 5’.8’’. Với số đo và cân nặng như hai “ông thần nước mặn” này thì khó mà lọt qua được vòng đầu để trở thành phi công máy bay dân sự hay máy bay chiến đấu. Phi công thế kỷ 21 là vậy đó! Hắn ngồi vào ghế bên trái dành cho pilot, người bạn ghế bên phải dành cho SO. Chung quanh là những trang thiết bị điện tử và tiếng máy lạnh chạy xè xè trên đầu. Trước mặt 2 người là hai màn hình mỗi bên, một trên cao và một dưới thấp, cộng thêm 2 màn ảnh nhỏ (monitors) và một bàn phím với tay cầm điều khiển (Joystick) bên phải và tay ga bên trái, thêm hàng tá các nút bấm giống hệt như đang ngồi chơi trò chơi điện tử (game). Sau khi hoàn tất thủ tục “sign in” ký nhận cái hộp sắt GCS cho một nhiệm vụ mới, cả hai mở nút khởi động giàn máy trước mặt. Những con số bắt đầu nhảy trên màn hình. Trong khi chờ đợi hệ thống bay tự điều chỉnh, họ với tay lấy máy liên lạc (Headset) đội vào đầu và liên lạc với cơ trưởng (crew chief) đang túc trực bên phi cơ trên đường băng (ramp). Qua hệ thống liên lạc và màn hình, hắn yêu cầu cơ trưởng (1) bắt đầu những thao tác trước khi bay (pre-flight) và tiếp tục thực hành những động tác cần thiết kiểm tra tình trạng an toàn phi cơ trong khi anh bạn SO lo điều chỉnh ống kính máy quan sát, hệ thống radar, GPS, và những hệ thống phụ cần thiết của nó. Tiếp đến, qua máy camera, hắn cùng người cơ trưởng thực hành những động tác nghề nghiệp kiểm soát tất cả những hệ thống cơ động trên phi cơ bằng cách dò theo một cái checklist dài và kiểm tra từng bước một cách kỹ càng không để sót bất cứ một chi tiết nhỏ nhặt nào. Cuối cùng, sau khi checklist đã xong, cả hai chàng phi công đều coi lại kỹ càng thêm một lần nữa tất cả những thông số và biết chắc là đã sẵn sàng, hắn “bấm cò” để khởi động máy từ bên trong, rồi gọi cơ trưởng: - Crew chief, this is Titan. Radio check. Cơ trưởng, đây Titan. Thử máy liên lạc. - Titan, this is crew chief. I hear you Lima & Charlie. How me? Titan, đây cơ trưởng. Tôi nghe anh lớn và rõ. Anh nghe tôi thế nào? - I got you Lima & Charlie. Tôi nghe anh lớn và rõ. - Crew chief, I go hot inside. Cơ trưởng ơi, tôi “nóng” bên trong. - Titan, I go hot outside. Titan, Tôi “nóng” bên ngoài. Trên màn hình, những thông số máy móc chuyển động và tăng giảm không ngừng cho biết động cơ máy bay đã được khởi động bên ngoài. Những con số nhấp nháy liên tục rồi trở thành bình ổn. Hắn tiếp tục kiểm tra máy móc, nhiệt độ qua những thông tin bên trong (perimeters), lên xuống tay ga, cho nhiên liệu di chuyển qua lại từ bình xăng trước qua bình xăng sau và ngược lại, nhìn hệ thống chủ (Fadec) kiểm soát mọi tính năng điện của động cơ trong khi anh bạn kế bên tiếp tục lo hệ thống GPS và các hệ thống cần thiết cho chuyến bay. Hắn hỏi SO (Sensor Operator): - Ready for Rock and Roll? Sẵn sàng cho cuộc vui chưa? SO: - Go for it. Tới luôn bác tài. Gọi cơ trưởng: - Switches, laser and weapons in flight? Công tắc, laser, và vũ khí sẵn sàng bay? Cơ trưởng: - Switches, laser and weapons in flight. Công tắc, laser, và vũ khí sẵn sàng tình trạng bay. - Crew chief, remove chocks and tie-downs. Clear for taxi. Cơ trưởng ơi, lấy chặn bánh và giây buộc ra. Sẵn sàng taxi. - Chocks and tie-downs removed. Bon voyage. Chặn bánh và dây buộc vừa lấy ra. Thượng lộ bằng an. (Hắn nghĩ thượng lộ bằng “Air” thì hợp hơn). Phi công phụ (SO) cho biết mọi thứ đều “Clear” qua quan sát bằng camera. Hắn cẩn thận nhìn màn hình, tăng ga một chút rồi ấn nút thắng. Chiếc phi cơ chồm lên rồi dừng lại như con tuấn mã bị kềm cương đột ngột. Xong công đoạn thử thắng. Phi cơ từ từ chạy theo kẻ vạch vàng viền đen trên đường băng (Taxiway) rồi bẻ cua phải hướng về đường phi đạo chính. Chiếc phi cơ dừng ở hai vạch đôi và hai vạch đứt đoạn chắn ngang màu vàng một lúc, hắn liên lạc với đài không lưu (Air Traffic Control Tower) xin phép tiếp tục taxi ra chỗ cất cánh (Hold-short line). Phi cơ gầm lên lấy đà lao nhanh trên phi đạo (Runway) với vận tốc 45 MPH (Miles Per Hour) và nhấc bổng lên cao, lao vào bầu trời xanh lơ không một áng mây một cách nhẹ nhàng, như cánh én lao vào trời xuân. Camera nhìn xuống đường phi đạo với đầy vết bánh xe đen chằng chịt đang lùi dần về phía sau. Phi cơ nâng dần độ cao. Hàng rào phi trường, những cây xương rồng saguaro, cactus, ocotillo, cánh đồng cỏ khô cháy, và những đồi núi sỏi đá chạy lùi thật nhanh dưới chân mình. Lần nào cũng vậy, lòng hắn luôn xôn xao một niềm vui bay bổng theo con chim sắt cho đến khi mất hút trong đám mây và một niềm hạnh phúc nhẹ nhàng luôn theo hắn trong chuyến bay đi làm nhiệm vụ và nó kéo dài mãi cho đến khi xong nhiệm vụ và đôi càng máy bay chạm đất xuống mảnh đất thân thương, phi trường nhà (home base). Ngày xưa, thằng bé ngây ngất nhìn con chim sắt cất cánh, mơ mình là chàng phi công ngồi trong cockpit điều khiển đôi cánh sắt bay vào bầu trời xanh, mơ ngắm không gian bao la, mơ nhìn xuống những ruộng lúa xanh ngắt chạy dài như bất tận, mơ những dòng sông uốn khúc lượn lờ, len lỏi qua những xóm làng bình yên, những làn khói bếp ngập ngừng trên mái nhà tranh trong sương chiều. Những niềm đam mê thằng bé dệt thành tơ thì nhiều lắm, bao la lắm. Những ước mơ theo nó vào trong giấc ngủ hằng đêm. Thằng bé mơ thấy nó bay bằng hai cánh tay của chính mình, tiếng gió rít bên tai nghe mới rõ làm sao. Khi vẫy mạnh tay thì bay nhanh, khi thì chậm, khi lên cao, lúc xuống thấp, khi bay qua những đồi cao, rồi lượn dọc theo những thung lũng tuyệt đẹp với những đàn nai đang uống nước bên con suối lặng lờ. Nó thấy mình bay là đà, trầm cả thân hình vào giòng suối mát lạnh, lạnh lắm, xong lại vút lên cao, rồi nó thức giấc với cảm giác ướt nhẹp và “lạnh lắm” phía dưới lưng quần. Chao ôi, giấc mơ thành sự thật. Dream comes true. Khổ nỗi chỉ thành sự thật ở đoạn cuối giấc mơ mới khổ thân thằng bé. Phi cơ đang bay ở độ cao 1500 feet, có thể nhìn thấy xe cộ lưu thông bên dưới rất rõ ràng. Lên 3000 feet, những căn nhà và cảnh vật cũng nhỏ đi dần đi, nhường chỗ cho những dãy núi đá màu nâu sậm xen lẫn những cụm xương rồng rải rác đó đây. Không hẹn mà cả hai chàng phi công đều với lấy ly nước ngọt hút rồn rột, âm thanh nghe thật vui tai trong cái “hộp sắt” lạnh tê tái vì máy lạnh đang chạy hết công suất. Với tay lấy cái áo khoác sau ghế mặc vào cho đỡ lạnh, hắn lại dán mắt vào bốn màn hình tiếp tục quan sát và điều khiển phi cơ. Sau khi đưa tọa độ điểm đến vào hệ thống, chỉnh cho “con chim ưng” bay tự động, và để tốc độ bình phi ở độ cao nhất định 10,000 feet, giờ đến phiên anh bạn SO ngồi bên làm việc với radar và các dụng cụ quan sát (Payload) như kính hồng ngoại (infrared camera). Việc này người trong nước gọi là công việc “nghe nhìn”, nghe thô nhám lỗ tai làm sao! Mặc kệ! Hắn bắt đầu mơ. Bầu trời xanh lơ của sa mạc, một mầu xanh không chút gợn