![]() |
BỆNH GIANG MAI ĐƯỢC MANG ĐẾN CHÂU ÂU BỞI CHRISTOPHE COLOMB
Một công tŕnh nghiên cứu về tiến triển di truyền của vi khuẩn gây bệnh giang mai đă công nhận là đúng giả thuyết về một tác nhân nhiễm khuẩn được mang từ Châu Mỹ về Châu Âu bởi đoàn thám hiểm của Christophe Colomb. Một nhóm nghiên cứu Hoa Kỳ, Anh và Canada đă công bố hôm thứ hai 14/1, trên site của tạp chí on-line PloS Neglected Tropical Diseases, một bài báo có khuynh hướng xác nhận rằng bệnh giang mai đă được mang vào châu Âu bởi Christophe Colomb, như thế chấm dứt một cuộc tranh căi từ 500 năm nay về nguồn gốc của bệnh này. Các nhà di truyền học đă tái tạo cây phả hệ của những giống gốc vi khuẩn (souches bactériennes) nguồn gốc của bệnh giang mai. Vào năm 1495, thành Naples thất thủ rơi vào tay của vua nước Pháp, Charles VIII, và của đạo quân chiếm đóng gồm những lính đánh thuế. Đạo quân này, được chỉ huy bởi Louis d’Orléans và hiệp sĩ Bayard, lúc đó đang là nạn nhân của một trận dịch kinh hoàng của một loại bệnh dịch hạch (peste) mới. Một căn bệnh được lây truyền bằng đường sinh dục, được đặt tên là bệnh thành Naples (maladie de Naples). Đó là trận dịch giang mai đầu tiên ở châu Âu. Dịch bệnh lan tràn nhanh chóng qua trung gian của các lính đánh thuê trở lại quê nhà. Sự việc bệnh giang mai xuất hiện một ít lâu sau khi Christophe Colomb và binh sĩ trở về từ Tân Thế Giới (chỉ 3 năm sau khi khám phá châu Mỹ), khiến người ta nghĩ rằng căn bệnh này xuất phát từ châu Mỹ và được mang về châu Âu từ Tân Thế Giới, bởi các thủy thủ phục vụ vua Tây Bạn Nha, v́ lẽ những trường hợp bệnh giang mai đă được mô tả trong số các thủy thủ này. Giả thuyết này, trước đây gây nhiều tranh căi, ngày nay đă được xác nhận nhờ di truyền học (PloS Neglected Tropical Diseases, 15/1/2008). Các nhà nghiên cứu của Emory University (Atlanta,Georgie) đă so sánh các séquence của các bộ di truyền (génome) của các thành viên khác nhau của họ các tréponème, những vi khuẩn gây nhiều bệnh, trong đó có bệnh giang mai. Như thế, các nhà nghiên cứu đă có thể tái tạo cây phả hệ xác lập nguồn gốc châu Mỹ của bệnh giang mai (“grande vérole”). MŨI TÊN TẨM THUỐC ĐỘC CỦA CUPIDON Từ thời thượng cổ, các người Amérindiens đă bị một căn bệnh tương tự với bệnh giang mai. Và vài người trong các thành viên của đoàn thám hiểm của Colomb đă có những triệu chứng đặc hiệu, điển h́nh của bệnh nhiễm trùng này: các hạch sưng tấy lên, sốt tăng cao và “mũi tên tẩm thuốc độc của Cupidon” làm biến dạng thân thể. Một giả thuyết khác, nảy sinh vào thế kỷ XX, cho rằng người ta đă lẫn lộn bệnh giang mai với các bệnh khác, như bệnh hủi (lèpre). Đối với các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, sự việc không có các dấu vết thương tổn xương (đặc điểm của bệnh giang mai) trên các bộ xương của những người châu Âu và Bắc Phi trước cuối thế kỷ thứ XV, là chứng cớ xác nhận nguồn gốc châu Mỹ của căn bệnh này. Trong cùng công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă tái tạo phả hệ của các tréponèmes khác gây bệnh chủ yếu ở trẻ em và được lan truyền bởi sự tiếp xúc qua da hoặc bằng nước miếng. Đó là các bệnh pian, bejel và pinta. (LE FIGARO 15/1/2008) |
6/ BỆNH LÂY TRUYỀN BẰNG ĐƯỜNG SINH DỤC LẠI BÙNG NỔ Ở PHÁP.
Việc gia tăng trở lại những nhiễm trùng bởi lậu cầu, bởi chlamydia và của bệnh giang mai là hậu quả của sự tái tục các hành vi tính dục có nguy cơ (comportements sexuels à risques). Chính sách ngăn ngừa các bệnh nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục (MST : maladies sexuellement transmissibles) đang bị nguy ngập. Tất cả các yếu tố chỉ báo cho thấy có một sự gia tăng trở lại các bệnh nhiễm trùng (lậu cầu, chlamydia, giang mai), được lây truyền lúc giao hợp (dù cho đó là giao hợp đồng tính hay dị tính). Thật vậy, bảng thông báo dịch tễ hàng tuần của Viện theo dơi y tế đă công bố tuần này các con số xác nhận về sự gia tăng các bệnh lây truyền bằng đường sinh dục ở Pháp. Ngoài các hậu quả về mặt y tế riêng cho các nhiễm trùng này (các bệnh măn tính nơi người, nguy cơ vô sinh nơi phụ nữ), các dữ kiện này thể hiện sự tái tục những hành vi tính dục có nguy cơ, nói lên việc sử dụng phương tiện bảo vệ ít hơn và do đó mang lại một nguy cơ truyền virus bệnh Sida gia tăng. Các nhiễm trùng do lậu cầu có đặc điểm là có một thời gian tiềm phục ngắn và cho những triệu chứng “ ồn ào ” nơi đàn ông. Do đó những nhiễm trùng này là một chứng tỏ rất rơ về các hành vi tính dục có nguy cơ (comportements sexuels à risques). Một mạng lưới 200 pḥng xét nghiệm phân tích mỗi năm số giống gốc các lậu cầu được phân lập. Suốt trong 3 năm qua, sự gia tăng số trường hợp xảy ra một cách thường xuyên, với 50% được thêm vào trong năm 2006 so sánh với năm 2005. Với một sự gia tăng rất rơ rệt nơi các phụ nữ (thêm 264%) và ở tỉnh (thêm 94%). Tuổi trung b́nh của các bệnh nhân này là 30 tuổi đối với đàn ông và 23 tuổi đối với phụ nữ. Sau cùng phải ghi nhận một sự tiến triển của các giống gốc đề kháng với ciprofloxacine, một trong những kháng sinh chuẩn trong điều trị bệnh này. Nhiễm trùng do chlamydia trachomatis thường xảy ra nhất ở phụ nữ. Nhiễm trùng này chỉ gây ít triệu chứng nhưng nếu không được điều trị, có thể gây nên những thương tổn nơi các ṿi trứng, nguyên nhân của vô sinh hoặc có thai ngoài tử cung. Từ đầu những năm 2000, một sự gia tăng các nhiễm trùng do chlamidia được quan sát ở Pháp, cũng như trong tất cả các nước công nghiệp hóa khác.Thí dụ ở Anh, sự gia tăng này có thể được quy cho công tác điều tra phát hiện được thực hiện một cách có hệ thống trong chiến dịch chống vô sinh nơi những người dưới 25 tuổi. Phải nhấn mạnh rằng ở Pháp, từ năm 2003 đến 2006, số các trường hợp nhiễm trùng do chlamydia đă gia tăng 55% nơi đàn ông và 62% nơi phụ nữ. Nhưng c̣n cần phải biết xem một sự gia tăng như thế là do sự tiến triển của bệnh hay chỉ do sự cải thiện của công tác điều tra phát hiện và của chẩn đoán. ĐẨY MẠNH TRỞ LẠI CÔNG TÁC PH̉NG NGỪA Bệnh giang mai gần như đă biến mất ở nước Pháp trong những năm 1990 để rồi lại xuất hiện trở lại vào đầu những năm 2000, hầu như chỉ xảy ra ở những người đồng tính (homosexuel) hay lưỡng tính (bisexuel), đặc biệt là ở những người bị nhiễm đồng thời bởi virus sida. Mặc dầu những chiến dịch thông tin và pḥng ngừa được phát động, bệnh có tiềm năng nghiêm trọng này vẫn không tỏ dấu hiệu lùi bước.Từ năm 2000 đến 2006, có 2.305 trường hợp giang mai đă được chẩn đoán ở Pháp. Sau một đợt giảm nhẹ vào năm 2005, số các trường hợp lại tăng lên năm 2006, đặc biệt là ở Ile-de-France và trong vùng Bắc Pas-de-Calais. Số các trường hợp giang mai bắt đầu xuất hiện ở những người dị tính (hétérosexuel) mà măi đến nay phần lớn không bị nhiễm bệnh. Việc công bố những dữ kiện này hẳn phải khiến chính quyền cần phải phát động trở lại những chiến dịch pḥng ngừa nhằm vào các hành vi tính dục có nguy cơ. (LE FIGARO 6/2/2008) |
NHỮNG LỜI KHUYẾN NGHỊ CỦA THỤY SĨ VỀ BỆNH SIDA GÂY NÊN CUỘC TRANH CĂI
Các cặp ổn định, trong đó một trong hai người phối ngẫu có huyết thanh dương tính (séropositif), nhưng nhờ điều trị, không c̣n virus gây bệnh sida (VIH) có thể được phát hiện trong máu, như vậy họ có thể không cần đến các phương tiện pḥng ngừa nữa hay không ? Vâng, các chuyên viên Thụy Sĩ của Uỷ Ban Liên bang về các vấn đề liên quan đến Sida (CFS) đă trả lời như vậy trong một văn kiện được công bố hôm thứ tư 30 tháng giêng. Một lập trường bị cho là c̣n quá sớm bởi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (OMS) và Onusida hay ở Pháp bởi Hội đồng sida quốc gia. Các chuyên gia Thụy Sĩ phát xuất từ một điều chứng nhận đă được nhất trí : từ năm 1996, việc áp dụng điều trị những phối hợp thuốc antirétroviraux không những đă biến đổi tiến triển của bệnh Sida nơi những người bị nhiễm trùng, mà c̣n làm giảm sự lan truyền của VIH. Nguy cơ lan truyền càng quan trọng khi số các bản sao (exemplaires) của virus trong máu (c̣n được gọi là charge virale) được tăng cao. Nếu được theo đuổi tốt, điều trị antirétroviral sẽ làm cho charge virale không thể phát hiện được trong máu (dưới 40 bản sao của VIH cho mỗi ml) máu. Trong trường hợp như thế, liệu những giao hợp có c̣n cần phải được bảo vệ nữa hay không? Các chuyên gia Thụy Sĩ dựa trên 3 công tŕnh nghiên cứu quy tụ tổng cộng 548 cặp dị tính (hétérosexuel), với huyết thanh dương tính nơi một trong hai người phối ngẫu. Các nghiên cứu không cho thấy một trường hợp truyền bệnh nào với một điều trị được theo đuổi tốt và một charge virale không thể phát hiện được trong máu. CFS kết luận rằng « sự áp dụng nhất quán một điều trị antirétroviral cho phép loại bỏ mọi nguy cơ lan truyền quan trọng ». Ba điều kiện cần phải hội đủ để không khỏi phải dùng biện pháp bảo vệ lúc giao hợp: tuân thủ «sát» điều trị có bác sĩ gia đ́nh theo dơi, một charge virale không thể phát hiện được trong máu từ ít nhất 6 tháng và người có huyết thanh dương tính không bị một bệnh lây nhiễm bằng đường sinh dục nào khác. Do đó quyết định không dùng biện pháp pḥng ngừa nữa là thuộc vào nguời có huyết thanh âm tính, ủy ban đă nói như vậy. « VẪN LUÔN THẬN TRỌNG » Trong một thông báo chung, Onusida và OMS nhắc lại rằng sự việc một charge virale không thể phát hiện được trong máu “ loại bỏ hoàn toàn nguy cơ truyền virus ” là điều không được chứng minh và nhấn mạnh tầm quan trọng của “ những phương pháp pḥng ngừa có hiệu quả và đă được thử thách chống lại VIH”. (LE MONDE 7/2/2008) |
THUỐC MỚI CHỐNG BỆNH SIDA
Raltégravir, chất ức chế intégrase, enzyme cần thiết cho qua tŕnh tăng đôi (réplication) của virus bệnh Sida, vừa được cho phép bán trên thị trường ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Thuốc này ngăn cản virus tăng sinh trong các tế bào lành mạnh. Hiện nay thuốc được sử dụng bởi 7.600 người có huyết thanh dương tính (séropositif) trên thế giới, trong đó 1.300 ở Pháp. Thuốc được chỉ định trong các trường hợp đề kháng với một trong 3 thuốc được dùng trong trithérapie (điều trị chuẩn chống bệnh Sida). (PARIS MATCH 20/2-27/2/2008) |
BỆNH SỐT RÉT, NGƯỜI BẠN ĐỒNG MINH TỐT NHẤT CỦA BỆNH SIDA
Ở phụ nữ có thai, nhiễm trùng bởi kư sinh trùng sốt rét làm gia tăng nguy cơ truyền virus bệnh sida vào phôi thai. Các nhà nghiên cứu Pháp và Cameroun vừa chứng tỏ một trong các cơ chế của hiện tượng này. Elisabeth Menu là nhà nghiên cứu nữ trong đơn vị điều ḥa các bệnh nhiễm trùng bởi rétrovirus ở Viện Pasteur Paris và phụ trách nghiên cứu ở Inserm. Hỏi : Làm sao bà đă quan tâm đến mối liên hệ giữa bệnh sốt rét và bệnh sida ? Elisabeth Menu : Đó một quan sát khác thường được thực hiện ở Cameroun trong lúc tiến hành một công tŕnh nghiên cứu về pḥng ngừa sự truyền virus sida từ bà mẹ sang trẻ em vào lúc sinh. Chúng tôi đă chứng nhận rằng số các phụ nữ truyền virus sida cho đứa con là quan trọng hơn vào một vài mùa trong năm. Mặt khác, điểm cao của sự truyền này có cùng tính chu kỳ với các đỉnh cao của lượng nước mưa được đo, với một chênh lệch ba tháng. Như vậy, một cái ǵ đó, do mưa mang lại, đă làm gia tăng sự truyền HIV từ người mẹ sang đứa con. Chúng tôi đă nghĩ đến bệnh sốt rét. Mặt khác, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă xác lập rằng nhiễm trùng bởi kư sinh trùng sốt rét làm gia tăng lượng HIV trong máu của những người huyết thanh dương tính. Hỏi : Hậu quả của mối tương tác giữa kư sinh trùng sốt rét và virus sida ? Elisabeth Menu : Chúng tôi đă chứng tỏ in vitro rằng kư sinh trùng sốt rét có thể làm phát khởi một sự tăng sinh mạnh mẽ virus sida trong các tế bào nhau (placenta).Thế mà sự việc có nhiều virus hơn trong nhau dẫn đến nguy cơ gia tăng nhiễm trùng thai nhi bởi virus. Hỏi : Bà đă làm thế nào để chứng tỏ điều đó ? Elisabeth Menu : Chúng tôi đă làm nhiễm trùng in vitro các tế bào của nhau (các lá nuôi, trophoblastes) với virus sida. Rồi chúng tôi đă đặt các tế bào nhau bị nhiễm trùng này tiếp xúc với một protéine của kư sinh trùng sốt rét. Protéine này có thể được biểu hiện ở bề mặt của những hồng cầu bị nhiễm kư sinh trùng. Sau đó protéine này cho phép các hồng cầu bám vào các lá nuôi của nhau. In vitro, chúng tôi đă chứng tỏ rằng protéine của kư sinh trùng này, lúc liên kết với các lá nuôi bị nhiễm bởi virus sida, làm gia tăng sự tăng sinh của HIV trong các tế bào này. Hỏi : Bằng cơ chế nào ? Elisabeth Menu : Chúng tôi nghĩ rằng việc gắn protéine này của kư sinh trùng làm phát khởi sự sản xuất bởi các tế bào của nhau, một chất được gọi là TNF-alpha.Thật vậy, chúng tôi đă t́m thấy nhiều chất này chung quanh các tế bào của chúng tôi . Thế mà TNF-alpha được biết là làm gia tăng sự tăng sinh của virus sida. Nguồn : LA RECHERCHE (5/2008) |