mây, màu xanh ngút ngàn đến tận chân trời cứ trải dài trước mắt hắn một quang cảnh tuyệt đẹp không bút nào tả nổi. Đối với hắn, nó không hề đơn điệu và tẻ nhạt một chút nào. Trái lại, hắn luôn thấy mình bồng bềnh, lênh đênh, phiêu du, đằng vân giá vũ trên đôi cánh của chính mình. Một cảm giác thật bình yên, tự tại. Hắn thu (zoom) khoảng cách lại gần hơn để thấy những cánh đồng trồng cỏ ngựa (hayes) bằng phẳng đã gặt xong với nhiều đụn rơm chất thành đống. Cánh đồng trải ra trước mắt, bên dưới kia đưa hắn trở về với tuổi thơ trên những thửa ruộng, những đụn rơm hiền hòa nằm bên con sông Hậu. Hình như đâu đây còn thoảng mùi rơm rạ của đồng lúa mới gặt xong. Hắn thấy lại mình là một thằng bé đang chạy chơi cùng đám bạn trên những cánh đồng lúa còn trơ gốc rạ đó. Đám trẻ con chơi đá gà bằng cách co đùi vào, tay phải nắm chặt cổ chân mình làm vũ khí, nhẩy lên đá vào đùi địch thủ, để rồi bị đá té vào những đống rơm chất trên cánh đồng. Mệt nhoài sau những trò chơi, bọn chúng lại lùi khoai vào đống lửa rơm, những củ khoai lang dương ngọc, lấy ra vừa thổi vừa ăn trong khi ráng chiều đang chầm chậm rơi, và đàn cò đang rủ nhau bay về tổ thì chúng mới chịu ai về nhà nấy. Có những chuyến bay ngoài nước Mỹ, nơi một vùng đất xa xôi bên Phi Châu ở vùng đồng bằng châu thổ. Vừa cất cánh khỏi phi trường, nhìn xuống thấy người dân ngừng tay cuốc nhìn lên, vẫy tay về phía phi cơ khiến hắn nhớ thật nhiều về quê hương bên kia bờ Thái Bình Dương. Họ cũng trồng trọt và chăn nuôi như quê của hắn. Rồi những thảo nguyên hiện ra, mênh mông chạy dài, đó đây lác đác ít bụi cây thấp, nhấp nhô xen lẫn vài đồi đá trọc. Những ngôi làng nhỏ, những cánh đồng bắp, người dân đang vun xới, cày bừa, gieo hạt trên luống cày dọc theo những đầm nước nhỏ của con sông cát. Chắc họ cũng có ước mơ đơn giản như người dân quê mình là mong giọt mồ hôi thấm xuống đất sẽ làm hạt nảy mầm và trĩu nặng bông trái. Xa xa, những người dân quê vội vã lùa đàn dê rảo bước nhanh trên đường về nhà trước khi trời sập tối. Có khi hắn bay dọc theo những con sông nhỏ và cạn, say sưa nhìn những cô thôn nữ da đen đang giặt quần áo bên bờ sông. Đây nhóm các thiếu nữ vừa tắm vừa vui đùa tát nước vào nhau, kia nhóm những đứa trẻ bơi lội vùng vẫy, long nhong từ những cành cây lao mình xuống nước. Sao mà nhớ quê mình gì đâu! Nhớ con đường làng nhỏ hẹp với mấy con heo mọi ủn ỉn xục xạo trong các bụi cây, đàn gà con kêu chiêm chiếp tranh giành mấy con trùng do gà mẹ bới cho. Có gì khác với quê hương nơi hắn sinh ra là mấy? Những chuyến bay về phía bắc Châu Phi, phong cảnh lại hoàn toàn khác biệt. Toàn núi đá khô rốc. Lâu lắm mới thấy một hồ nước nhỏ được bao quanh bởi một ít cây cối. Vài cô gái đội những vò nước trên đầu đi từ hồ nước về nhà, hay những người đàn ông dùng lừa chuyên chở đồ vật qua lại trên những vùng đồi cát. Rải rác đó đây là những căn chòi tranh nhỏ, hình tròn được xây cất bằng bùn đất trông lạc loài cô đơn giữa một sa mạc mênh mông. Thông số cho biết nhiệt độ tăng dần khi bay ngang đây. Thường thì hắn phải bay cao để bên dưới không thấy mình, nhưng đôi khi hắn cũng xé rào xuống thấp dưới 6000 hay 7000 feet để “mơ” một chút rồi lại lên cao. Ngoài nhiệm vụ được giao với những chuyến bay dán mắt chăm chú vào màn hình, không một tiếng động, ngoài tiếng máy lạnh và liên lạc điện đàm với nhau; cũng có những pha cũng khá gây cấn và hồi hộp khi phát giác mục tiêu hay người cần theo đuổi. Phi cơ bay chậm và thu hình ảnh lại gần để dễ quan sát. Phải kiên nhẫn lắm, đôi khi hàng giờ chỉ để theo đuôi một mục tiêu. Thường thì sự kiên nhẫn sẽ được trả công một cách bất ngờ; đôi khi kết quả chỉ là dã tràng xe cát biển Đông. Cuộc đời phi công không người lái sẽ rất đơn điệu và buồn tẻ cho ai đó, nếu như không có được một đầu óc tưởng tượng phong phú và một chút chất thơ trong tâm hồn. Khi nhìn một dãy núi, hắn thấy đó là hình dáng của một con voi đang quỳ hay thấy nhiều hình dáng ngộ nghĩnh đến buồn cười. Ngoài những nhiệm vụ đôi khi rất căng thẳng, lại có những chuyến bay rất dễ dàng và bình yên. Hắn thường để tâm hồn mình chạy rông phiêu du theo trí tưởng tượng không biên giới, tìm đến đến những hình ảnh huy hoàng, không tưởng, nhưng lúc nào cũng tuyệt đẹp như chuyện thần tiên. Nói kiểu “thơ nhái” theo thơ Xuân Diệu: “Là Pilot nghĩa là vui với gió, / Mơ theo trăng và thơ thẩn cùng mây”. Lúc mơ thì cứ mơ, nhưng lúc cần thực tế thì phải rất thực tế và phải làm việc nghiêm chỉnh. Với một ba lô, một túi vải kéo có bánh xe (duffle bag), hắn lê gót phong trần nhiều nơi trên thế giới, được nhìn những buổi hoàng hôn đẹp như tranh vẽ, ngắm bình minh rạng rỡ mặt trời, được thỏa mộng tang bồng hồ thỉ, nhất là giấc mộng tuổi thơ đã trở thành hiện thực và trọn vẹn. Nếu một lúc nào đó, bạn thấy một chiếc UAV cất cánh, bạn hãy cám ơn những người miệt mài làm công việc giữ cho quê hương này thanh bình, an ninh, cho bạn một cuộc sống ấm êm không lo sợ bị khủng bố. Trên đời này, mọi nghề nghiệp lương thiện đếu đáng trân trọng, nhưng chắc không nhiều nghề ngồi một chỗ mà thấy được xa từ hàng ngàn dặm, đủ mọi cảnh sắc lạ lùng của thế giới như nghề phi công của loại không người lái. Tháng 3/2019 Nguyễn Văn Tới REFERENCES: Một loại thủy động cơ rất thông dụng ở vùng sông nước miền Tây. Người dân quê dùng nó để chạy ghe xuồng. Động cơ được gắn thêm một trục dài bằng sắt khoảng 2 – 4 mét, phía cuối trục là cái cánh quạt để đẩy nước. Khi khởi động, dùng dây buộc vào bánh trớn và giật mạnh. Hai loại máy phổ biến lúc đó là Kohler và Clinton. Dân mình thường gọi đùa là máy Cô Le, lè lưỡi. Vì giật máy mệt đến lè lưỡi mà không nổ. Tiếng Việt mới trong nước gọi phi công chính là cơ trưởng là không đúng. Gọi “giặc lái máy bay” nghe còn đỡ. Cơ trưởng phải là người trưởng cơ khí lo về máy móc và cơ phận của máy bay. |
Tháng Tư Tiễn Biệt - Nguyễn Thị Thêm
Tháng Tư Tiễn Biệt - Nguyễn Thị Thêm
![]() |
Câu Chuyện Trên Biển Đông - Lại Thế Lãng