CÁC GIÁO SƯ GALLO VA MONTAGNIER MONG MUỐN CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG BỆNH SIDA ĐƯỢC TĂNG CƯỜNG
Từ khi khám phá ra virus bệnh sida, cách nay 25 năm, căn bệnh này đă gây nên 25 triệu nạn nhân trên thế giới. Các Giáo sư Luc Montagnier và Robert Gallo, các nhà khám phá virus sida chỉ cách nhau vài tháng, hôm qua, vào lúc khai mạc của cuộc hội thảo ở Paris nhân lễ kỷ niệm năm thứ 25 của việc khám phá virus này, đă phàn nàn về sự chậm chạp của các tiến bộ trước trận dịch bệnh sida. Lễ kỹ niệm này không phải là một “lễ ca ngợi” (célébration) mà là một “lễ tưởng niệm” (commémoration), bởi v́ virus vẫn luôn luôn c̣n đó, giáo sư người Pháp Luc Montagnier đă lấy làm tiếc khi phát biểu như vậy. Ông và nhóm nghiên cứu của ông của Viện Pasteur đă thực hiện những mô tả đầu tiên về virus sida trong tạp chí Science, ngày 20 tháng 5 năm 1983. “Đúng ra tôi ước mong cử hành với qúy vị việc kết thúc bệnh Sida, hơn là lễ kỷ niệm lần thứ 25 khám phá virus này”, ông đă tuyên bố như vậy trước nhiều trăm chuyên gia họp ở Viện Pasteur. Nhà sinh học nổi tiếng sau đó truớc báo chí, đă lấy làm tiếc rằng “ sự việc không tiến triển nhanh hơn” và rằng các nhà nghiên cứu không có tinh thần “đổi mới hơn”. “Chúng tôi không thỏa măn”, và hy vọng trong một thời gian không lâu nữa một vaccin điều trị nhằm phục hồi hệ miễn dịch sẽ được khám phá. Giáo sư người Mỹ Robert Gallo, người đă xác nhận, cùng với nhóm nghiên cứu của ông thuộc National Cancer Institute để Bethesda, sự phân lập virus vào năm 1984, về phần ḿnh, đă lấy làm tiếc cho các thử nghiệm quy mô lớn của vaccin. “Đă có những tiến bộ lớn, nhưng cũng có những sai lầm lớn, và c̣n có nhiều việc để làm”. Cả hai cũng đă nhấn mạnh rằng các căng thẳng ngày xưa, và những tranh căi quanh quyền tác giả của công cuộc khám phá virus bệnh sida là đă thuộc về dĩ văng xa xăm. “Chúng tôi hiện nay là đồng nghiệp và là bạn”, BS Gallo đă đảm bảo như vậy, cho rằng “sự ganh đua dẫn đến sự sáng tạo”. Bộ trưởng y tế Pháp, Roselyne Bachelot, về phần ḿnh, đă lấy làm tiếc rằng “hôm nay, vào giờ phút trận dịch đă đốn ngă 25 triệu người, vẫn c̣n có bài diễn văn vạch mặt chỉ tên” ƯU TIÊN LỚN Theo bà bộ trưởng, công cuộc nghiên cứu bệnh sida “ mang những hy vọng lớn ” vẫn là “ ưu tiên lớn ” của Bộ y tế. Bà cũng đă ghi nhận rằng cần phải huy động để săn sóc bệnh nhân và bảo vệ những quyền lợi của họ. Về phần ḿnh, Jean-François Delfraissy, giám đốc Cơ quan quốc gia nghiên cứu bệnh sida (ANRS) đă tiên đoán rằng căn bệnh này sẽ vẫn là trận dịch của thế kỷ XXI và ông đă lợi dụng lễ tưởng niệm này để kêu gọi chính quyền tiếp tục duy tŕ các kinh phí về nghiên cứu bệnh Sida. Nguồn : LE FIGARO (20/5/2008) |
NĂM 2007 CÓ 3 TRIỆU NGƯỜI ĐĂ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ CHỐNG BỆNH SIDA TRONG THẾ GIỚI THỨ BA