![]() Câu Chuyện Trên Biển Đông - Lại Thế Lãng Ông ra đi vào một đêm tối trời tại bãi biển ở phía trước nhà dòng Chúa Cứu Thế Nha Trang. Chọn địa điểm này làm nơi xuất phát cho một cuộc vượt biên quả là một việc làm táo bạo, nhưng những người tổ chức chuyến đi không phải là không có lý khi đi đến quyết định như vậy. Là vì nó tạo được sự bất ngờ, không ai có thể nghĩ một chiếc thuyền vượt biên dám ngang nhiên lấy người và khởi hành ngay tại một bãi tắm mặt tiền của thành phố. Chính yếu tố bất ngờ này đã lừa được bọn công an biên phòng giúp cho chiếc thuyền vượt biên có thể ra khơi một cách an toàn mà không bị phát hiện. Ông được thông báo giờ giấc và địa điểm vào lúc chập tối. Tin này ông trông đợi từ lâu nhưng đã đến với ông thật không đúng lúc tí nào vì chiều hôm đó ông vừa trải qua một cơn sốt nặng. Cứ như lệ thường thì sau một cơn sốt nặng như vậy ông sẽ phải nằm trên giường cả tuần lễ hay ít ra cũng phải ba hay bốn ngày mới mong nhổm dậy được. Nhưng lần này thì khác, không những ông không thể nằm trên giường mà còn phải dấn thân vào một chuyến đi đầy bất trắc. Nếu chuyện vỡ lở ông sẽ bị bắt, bị tù tội; ông cũng có thể bỏ mạng vì cơn bệnh ông đang mang trong người hay thậm chí ông cũng có thể bị hy sinh tính mạng trên biển cả vì phong ba bão táp. Dù biết vậy ông cũng phải ra đi, không có cách chọn lựa nào khác. Khi ông đi tù cải tạo về, không có nơi nương tựa, ông phải sống nhờ tại nhà một người bà con xa. Hoàn cảnh của ông thật bi đát: vợ bỏ đi lấy chồng khác, con cái bỏ nhà đi lang thang nay không biết ở đâu. Thấy tội nghiệp, người bà con này đã cố tìm cho ông một lối thoát bằng cách chạy vạy, mượn đầu nọ vay đầu kia để kiếm đủ tiền mua cho ông một chỗ ngồi trên chiếc thuyền vượt biển. Nếu bỏ lỡ chuyến đi này ông sẽ chẳng bao giờ trả nổi món nợ nói gì đến việc vay mượn tiền bạc để làm một chuyến đi khác. Nghĩ như vậy nên ông nhất quyết phải ra đi cho dù chuyện gì sẽ xẩy đến. Ông mặc quần áo thật ấm và với một ít thuốc men đã chuẩn bị sẵn, ông ra khỏi nhà trong đêm tối và lần mò đến điểm hẹn. Khi ông đến nơi thì thuyền đang chuẩn bị rời bến và lúc ông vừa bước chân lên thuyền cũng là lúc cánh buồm được kéo lên để thuyền có thể ra khơi mà không gây tiếng động. Ngay sau khi lên thuyền ông chỉ còn đủ sức bò trên sàn và tìm đến một góc thuyền rồi nằm bẹp ở đó. Tuy mệt lả vì cơn sốt trở lại, tai ông vẫn nghe được tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền khi chiếc thuyền lướt nhẹ trên mặt biển. Và đến khi chiếc máy trên thuyền được phép cho nổ thì ông cũng đoán được là con thuyền đã ra đến vùng biển an toàn, không còn sợ bị bọn công an biên phòng rượt đuổi nữa. Sau vài ngày sống trên thuyền, ông biết được trên thuyền có mười người đàn ông kể cả ông và khoảng ba chục người vừa phụ nữ vừa trẻ con. Một cô gái trẻ thấy ông bệnh hoạn lại không có thân nhân đi theo đã tận tình giúp đỡ ông. Cô gái lấy nước cho ông uống thuốc, nấu cháo cho ông ăn và tìm đồ đắp cho ông mỗi khi ông bị lạnh. Cô gái cũng kể cho ông nghe sơ qua về gia cảnh của cô. Cô cho biết có ba người anh trai đã vượt biên trước hiện đang ở trong trại tỵ nạn ở Phi. Cha cô cũng là sĩ quan đi tù cải tạo mới về. Trước kia cha cô là một sĩ quan huấn luyện võ thuật và cũng đã từng đoạt giải vô dịch về môn bắn súng lục. Mẹ cô một người đàn bà suốt đời vì chồng vì con đã tần tảo làm đủ mọi việc lấy tiền tiếp tế cho chồng ở trong tù và lo cho con cái vượt biên. Lần này những người cuối cùng trong gia đình cô ra đi gồm cô và cha mẹ cô. Hôm đó là ngày thư tư kể từ khi chiếc thuyền rời bãi biển Nha Trang. Trên đại dương mênh mông chỉ còn nhìn thấy trời và nước, con thuyền cứ thẳng hướng lướt tới trong lúc tiếng máy nổ giòn giã vang dội cả một vùng biển. Không ai biết ngày sau sẽ ra sao nhưng ai nấy đều nuôi một niềm hy vọng là rồi đây con thuyền sẽ cập bến an toàn và mọi người sẽ đến được nơi muốn đến, thoát khỏi cảnh sống lầm than dưới chế độ độc tài Cộng sản để bắt đầu một sống mới tại một nơi nào đó trên một vùng đất tự do. Bỗng người ta nghe tiếng máy nổ trở nên khác lạ nhưng người tài công tỏ ra không bận tâm vì nghĩ có lẽ vì xăng đã cạn. Xăng được chuyển tới và đổ đầy bình nhưng tiếng máy nổ vẫn không trở lại bình thường, tiếng nổ cứ yếu dần yếu dần rồi tắt lịm. Bây giờ thì ai cũng nhận ra là máy bị trục trặc chứ không phải vì hết xăng. Người tài công xách đồ nghề ra sửa chữa và mặc dù đã tận lực, máy cũng không chịu nổ trở lại . Cuối cùng thì được biết máy bị gẫy mất một cơ phận nhưng cơ phận đó lại không có sẵn ở trên thuyền để thay thế. Vậy là người ta đành bó tay để mặc cho chiếc thuyền từ đó lênh đênh trên mặt biển, trôi giạt theo sóng gió chứ không còn điều khiển con thuyền đi theo hướng muốn đi được nữa. Đã nghèo còn gặp cái eo. Từ khi thuyền hư máy, thời tiết lại trở nên khắc nghiệt hơn. Ban ngày trời nóng như đổ lửa, đêm đến thì mưa gió đùng đùng lạnh buốt thấu xương khiến nhiều người không chịu nổi đã ngã bệnh, nhất là phụ nữ và trẻ con. Xác chết đầu tiên được thả xuống biển là một phụ nữ trung niên. Khi thả xác xuống biển người ta hy vọng người phụ nữ xấu số này sẽ được an nghỉ dưới lòng đại dương; nhưng ngay khi thân xác người phụ nữ chưa kịp chìm xuống biển thì đã thấy những con cá mập xuất hiện tranh giành nhau và chỉ trong một chớp nhoáng, thân xác người phụ nữ đã bị xâu xé thành nhiều mảnh và bị cướp đi bởi những con cá mập háu đói này. Những ngày sau đó vẫn tiếp tục có người chết. Có người không chịu cho thả xác thân nhân của họ xuống biển vì không muốn nhìn thấy cảnh đau lòng; nhưng rồi vì vấn đề vệ sinh, người ta đã quyết định là tất cả các xác chết phải được thả xuống biển để bảo đảm sức khỏe cho người còn sống. Xác chết được tiếp tục thả xuống biển đã là cớ để cho bọn cá mập quần thảo quanh chiếc thuyền chờ mồi chứ nhất định không chịu rời xa. Nhiều lúc chúng bơi sát mạn thuyền đưa cái lưng đen bóng lên trên mặt nước làm cho nhiều người sợ hãi. Trong suốt thời gian thuyền trôi giạt trên mặt biển mọi người mỏi mắt trông chờ có một chiếc tàu nào đó chạy ngang thấy được sẽ cứu vớt nhưng tuyệt nhiên không thấy có một chiếc tàu nào xuất hiện. Tình trạng cứ như thế cho đến ngày thứ hai mươi chín thì lương thực và nước uống đã cạn hết. Đói thì còn chịu đựng được ít lâu chứ khát thì thật là khó chống chọi. Ngoại trừ một số trong đám đàn ông còn đủ sức đi lại còn hầu hết những người trên thuyền đều đã kiết sức vì thiếu nước. Người lớn, trẻ con nằm la liệt miệng há hốc chỉ còn chờ chết. Giữa lúc không còn một hy vọng nào nữa vào một buổi sáng người ta thấy một chấm đen xuất hiện trên mặt biển. Chấm đen ấy lớn dần và khi đã nhìn thấy rõ người ta nhận ra đó là một chiếc tàu không lớn lắm. Ai nấy đều mừng rỡ hy vọng sẽ được cứu sống. Chiếc tàu từ từ cặp sát vào chiếc thuyền vượt biên. Một người đàn ông từ trên tàu nhảy xuống thuyền quan sát và sau khi được biết những người trên thuyền kiệt sức vì thiếu nước, gã đàn ông trở lại chiếc tàu và xách một can nước xuống thuyền. Lập tức nước được phân phối và như là thần dược, sau khi được uống nước mọi người trên thuyền hồi tỉnh dần dần. Những thân xác trước đó dường như không còn cựa quậy được bây giờ đã có thể cử động, đi đứng được. Sức sống đã trở lại trên những con người khốn khổ. Gã đàn ông nói ít câu với đám người trên thuyền trước khi trở lại chiếc tàu. Không có ai hiểu gã nói gì nhưng qua điệu bộ, người ta đoán gã hứa trở về tàu để đem thực phẩm và lấy thêm nước uống cho người trên thuyền. Mọi người chờ đợi. Khoảng năm phút sau gã đàn ông trở lại thuyền và đi theo sau gã còn có 4 người nữa. Mọi người ngỡ ngàng vì trong cả năm người không thấy người nào mang những thứ mà họ đang trông đợi. Thay vì nước và thực phẩm, trên tay mỗi người đều cầm dao, búa bửa củi hay là một thanh sắt. Bây giờ mọi người đã vỡ lẽ. Thì ra bọn này là hải tặc chứ không phải là cứu tinh của họ. Một tên trong bọn có lẽ là tên đầu sỏ vì ngoài cái búa bửa củi cầm lăm lăm trên tay hắn còn có một khẩu súng lục lận ở lưng quần. Tên này ra lệnh cho đám thuộc hạ kêu từng người đàn ông trên thuyền đứng dậy và khám xét cẩn thận. Khám xong người nào chúng cho người đó sang chiếc tàu của chúng và chỉ cho đám đàn ông ngồi tập trung tại một nơi ở phía cuối chiếc tàu. Một tên trong bọn sau khi kiểm soát thấy còn một người đàn ông đang nằm ở một góc thuyền, hắn tiến đến nắm áo lôi dậy nhưng người đàn ông không đứng dậy nổi. Tên này biết người đàn ông này quá yếu, hắn thả ông ngã quỵ xuống sàn rồi bỏ đi, có lẽ hắn nghĩ có để người đàn ông bệnh hoạn này ở lại thuyền cũng chẳng hại gì vì ông hoàn toàn không còn sức kháng cự. Sau khi đã lùa hết chín người đàn ông trên thuyền sang bên chiếc tàu của chúng, tên đầu sỏ ra lệnh cho đồng bọn xúm vào lục soát từng người phụ nữ và trẻ con. Tiền bạc, nữ trang và bất cứ vật gì khám xét thấy chúng tước đoạt hết không chừa thứ gì. Sau khi đã vơ vét tất cả của cải trên thuyền bọn hải tặc bắt đầu giở trò bỉ ổi đối với phụ nữ. Tên đầu sỏ nhìn thấy cô gái trẻ ngồi núp sau lưng bà mẹ, hắn xông tới nắm cô gái kéo ra. Cô gái vùng vẫy nhưng không thể cưỡng lại sức mạnh của hắn. Hắn giật phăng chiếc áo cánh cô gái đang mặc rồi dùng sức đè cô gái xuống sàn thuyền định cưỡng hiếp. Người mẹ quá sợ hãi nhưng trước cảnh tượng ấy bà không thể ngồi nhìn con gái bị tên dâm tặc hãm hại, bà nhào thẳng về hướng tên dâm tặc này quyết sống chết với hắn. Không nhân nhượng, tên hải tặc vung búa phang một búa vào đầu người mẹ khiến bà lăn ra chết liền tại chỗ. Quá uất hận và đau khổ, cô gái thét lên rồi dùng hết sức đưa hai tay định móc mắt tên đầu sỏ nhưng những ngón tay của cô gái chỉ đâm trúng một mắt của hắn khiến cho hắn đau đớn, gầm lên như một con thú dữ. Lập tức, hắn túm lấy cô gái rồi với tất cả sự hung bạo của một tên sát nhân, hắn bóp cổ cô gái cho đến khi cô gái tắt thở mới chịu buông ra. Cảnh hỗn loạn diễn ra trên thuyền cùng với những tiếng la hét của phụ nữ và trẻ con khiến cho đám đàn ông đang ở bên chiếc tàu không cầm lòng được. Họ bảo nhau trở về thuyền cùng liều chết với bọn hải tặc. Tên đầu sỏ thấy đám đàn ông ùn ùn kéo nhau trở lại thuyền hắn liền rút súng hăm dọa nhưng không ngăn cản được những người chồng, người cha đang nóng lòng vì sự an nguy của vợ con họ. Người trở lại thuyền đầu tiên là cha cô gái. Vừa kịp nhìn thấy vợ và con nằm chết thê thảm trên sàn thuyền, ông liền bị tên đầu sỏ nã đạn vào ngực. Dù bị trúng đạn, cha cô gái đã nhanh nhẹn nhào tới dùng một thế võ quật ngã đối thủ và đạt được khẩu súng lục từ trong tay hắn. Thấy tên đầu sỏ gặp nguy, bọn hải tặc cùng nhào tới uy hiếp cha cô gái. Nhưng cha cô gái, một người đã từng đoạt giải thiện xạ về môn bắnsúng lục đã lần lượt bắn hạ từng tên. Còn một viên đạn nữa, cha cô gái định bắn hạ luôn tên đầu sỏ nhưng đúng vào lúc viên đạn ra khỏi nòng súng thì cha cô gái ngã quỵ. Do vậy mà viên đạn đã đi trật mục tiêu và tên đầu sỏ đã thoát chết. Quá kinh hãi và lợi dụng lúc chộn rộn, tên đầu sỏ hải tặc chạy trở về chiếc tàu, bỏ lại xác đồng bọn trên chiếc thuyền vượt biên, vội lái chiếc tàu chạy mất. Sau khi tên hải tặc còn sống sót bỏ chạy, tình hình trên thuyền trở lại ổn định. Kiểm điểm lại thì ngoài ba người trong gia đình của cô gái bị chết, chỉ có một số ít phụ nữ khác bị thương nhẹ do chống cự với bọn hải tặc. Chưa có phụ nữ nào bị chúng làm nhục. Một cuộc dọn dẹp đã diễn ra ngay sau đó. Xác bốn tên hải tặc bị lăn xuống biển, tất cả vũ khí chúng để lại cũng bị liệng xuống biển. Xác của ba người trong gia đình cô gái cũng lần lượt được thả xuống biển trong nỗi tiếc thương và tiếng nấc uất nghẹn của những người đồng bào. Hy vọng được cứu sống đã tiêu tan bây giờ còn thêm nỗi chán chường do cảnh chết chóc vừa xẩy ra trên thuyền. Chiếc thuyền vượt biên lại tiếp tục lênh đênh trong cõi vô định. Đến khoảng giữa trưa người ta thấy có hai chiếc tàu đang rẽ sóng chạy về phía chiếc thuyền. Một trong hai chiếc tàu đó là chiếc tàu của bọn hải tặc đã đánh phá chiếc thuyền vượt biên hồi sáng. Chiếc thứ hai chắc cũng của bọn hải tặc được gọi đến để trả thù. Mọi người nhìn nhau ngao ngán, chưa biết đối phó ra sao nhưng trong một tình thế không thể làm gì hơn được thì chỉ có nước chấp nhận tất cả, kể cả cái chết. Hai chiếc tàu kè sát hai bên chiếc thuyền. Từ chiếc tàu của bọn hải tặc hồi sáng, tên hải tặc còn sống sót, với một mắt bị băng bó, nhảy xuống thuyền. Từ chiếc tàu thứ hai cũng có mấy người đàn ông nhảy xuống thuyền nhưng đều mặc đồng phục. Thì ra những người này là nhân viên công lực chứ không phải là hải tặc. Tên hải tặc còn sống sót lượm chiếc can nằm lăn lóc trên sàn thuyền đưa cho những nhân viên này xem như muốn chứng minh điều gì đó và hắn nói với họ những điều gì không ai hiểu. Những nhân viên này quan sát một lúc rồi cho cột chiếc thuyền vào phía sau chiếc tàu của họ và kéo vào bờ biển Thái Lan. Tại đây phụ nữ và trẻ con được chuyển đến trại tỵ nạn còn tất cả những người đàn ông đều bị tống giam để điều tra. Cuộc điều tra không làm sáng tỏ được vấn đề vì những nhân viên thẩm vấn không chịu để ý đến lời khai của nhân chứng. Họ cứ khăng khăng cho rằng tất cả đám đàn ông Việt Nam đều là thủ phạm đã dính líu đến việc sát hại bốn ngư phủ của Thái Lan. Lập luận của họ là thuyền của những người vượt biên bị hỏng máy nên những người trên thuyền đã nghĩ đến việc giết người để cướp tàu khi những ngư phủ Thái Lan vì lòng nhân đạo đã ghé lại tìm cách giúp đỡ. Cuộc điều tra vô tình đã biến thủ phạm trở thành nạn nhân và nạn nhân trở thành thủ phạm. * Người đàn ông kể lại câu chuyện rành mạch mặc dầu thảm kịch đã xẩy ra từ hơn hai chục năm rồi. Sở dĩ ông nắm vững mọi chi tiết vì ông là nhân chứng của toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối. - Như vậy là bác cũng ở trong số những người bị tống giam" - Tất nhiên rồi. Nhà chức trách Thái Lan bắt nhốt tất cả đám đàn ông chúng tôi, không chừa một ai. - Rồi sao bác thoát khỏi cảnh tù tội" - Còn những nạn nhân khác có được thả không" Đám người ngồi quanh ông trong một dịp họp mặt thuyền nhân tranh nhau đưa ra câu hỏi vì muốn biết câu chuyện sau đó như thế nào. Ông nhấp một miếng nước trà rồi chậm rãi nói tiếp: - Câu chuyện ly kỳ lắm. Các chú cứ để lão từ từ kể cho mà nghe. Theo thói thường thì phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, người Thái Lan dĩ nhiên phải bênh vực người Thái Lan; ở trên đời này làm gì có công lý. Từ khi bị đưa vào nhà giam, đám thuyền nhân bị oan ức tưởng đâu sẽ chẳng có cơ hội minh oan nhưng một hôm bỗng dưng được gọi lên văn phòng trại giam ký giấy tờ rồi được phóng thích và sau đó được chuyển đến trại tỵ nạn. Không ai hiểu tại sao trong lúc cuộc điều tra chưa ngã ngũ và đang hoàn toàn bất lợi cho đám thuyền nhân thì họ lại được thả. Ít lâu sau nhờ có một người Việt sinh sống ở Thái Lan đọc báo rồi kể lại thì người ta mới hiểu rõ cớ sự. Tất cả câu chuyện được bắt đầu từ việc tên đầu sỏ hải tặc trong cơn say rượu đã chém chết đứa con gái của hắn. Bài báo kể rằng sau khi gây án mạng, tên này bị tống giam. Từ nhà giam hắn xin được phép trở về dự đám tang của đứa con gái. Trong tang lễ hắn khóc lóc và vô tình thốt ra lời lẽ than vãn rằng không phải là hắn mà chính "cô gái đó" đã khiến hắn ra tay giết hại đứa con. Lời than vãn đó đến tai một nhà báo và "cô gái đó" đã được nhà báo này khai thác, đặt thành nghi vấn, bàn luận tùm lum trên báo khiến cho giới hữu trách không thể làm ngơ. Cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra án mạng do đó đã được tiến hành xoay quanh vấn đề "cô gái đó". Cuộc điều tra này đã dẫn đến một vụ án mạng khác xẩy ra trên mặt biển mấy tháng trước có liên quan đến một số thuyền nhân Việt Nam hiện còn đang bị giam giữ. Trong vụ va chạm giữa chiếc tàu đánh cá của Thái Lan và chiếc thuyền vượt biên của người Việt Nam, hắn là người duy nhất sống sót trên chiếc tàu của bọn hải tặc nhưng hắn được coi là vô can trong vụ án. Mặc dầu vậy trong lòng hắn vẫn cảm thấy không được yên ổn. Sau vụ việc đó hắn không đi biển nữa nhưng hắn không thoát khỏi bị ám ảnh bởi những hình ảnh ghê rợn do hắn gây ra. Nhiều đêm hắn giật mình thức giấc và không ngủ lại được vì những hình ảnh này cứ diễn đi diễn lại trước mắt. Hắn không thể nào quên cảnh tượng hãi hùng khi hắn bóp cổ cô gái cho đến lúc tắt thở. Khi hắn buông tay ra, hắn thấy lưỡi cô gái lè dài, hai mắt trợn ngược đầy căm phẫn như muốn nói cho hắn biết hắn sẽ bị trả thù. Nhiều lần đang ngủ hắn thấy cô gái đến lôi đầu hắn dậy hạch hỏi tội lỗi của hắn, có lần cô gái còn làm dữ buộc hắn phải đi tự thú tất cả các tội hắn đã gây ra nếu không hắn sẽ bị bóp cổ chết. Đôi khi hắn cũng muốn làm theo ý cô gái nhưng nghĩ lại nếu đi tự thú hắn sẽ lãnh một bản án nặng nề do đã trực tiếp sát hại ba mạng người Việt Nam và gián tiếp gây ra cái chết của bốn tên đồng bọn của hắn. Do thần kinh căng thẳng thường xuyên, dần dần hắn bị chứng mất ngủ, hắn không còn tìm được những giấc ngủ bình thường. Hắn vô cùng sợ hãi khi màn đêm buông xuống vì trong lúc mọi người an giấc thì đầu óc hắn cứ quay cuồng với những hình ảnh đáng sợ kia. Từ đó hắn bắt buộc phải mượn men rượu mới mong tìm được giấc ngủ. Tối hôm đó, như thường lệ, hắn tìm đến quán ruợu và chệnh choạng ra về trong cơn say. Vừa bước vào nhà hắn ngã quỵ xuống. Hắn cảm thấy có người đến đỡ hắn dậy và bên tai hắn nghe giọng nói quen quen nhưng dụi mắt nhìn kỹ lại, hắn thấy người đang ở bên cạnh hắn chính là cô gái. Cô gái đã bị hắn hại chết thảm thương chỉ có thể trả thù hắn chứ đâu có thể xử tốt với hắn. Nghĩ vậy hắn vùng vẫy cố xua đuổi cô gái. Miệng hắn nói lảm nhảm lúc thì la lối lúc lại năn nỉ nhưng cô gái vẫn không chịu buông hắn ra. Hắn lấy hết sức xô cô gái ra để chạy xuống bếp nhưng cô gái cũng không chịu buông tha, cứ đi theo hắn. Túng thế, hắn giật phăng con dao bếp chém loạn xạ. Khi tỉnh rượu và thấy đang ở trong nhà lao hắn mới biết đã ra tay giết chết đứa con gái của hắn. Trong cuộc điều tra của nhà chức trách hắn đã ngoan ngoãn thú nhận tất cả tôi ác đã gây ra trên biển ngày nào. Hắn thuật lại chi tiết diễn biến nội vụ, hắn khai báo rõ ràng đã giết cô gái như thế nào, đã hạ sát hai người thuyền nhân khác ra sao. Hắn cũng cung khai với nhà chức trách rằng bốn tên hải tặc đồng bọn của hắn bị giết không có liên quan gì đến những người đàn ông Việt Nam đang bị giam giữ. Hắn còn thỉnh cầu nhà chức trách trả tự do cho họ vì họ vô can. - Nhờ vậy mà bác và những người bị giam mới thoát khỏi cảnh tù tội" - Đúng vậy. Có người còn nghĩ không phải là tự nhiên mà hắn thỉnh cầu trả tự do cho đám chúng tôi. - Ý bác nói là... - Chính oan hồn cô gái đã cứu chúng tôi. Lại Thế Lãng at 4:13 PM |
Nhạc Điệu Tháng Tư - Đỗ Công Luận
![]() |
Hương Lửa Binh - Đỗ Công Luận
![]() |
Khi Dễ Đàn Bà Quá Ta!
![]() |
Bởi Em Là Của Người Ta - Đỗ Công Luận
![]() |
Phụ̣ Nữ Và Chất Độc - Bùi Văn Thuận
![]() Lâu nay, khi nhắc đến chất độc người ta sẽ nghĩ đến các loại như xianua, thạch tín (Arsen) hay thủy ngân... Thậm chí là nghĩ đến chất độc thuộc dạng phóng xạ (như các tin đồn thanh trừng ở chóp bu nước nhà). Tuy nhiên các chất độc đó thuộc dạng vô cơ và chỉ là con cháu so với chất độc dạng hữu cơ. Dưới đây là 5 loại chất độc khủng khiếp nhất mà nhân loại từng biết và điều chế (tìm ra) được. 1. Ricin Đây là một chất độc cực mạnh, là một lectin tự nhiên (protein có khả năng liên kết với carbohydrat) được tìm thấy trong hạt của cây thầu dầu. Khi nhiễm độc ricin sẽ có hiện tượng: ói ra máu, hoại tử, xuất huyết ở một số cơ quan, suy thận, trụy tim mạch, và tử vong sau 6-14 ngày. Liều gây chết trung bình (LD50) của ricin là khoảng 22 microgram mỗi kg trọng lượng cơ thể (tức là cần 1,78 mg cho một người trung bình). Nói nôm na là 1 kg ricin có thể giết chết 562.000 người nếu tiêm vào cơ thể. Năm 1978, nhà bất đồng chính kiến người Bulgaria Georgi Markov, đã bị cảnh sát mật Bulgaria ám sát trên một con đường ở Luân Đôn bằng thiết bị bắn kim tiêm có ricin vào đùi. Tuy nhiên người ta cho rằng: Khả năng cao vụ đầu độc này được thực hiện bởi cơ quan mật vụ Liên Xô thời đó là KGB. 2. VX Đây là loại chất độc tác động lên thần kinh, được tổng hợp từ các sản phẩm hóa dầu và hợp chất của Photpho. Công thức phân tử của VX là C11H26NO2PS. Liều gây chết trung bình của VX là khoảng 7 microgram trên 1 kg thể trọng. Hay nói nôm na là 1kg VX có thể giết chết khoảng trên 2 triệu người (hít qua đường hô hấp). Đoàn Thị Hương đang bị xử án ở Malaysia vì tham gia "trò chơi" ám sát của mật vụ Bắc Hàn. Lãnh tụ Triều Tiên, vị Thiên Bồng Nguyên Soái Kim Jong- un đã lệnh cho mật vụ Bắc Hàn tìm cách ám sát anh trai cùng cha khác mẹ của mình là Kim Jong Nam, tránh ông anh này về tranh quyền đoạt vị với "lãnh tụ". Đoàn Thị Hương đã dùng khăn tay có tẩm VX để bịt mũi "trêu đùa" anh trai lãnh tụ. Kết quả là: Không còn anh nào có thể tranh giành quyền lực với lanh tụ nguyên soái nữa. 3. Batrachotoxin Đây là loại chất độc được lấy từ các loại ếch độc ở rừng rậm Amazon, Nam Mỹ. Loại này cũng thuộc dạng chất độc thần kinh. Thổ dân Nam Mỹ thường bắt ếch có màu sặc sỡ rồi hơ trên lửa, da ếch sẽ tiết ra loại độc tố này. Sau đó thổ dân lấy chất độc này tẩm vào mũi tên, mũi phi tiêu để đi săn thú lớn. Liều gây chết trung bình là 2 μg/kg. (2 phần triệu gam/kg thể trọng). Điều này có nghĩa là: 1 kg batrachotoxin có thể giết chết trên 8 triệu người nếu tiêm dưới da. 4. Maitotoxin Là loại chất độc có trong cơ thể nhóm sinh vật phù du biển, với công thức phân tử: C164H256O68S2Na2. Rất may mắn là loại chất độc này quá phức tạp để có thể điều chế trong phòng thí nghiệm. Liều gây chết trung bình là 50 ng/kg (50 phần tỷ gam/kg thể trọng, gấp 4 lần Batrachotoxin). 5. Botulinum Botulinum là một protein và là một độc tố thần kinh do vi khuẩn Clostridium botulinum tạo ra. Với công thức phân tử C6760 H10447N1743O2010S32. Đây được coi là chất độc nhất mà con người từng biết, không nhà khoa học nào phản bác về vai trò độc cô cầu bại của Botulinum. Hiện nay các nhà khoa học đã biết có 8 loại Botulinum khác nhau, được ký hiệu từ A đến H. Trong đó theo đánh giá thì loại H là độc nhất. Theo các nghiên cứu khoa học, chỉ cần tối đa 5 kg Botulinum là có thể quét sạch 7,6 tỷ người trên thế giới (với hình thức pha loãng và tiêm bắp). Tại sao lại nói về chất độc trong ngày mà nhiều phụ nữ coi là "ngày của chị em mình"? Ba Botulinum loại A (Botox, Dysport và Xeomin) và một Botulinum loại B (Myobloc) có mặt trong nhiều loại sản phẩm y tế và mỹ phẩm thương mại khác nhau. Trong ngành công nghiệp lừa dối đàn ông (tên thông dụng là làm đẹp), một lượng rất nhỏ Botulinum được dùng để căng da mặt, xóa giảm nếp nhăn (do Botulinum làm các bó cơ ngưng hoạt động nên giảm nếp nhăn). Từ đây hẳn quý vị đã hiểu câu "Phụ nữ càng đẹp càng độc" rồi đấy, đơn giản là trong cơ thể họ được tiêm quá nhiều chất siêu độc Botulinum. Bùi Văn Thuận ethongluan.org |
Hãy Già Một Cách Khôn Ngoan - BS Nguyễn Ý Đức
![]() Hãy Già Một Cách Khôn Ngoan - BS Nguyễn Ý Đức 1. Đây là lúc mà ta phải tiêu hết số tiền mà ta đã để dành. Hãy tiêu chúng đi và tiêu một cách hoan hỉ. Hãy đừng đưa tiền đó cho những người mà họ không có một ý nghĩ gì về tại sao ta đã khó khăn mới kiếm được. Hãy đặc biệt lưu ý tới những người cùng huyết tộc với các chương trình về cách kiếm tiền khó khăn như thế nào mà quý vị đã làm để có chúng. Bây giờ cũng là thời gian không thuận lợi cho các đầu tư khác mặc dù việc đầu tư này có ít rủi ro. Đầu tư vào giai đoạn này chỉ mang lại lo âu và nhiều chuyện khó khăn. Đây là lúc mà quý vị cần tận hưởng một cách im lặng. 2. Hãy đừng lo nghĩ tới tài chánh của con cháu. Xin hãy ngưng lo nghĩ về tình trạng tài chánh của con cháu mình và đừng cảm thấy tội lỗi về cách mà bạn tiêu tiền do chính mình làm ra. Quý vị đã nuôi chúng trong nhiều năm và đã chỉ dẫn cho chúng tất cả những gì mà quý vị biết. Quý vị đã giúp chúng về học vấn, thực phẩm, nhà ở và tiền túi. Bây giờ chính là lúc chúng phải lo kiếm tiền để tự túc. 3. Hãy giữ sức khỏe. Tập thể dục vừa phải như đi bộ mỗi ngày, dinh dưỡng đầy đủ và hãy ngủ đều đặn Ở tuổi này, quý vị rất dễ bị bệnh và muốn được khỏe mạnh thì cần nhiều cố gắng khó khăn hơn.Vì thế quý vị phải giữ mình ở tình trạng tốt và hãy lưu ý tới các nhu cầu về sức khỏe.Hãy giữ liên lạc với các bác sĩ bằng cách khám bệnh định kỳ, thực hiện các xét nghiệm mặc dù quý vị vẫn cảm thấy bình thường. “Cẩn tắc vô ưu”, cổ nhân vẫn dạy ta vậy. 4. Luôn luôn mua vật dụng tốt nhất. Luôn luôn mua vật dụng tốt nhất và đẹp nhất cho những người thân. Phần thưởng mà quý vị mua những quà với tiền của chính mình thật là vô giá. Vào một ngày nào đó, một trong số những người thân của quý vị sẽ nhớ đến nhau và khi đó thì tiền chẳng cung cấp một điều quý giá gì cho nhau, vì vậy hãy cùng nhau tiêu tiền khi quý vị còn có thể sống với nhau. 5. Hãy bỏ qua những điều lặt vặt. Trong đời sống, hãy bỏ qua những điều nhỏ nhặt.Quý vị đã từng vượt qua những điều như vậy trong suốt cuộc đời. Quý vị đã từng có những kỷ niệm vui buồn nhưng hiện tại mới là điều quan trọng. Hãy đừng để quá khứ dìm quý vị xuống và đừng để tương lai làm quý vị sợ hãi. Hãy tận hưởng với những gì của hiện tại. Quý vị hãy quên đi những chuyện lặt vặt. 6. Luôn luôn làm sống lại tình yêu. Dù quý vị ở vào tuổi nào, luôn luôn làm sống lại tình yêu và sự thơ mộng. Hãy yêu mến người bạn đồng hành của quý vị, yêu đời sống, yêu gia đình quý vị, yêu hàng xóm, yêu chó hoặc yêu mèo và luôn luôn nhớ rằng: “Một người đàn ông chẳng bao giờ già khi ông ta có sự thông minh và tình thân ái”. 7- Hãy mạnh dạn tự kiêu… Hãy mạnh dạn và tự kiêu từ tâm hồn tới thể xác. Đừng ngưng tới tiệm hớt tóc, chăm sóc móng tay móng chân, đi khám bệnh ngoài da và đi nha sĩ, giữ đầy đủ đồ làm đẹp. Khi quý vị đã tự giữ mình thì quý vị sẽ cảm thấy kiêu hãnh và tự tin. 8. Đừng để ý tới bề ngoài. Ở tuổi của quý vị hãy đừng để ý tới vẻ bề ngoài. Không có gì lố bịch hơn là một người ở tuổi quý vị lại mặc quần áo của giới trẻ. Quý vị đã tạo ra một cái gì thích hợp với quý vị thì xin hãy giữ lấy nó và kiêu hãnh với nó. Đó là một phần của quý vị. 9. Luôn luôn theo dõi xung quanh. Đọc nhật báo, coi internet và đọc tin tức. Hãy có một điện thư còn hoạt động và cố gắng dùng một trong những điều của xã hội. Quý vị sẽ rất ngạc nhiên gặp những người bạn cũ. Giữ liên lạc với những gì đã xẩy ra và những người mà quý vị đã biết là điều quan trọng dù quý vị có già. 10. Hãy tôn trọng thế giới trẻ Hãy tôn trọng giới trẻ và ý kiến của họ. Và hy vọng rằng họ sẽ kính trọng quý vị. Họ có thể không có cùng quan điểm với quý vị nhưng họ sẽ là tương lai và hướng thế giới về phía họ. Hãy góp ý mà chẳng nên chỉ trích và hãy cố gắng mà nhắc nhở họ rằng sự khôn ngoan của quá khứ bây giờ vẫn còn áp dụng. 11.Đừng bao giờ dùng câu: “Vào thời của tôi”. Ngày của quý vị là bây giờ. Bao lâu mà quý vị còn sống, quý vị là một phần của hiện tại. Quý vị có thể trẻ hơn, nhưng quý vị vẫn là quý vị. Hãy vui lên và tận hưởng cuộc đời. 12. Một số quý vị sẽ trìu mến những năm huy hoàng trong khi đó thì nhiều vị trở nên cay đắng và gắt gỏng. Đời sống quá ngắn để bận tâm với những điều nhỏ nhen. Hãy chia xẻ với những người tích cực và vui vẻ. Điều này sẽ mang lại niềm vui cho chính quý vị và thời gian sẽ dễ chịu hơn. Sống với người yếm thế sẽ làm quý vị già hơn và khó mà sống với người khác. 13. Hãy dừng bỏ ý định sống với các con, hoặc các cháu, nếu hoàn cảnh tài chính cho phép. Thực vậy, sống với nguời thân là điều tốt nhưng chúng ta có nếp sống riêng tư. Chúng thích sống cuộc đời của chúng và ta cần cuộc sống của ta. Nếu chẳng may mà quý vị mất người bạn đường (chúng tôi chia buồn cùng quý vị), hãy kiếm một người sống cùng và giúp lẫn nhau. Và cả khi đó nếu quý vị thấy thật cần sự giúp đỡ và không muốn sống một mình. 14. Hãy đừng từ bỏ các thú vui. Nếu quý vị không có thì hãy tạo ra một thú vui khác. Quý vị có thể đi du lịch, nấu ăn, đọc sách báo và khiêu vũ. Quý vị có thể nuôi một chú mèo, một con chó, làm vườn, đánh bài, chơi domino, quần vợt. Quý vị có thể vẽ, làm việc thiện nguyện hoặc chỉ sưu tầm một loại đồ vật nào đó. Hãy kiếm điều gì mà quý vị thích và tận hưởng niềm vui với chúng. 