Cuối năm 2007, trong các nước “có lợi tức thấp hoặc trung b́nh”, các bệnh nhân nhận được điều trị chống lại virus của sida (VIH) là gần 1 triệu trường hợp nhiều hơn vào cuối năm 2006, một bản báo cáo của OMS và của Onusida đă chỉ rơ như vậy. Điều này mang số bệnh nhân được điều trị lên khoảng 3 triệu, hoặc 7 lần nhiều hơn cách nay 4 năm. Mục tiêu của sáng kiến “ 3 triệu từ nay đến năm 2005 ”, nhằm vào các nước của thế giới thứ ba, đă đạt được nhưng với 2 năm bị chậm trễ. Các cơ quan của Liên Hiệp Quốc nhấn mạnh sự gia tốc toàn bộ các mũi tiến, kể cả trong những lănh vực pḥng ngừa và phát hiện. “ Vào cuối năm 2007, người ta ước tính rằng 200.000 trẻ em theo một điều trị kháng rétroviral, so với 127.000 năm 2006 và 75.000 năm 2005 ”, văn kiện nói rơ như vậy. Vào năm 2007, 33% các phụ nữ có thai với huyết thanh dương tính đă nhận các antirétroviraux để ngăn ngừa sự lây truyền VIH cho các con của họ, so với 10% năm 2004. Số các phụ nữ có thai được xét nghiệm t́m VIH đă lên 18% trên thế giới, so với 16% năm 2006 và 10% năm 2005. Năm 2007, với 2,5 triệu các lây nhiễm mới, t́nh h́nh c̣n lâu mới chế ngự được. TĂNG CƯỜNG PH̉NG NGỪA. Theo OMS và Onusida, “ chỉ 31% những người cần được điều trị trong các nước có lợi tức thấp hay trung b́nh, là được hưởng một điều trị như thế vào năm 2007 ” . Ngoài ra, đa số những người sống với VIH/sida mà không hay biết về t́nh trạng của họ và không tiếp cận với những dịch vụ pḥng ngừa và điều trị. Bảng báo cáo chủ trương tăng cường vai tṛ của lănh vực y tế trong pḥng ngừa VIH, bằng cách làm gia tốc “ sự thực thi những can thiệp đă có hiệu quả như cắt bao quy đầu, các chiến lược làm giảm các nguy cơ, sự sử dụng túi dương vật, sự phát hiện t́m VIH trong các sản phẩm máu và sự kết hợp vai tṛ pḥng ngừa trong các chương tŕnh có liên quan đến bệnh lao phổi, và đến sức khỏe bà mẹ và sinh sản ”. Về việc cắt bao quy đầu, một công tŕnh được công bố ngày 2/ 6 , trong tạp chí Plos Medicine, thực hiện tại một quận ở Ouganda, chứng tỏ rằng việc cắt bao quy đầu không dẫn đến những biến chứng phụ trên những người có huyết thanh dương tính. Nguồn : LE MONDE |
SIÊU VI TRÙNG BỆNH SIDA SẼ CÓ THỂ ĐƯỢC PHÁT HIỆN BẰNG MỘT TRẮC NGHIỆM NƯỚC BỌT ĐƠN GIẢN
Đặt một ít nước miếng lên một chiếc que nhỏ, rồi đưa vào trong một ống nghiệm, và chờ từ 20 đến 40 phút …Nếu người được trắc nghiệm mang HIV, một đường tím sẽ hiện ra trên đỉnh của chiếc que nhỏ này. Là một công cụ phát hiện nhanh chóng hơn nhiều so với một xét nghiệm lấy máu thông thường, OraQuick sử dụng các kháng thể để phát hiện sự hiện diện của virus HIV (immunochromatograph ie). Sự đánh giá được thực hiện ở Ấn Độ bởi các nhà khoa học (đại học McGill, Montréal), cho thấy một sự phù hợp 100% với các xét nghiệm máu. Nguồn : SCIENCE ET VIE (7/2008) |
CÁC BỆNH NHÂN BỊ SIDA ĐĂ GIÀNH THÊM ĐƯỢC 13 NĂM TUỔI THỌ