15. Hãy nhận lời mời mặc dù quý vị không muốn. Hãy tới các lễ rửa tội, hội họp, ra trường, ngày sinh nhật, đám cưới và hội thảo. Hãy ra khỏi căn nhà và gặp những người quen từ lâu mà quý vị chưa gặp lại. Hãy trải qua điều gì mới hoặc cũ nhưng hãy đừng bực mình nếu không được mời.Một vải hoạt động như vậy bị giới hạn vì phương tiện và quý vị nhớ cho rằng không phải ai cũng mời được như vậy. Điều quan hệ là đôi khi hãy ra khỏi căn nhà. Hãy tới viện bác cổ hoặc đi lang thang trong vườn bách thảo. Điều cần là hãy tạm thời ra khỏi căn nhà một khoảng thời gian ngắn. 16. Hãy tiết kiệm lời nói. Nghe nhiều, nói ít. Có nhiều trong số quý vị liên tục nhắc lại quá khứ mà không để ý người khác có thích nghe không. Hãy nghe trước và trả lời câu hỏi sau nhưng đừng quá kéo dài câu chuyện trừ khi được yêu cầu. Hãy nói với giọng nhã nhặn và nên trành than phiền hoặc chỉ trích nhiều quá trừ khi cần. Hãy cố gắng chấp nhận hoàn cảnh khi việc xẩy ra. Mọi người đều trải qua những hoàn cảnh như vậy và nhiều người khó chịu vì phải nghe các lời than phiền. Vậy thì hãy cố gắng tìm các điều tốt để nói. 17. Đau và khó chịu thường xuất hiện ở tuổi cao. Không nên cố bám lấy nó và cho nó là một phần của cuộc sống mà mọi người phải trải qua. Hãy cố gắng giảm thiểu sự đau nhức và sự khó chịu ra khỏi trí óc.Chúng không phải tự nhiên mà quý vị có, chúng là những gì thêm thắt mà đời sống thêm vào cho quý vị. Nếu quý vị bận tâm đến nó, quý vị sẽ mất vai trò của quý vị. Hãy tha thứ. Nếu quý vị bị người khác làm tổn thương, hãy quên đi. Nếu quý vị làm người khác buồn, hãy xin lỗi. Đừng kéo dài sự bất mãn với chính mình. Nó chỉ làm quý vị cảm thấy mất vui và cay đắng. Ai phải cũng thế thôi. Có người đã nói: “Giữ sự bực tức thì cũng giống như uống chất độc và hy vọng rằng người đó sẽ chết”. 18. Hãy tận hưởng niềm tin mãnh liệt nếu quý vị đã có. Nhưng xin đừng cố thuyết phục người khác. Họ sẽ tự quyết định và quý vị sẽ bất mãn. Hãy sống với điều mà mình tin. 19. Hãy cười to lên. Và cười thật nhiều. Cười về mọi thứ. Hãy nhớ quý vị là một trong những người có may mắn. Quý vị đã thu xếp để có một nếp sống, một nếp sống kéo dài. Nhiều người không bao giờ đạt được tuổi đó, chưa bao giờ hưởng trọn cuộc đời.. Nhưng quý vị đã đạt được điều đó. Như vậy thì tại sao quý vị không vui cười to lên? Hãy mỉm cười trong bất cứ hoàn cảnh nào. 20. Đừng để ý tới lời bình phẩm của người khác về quý vị và đôi khi không thèm để ý tới những gì họ nghỉ về mình. Họ sẽ luôn luôn bình phẩm và quý vị nên tự kiêu hãnh và những điều tốt mình đã thực hiện. Hãy để họ nói và đừng quan tâm. Họ không hiểu tý gì về quý vị, về các ký ức của quý vị và đời sống của quý vị. Có nhiều điều cần ghi lại vậy thì hãy viết và đừng phí thì giờ về những gì mà ngưởi khác có thể gán cho quý vị. Bây giờ là lúc cần nghỉ ngơi và sống hạnh phúc càng nhiều càng tốt./. Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức Texas-Hoa Kỳ |
April 30
![]() Cuộc chiến huynh hệ tương tàn bằng súng đạn kết thúc đã 44 năm. So với đời người thì khá dài. Thông thường với thời gian như thế thì cho dẫu có bị thương tích cũng đã rơi vào quên lãng. Vì thời gian là “thuốc tiên” chữa lành những vết thương lòng. Một bé chào đời năm 1975 bây giờ có thể đã là ông bà nếu lập gia đình sớm, có thêm một thế hệ mới. Thời gian đằng đẵng là thế lẽ ra phe chiến thắng yên tâm tận hưởng “thành quả” nếu đất nước đang là con rồng, con hổ (theo cách nói về sự phát triển ngoạn mục mọi mặt) Được như thế thì các lãnh đạo đảng đâu cần phải lo tìm mua quốc tịch nước ngoài, lo thâu tóm của cải rồi tìm mọi cách cho gia đình đi định cư ở các nước Dân chủ Tự do? Chế độ đâu cần phải dốc sức vào cái gọi là Bộ Thông tin và Tuyên truyền (xin gọi là 4T) để tự ca ngợi? Vì đã có thực tế trước mắt trả lời cụ thể! Thử nhìn các “con rồng, con hổ” ở Á châu có tốn kinh phí khổng lồ như Bộ 4T không? Nhưng để đối phó với “bọn phản động”, “bọn căm thù quê hương”, “bọn dân chủ cuội”, “bọn tung tin nói xấu đảng”, “bọn khủng bố”... và đặc biệt quan trọng là “bọn tự diễn biến” dù Bộ 4T phải làm việc cật lực vẫn thất bại! Vì “tự diễn biến” chính là người của phe chiến thắng. Ở phe chiến thắng mà “tự diễn biến” thì rõ ràng có cái gì đó rất không ổn nếu không muốn nói là khủng hoảng nội bộ. Chính sự dốt nát và vô đạo của giàn lãnh đạo mới là phản động. Bọn chóp bu làm mục ruỗng chế độ chứ chẳng có “thế lực thù địch” nào. Đây là sự đổ vỡ từ bên trong, không do áp lực bên ngoài. Là sự đổ vỡ tất yếu do ngu và tham. Vì bất cứ việc gì đi ngược với sự phát triển tự nhiên thì cho dù có vu khống hay che đậy dưới bất cứ hình thức nào tự nó cũng phải bị đào thải. Dù Lực lượng 47 với mười ngàn hay trăm ngàn dư luận viên được đào tạo bài bản và thêm vài cái Luật An ninh mạng nữa ra đời cũng sẽ thất bại. Vì không ai có thể ướp màu da cho một cái xác chết được mà phải chôn đi. Thế giới văn minh đã xác nhận: Cộng sản là đại họa của nhân loại! Thử nhìn các nước Dân chủ Tự do, hỏi có nước nào có Bộ 4T? Đã thế họ cũng chẳng hề lo lắng về cái gọi là “tự diễn biến”! Trái lại, nếu tự diễn biến để thích nghi với thực tế xã hội, càng tốt. Có được nhiều đảng viên như thế sẽ giúp đảng điều chỉnh kịp thời để cử tri tín nhiệm bầu cho nhiệm kỳ kế tiếp! Nhờ đó xã hội Dân chủ Tự do cứ thăng tiến. “Tự diễn biến” là những ai? Hiện tại trí thức XHCN đang có phong trào “tự diễn biến” điều mà Tổng Chủ Nguyễn Phú Trọng lo lắng và cảnh báo nhiều lần nhưng chắc chắn sẽ không đi đến đâu. Vậy họ là những ai? - Là một số trí thức theo Mặt trận GPMN bị gạt ra rìa sau năm 1975. Một số bỏ chạy khỏi nước. Một số không chạy thoát hoặc chọn ở lại. Những “tai to mặt lớn” đó từng lãnh đạo sinh viên học sinh tranh đấu chống VNCH bây giờ quay ra chống chế độ. Trong tuổi hoàng hôn họ viết bài phân tích, kể lể hay ký tên vào các thư ngỏ phản đối... nhưng lúc còn sung sức, tức 10, 20 năm sau 1975, không hề dám chống chế độ như từng chống VNCH. Tại sao? Tại hèn. Sợ bị tù cộng sản. Sợ chết! Họ hiểu thời VNCH dẫu gì cũng có Tự do Dân chủ, có tam quyền phân lập, có Hiến Pháp bảo vệ. Nếu bị tù gia đình con cái cũng không bị ảnh hưởng. Có người bị giam giữ vẫn được cho ra ngoài đi thi để hoàn tất việc học! Bây giờ sinh viên tranh đấu thì đừng nghĩ sẽ được đi học trở lại. Không những thế, gia đình sẽ bị liên lụy ngay. Trường hợp Nguyễn Phương Uyên là một ví dụ. Đã thế công an còn công khai đàn áp đẫm máu người dân giữa Sài Gòn (ngày cả nước xuống đường chống Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng, 10/6/2018) Hôm đó có 2 ông giáo sư của một trường đại học được công an gọi đến công viên Tao Đàn, thay vì thể hiện vai trò nhà giáo lại hành sử vai trò “đảng ủy”, giúp công an đàn áp, làm ngơ trước tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng của học trò. [1] - Với số trí thức XHCN lớn tuổi phía Bắc phản tỉnh công khai, rất ít. Đa số họ chỉ chống đảng đương quyền (ví dụ chống đảng Nguyễn Phú Trọng) cho thấy họ vẫn cho rằng đảng Hồ Chí Minh tổ chức chiến tranh “giải phóng miền Nam” là đúng, bất chấp cảnh núi xương sông máu của hàng triệu người. Vì thế họ rất khó bỏ đảng trừ khi bị kỷ luật hoặc biết sẽ bị khai trừ. - Với số trí thức XHCN trẻ tuổi dấn thân chống đảng còn ít dù nhờ internet không bị nhồi sọ. Họ nhìn lại cuộc nội chiến khách quan hơn. Nhưng lại bị ràng buộc với thực tế đang có nhờ công trạng, gốc gác, gia đình... so với thời bao cấp. Tâm lý sợ rơi vào tình cảnh “đứng núi nầy trông núi nọ”, nên khó dứt khoát hẳn. - Với dân phía Bắc, từ nghèo đói lạc hậu bây giờ nhờ dựa vào quen biết cán bộ, phe nhóm... có nhà, có xe..., con cháu có điều kiện du học ở các nước Dân chủ Tự do... đương nhiên là “nhờ ơn đảng”(!) Qua chuyện kể của một số vị tranh đấu ở Hà Nội về thăm quê dịp Tết vừa rồi phần nào đó đã phản ảnh như vậy. Số trí thức nầy bị bà con gia tộc có vẻ mỉa mai, nếu không muốn nói là tiếp xúc miễn cưỡng. Họ chỉ trách đảng vì đụng chạm đến quyền lợi riêng chứ không chống đảng! Vụ Đồng Tâm ở ngay Hà Nội là điển hình. Nói chung trí thức XHCN và người phía Bắc đa số chỉ chống đảng tham nhũng chứ không chống đánh chiếm miền Nam. Do đó, với họ, biểu tượng Cờ Vàng của miền Nam vẫn chỉ là “cờ 3 que”(!) Đây là lý do chế độ cộng sản sụp đổ trên thế giới nhưng tại VN vẫn đang còn là tiến trình. Cho dù là tiến trình không thể đảo ngược! Trí thức “tự diễn biến” là như thế nhưng tại sao Tổng Chủ Nguyễn Phú Trọng lo sợ? Câu trả lời là chính Tổng Chủ biết rõ đảng đang bị ung thư “cấp” nên phải làm bất cứ điều gì có thể, để kéo dài mạng sống, kể cả chư hầu cho Bắc Kinh! Về mặt nổi, xã hội đang hỗn loạn mọi mặt, điều nầy cho thấy những cơn sóng ngầm dữ dội dưới đáy sẽ quyết định vận mạng của đảng. Người dân phải tự xoay xở, tự tìm cách đối phó với nan đề của đời sống vì không còn tin vào việc được bình đẳng trước pháp luật. Cùng đường nên họ quay ra ngưỡng mộ cả những tên xâm trổ đầy người, từng là tội phạm, như chuyện Dương Minh Tuyền về Hưng Yên hỗ trợ gia đình nạn nhân bé gái bị bạn học cùng lớp bạo hành. Hay phản ứng sai luật của vài cá nhân xịt sơn, quăng chất bẩn vào nhà của đảng viên Nguyễn Hữu Linh, cựu Phó viện trưởng viện KSND Đà Nẵng ấu dâm cháu bé trong thang máy ở Tp HCM. Điều trớ trêu, đó là họ học đúng cách của công an đối với với gia đình người bất đồng chính kiến! Rồi nhìn lại hình ảnh cựu Ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng hay Trịnh Xuân Thanh khóc lóc, van xin tại phiên tòa hình sự giúp người dân “sáng mắt sáng lòng”! Rồi so sánh với hình ảnh 5 người tranh đấu của nhóm Liên Minh Dân Tộc đứng hiên ngang hô lớn “đả đảo cộng sản”, “đả đảo phiên tòa” ngày 18/3/2019 ngay giữa tòa phúc thẩm tại Sài Gòn [2] coi bản án tù khổ sai 10, 15 năm không ra gì cả! Thực tế những tiếng hô đó không đủ lớn để bên ngoài phòng xử nghe được nhưng là tiếng nổ của những cơn sóng ngầm, tự nó vang xa, đánh thức được lương tâm công luận. Lịch sử chưa có nghèo giải phóng giàu, lạc hậu giải phóng văn minh mà chỉ có cướp. “Giải phóng miền Nam” đang nói lên như thế. Khi kẻ cướp điều hành xã hội tất phải hỗn loạn! Cộng sản biết rõ và không thể nào thoát khỏi được tâm trạng bất an của kẻ cướp (!) vì biết rằng họ sẽ phải đối diện Công lý. Thử nhìn thực tế sau 44 năm “giải phóng” hỏi có được bao nhiêu người từ phía Nam ra Bắc lập nghiệp so với “biển người” phía Bắc tràn vô Nam? Hiện tại giai cấp đang thống lĩnh kinh tế tại phía Nam do những ai cầm đầu? Hầu hết mọi cơ ngơi đồ sộ nhất, các trọng điểm kinh tế hái ra tiền do ai làm chủ? Đồng bằng sông Cửu Long là vựa thực phẩm của cả nước nông dân vẫn nghèo xơ xác, cơ sở hạ tầng không được nâng cấp như các nơi ở phía Bắc mà một tờ báo chỉ nhắc thoáng qua đã bị phạt đình bản 3 tháng? Tại sao Sài Gòn “phồn vinh giả tạo” bây giờ vẫn là “đầu tàu kinh tế cả nước”? Còn với lãnh vực văn minh, văn hóa thì ngược lại. Phía Bắc cố gắng đồng hóa phía Nam bằng thứ ngôn ngữ đặc trưng XHCN. Ngọng nghịu, chói tai, kẻ cả. Vì thế tính “ưu việt XHCN” đó thất bại ngay từ đầu. Chẳng những không hủy diệt được “cặn bã Mỹ Ngụy”, dù tổ chức chiến dịch đốt sách, nhưng ngọn gió văn minh thổi “tro tàn” của nó bay ngược tràn lan ra khắp phía Bắc rất nhanh. Những tác phẩm văn học, nghệ thuật thay vì tàn lụi thì mỗi ngày một sống lại, dù chẳng có ai tuyên truyền. Nhạc Vàng, nhạc bolero... các ca sĩ già U70 cỡ Chế Linh, Khánh Ly, Hương Lan, Elvis Phương, Lệ Thu... ở ngoài nước được mời về hát, được đón tiếp nồng nhiệt với tiền cát xê hậu hĩnh trong lúc đó NQ 36, cái gọi là “hòa hợp hòa giải”, chỉ biết “ăn theo”! Thực tế sờ sờ như thế do ai “chủ đạo”? VNCH tồn tại chỉ 20 năm trong thời chiến mà đến bây giờ, 44 năm sau, những tác phẩm, tác giả thời đó càng ngày càng được nhiều người ưa thích, tìm đọc. Tại sao? Sự thật khách quan như thế! Sự thật đó cho biết VNCH đã đi vào lòng dân tộc, đi đúng hướng văn minh của thời đại. Vì thế cho dù có bị phỉ báng, bị vùi dập cỡ nào thì chính nó vẫn tiềm ẩn trong lòng xã hội, như một thân cây bất ngờ bị giông bão làm gãy ngang nhưng rễ của nó vẫn sống trong lòng đất. Lòng đất là lòng người. Được lòng người nuôi dưỡng, che chở gìn giữ nên nó tồn tại. 44 năm của đời người thì rất dài nhưng 44 năm của dòng lịch sử lại ngắn. Một chế độ chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm (1955-1975) tưởng đã là cát bụi nhưng mạch sống của nó vẫn tiềm ẩn trong lòng người nên lại vươn lên. Là những cơn sóng ngầm làm chế độ đang băng hoại thêm lo sợ. Như những đóa tulip ẩn tàng dưới băng giá mùa Đông đợi đến mùa Xuân sẽ nứt tuyết nhú lên đẹp lóng lánh, khoe sắc dưới ánh mặt trời. Đó mới thật sự là chiến thắng. Một chiến thắng rạng rỡ, nhân văn, không hề có tiếng súng hay hận thù. Quy luật của lịch sử là thế. Chẳng có “3 dòng thác cách mạng” nào cuốn phăng được bọn “tư bản giãy chết” mà chỉ có Thịnh vượng, Văn minh đối đầu với Đói rách, Ngu dốt. Một chế độ chỉ còn biết dựa vào sức mạnh, cố bám víu vào quân đội và công an “còn đảng còn mình”, vẫn chủ trương giáo dục nhồi sọ, ngu dân, vì sợ dân biết sự thật, chế độ đó đã tự phơi bày ra sự sợ hãi tột cùng. Tội ác phải sợ hãi Công lý. Bóng tối phải sợ hãi Ánh sáng. Và Ánh sáng là sự Sống. Sự Sống tất thắng. (6/4/2019) Kông Kông danlambaovn.blogspot .com |
Kinh Cầu Tháng Tư - Đỗ Công Luận
![]() |
All times are GMT. The time now is 23:13. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.