Trong ṿng 10 năm, nhờ phép trị liệu gồm 3 thứ thuốc (trithérapie), bệnh Sida trong các nước phát triển đă đi từ t́nh trạng bệnh chết người (maladie mortelle) sang thành bệnh lư măn tính (pathologie chronique). Trong các nước phát triển, hy vọng sống (espérance de vie) của những người bị nhiễm bởi siêu vi trùng sida, hay VIH, từ năm 1996, đă gia tăng 13,3 năm. Năm 1996 là năm các thầy thuốc đă bắt đầu kê toa những phối hợp antirétroviraux, được biết hơn dưới tên “trị liệu pháp gồm 3 thứ thuốc” (trithérapie). Trong một công tŕnh nghiên cứu được xuất bản hôm qua bởi tạp chí Anh The Lancet, một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế, trong đó có nhiều người Pháp, được lănh đạo bởi Giáo Sư Robert Hogg của trung tâm nghiên cứu về bệnh Sida của Vancouver (Canada), đă so sánh các tỷ lệ tử vong của những người bệnh trong các thời kỳ 1996-1999, 2000-2002 và 2003-2005. Theo sự đánh giá này (thu thập những kết quả của 14 công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện trên một tổng số 43.085 bệnh nhân sống ở Bắc Mỹ và châu Âu), tỷ lệ tử vong đă hạ gần 40%. Nhất là hy vọng sống toàn bộ (espérance de vie totale) của những bệnh nhân tuổi 20, được điều trị bằng ba thứ thuốc, đă từ 56,1 tuổi tăng lên 69,4 tuổi. Hoặc một sự gia tăng đáng kể 13 năm, từ năm 1996 đến 2005. Theo The Lancet, những tiến bộ ly ky này là do liệu pháp 3 thứ thuốc (trithérapie), trong ṿng chưa được 10 năm, đă trở nên “hiệu quả hơn, được dung nạp tốt hơn và dễ định liều lượng hơn”. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu ghi nhận những chênh lệch quan trọng giữa vài nhóm bệnh nhân. Ví dụ, những người bị nhiễm bệnh sau khi chích thuốc ma túy có một hy vọng sống rơ rệt thấp hơn so với những người khác (52,6 tuổi so với 64,7 tuổi). Mức chênh lệch đạt đến 18 tuổi tùy theo các bệnh nhân đă được điều trị sớm hay chậm chống lại bệnh sida: 70,4 tuổi đối với những người được điều trị sớm, so với 52,4 tuổi đối với những người được điều trị muộn. Sau cùng, phụ nữ có một hy vọng sống hơi cao hơn đàn ông (64,2 đối với 62,8), sự khác nhau này có thể được giải thích là các phụ nữ thường bắt đầu điều trị sớm hơn. “Điều tạo nên sức mạnh của các kết quả này, đó là do chúng thu được từ một số lượng rất lớn các bệnh nhân, giáo sư Jean-François Delfraissy, giảm đốc Cơ quan quốc gia nghiên cứu chống bệnh sida và các bệnh viêm gan (ANRS) đă nhấn mạnh như vậy. Công tŕnh nghiên xác nhận một lần nữa rằng sida, khởi thủy là một bệnh gây chết người, nhờ liệu pháp 3 thứ thuốc, đă trở thành một bệnh măn tính kéo dài”. TIẾN HÀNH PHÁT HIỆN SỚM HƠN Mặc dầu bảng tổng kê là đáng phấn khởi, nhưng c̣n nhiều chặn đường phải đi qua. “Hy vọng sống của những bệnh nhân bị sida vẫn dưới hy vọng sống của người dân nói chung”. Giáo sư Delfrassy đề nghị cứu chữa t́nh trạng này bằng một phát hiện sớm hơn VIH và phục hồi tỷ lệ các tế bào miễn dịch CD4+, là những mục tiêu chính của virus. “Ở Pháp, gần một nửa các bệnh nhân có tỷ lệ CD4+ thấp hơn b́nh thường. ANRS dang hiệu chính những phương thức mới kết hợp liệu pháp 3 thứ thuốc với những điều trị có khả năng khôi phục CD4+ để làm giảm thêm nữa và ngay cả loại bỏ tỷ lệ tử vong cao hơn (surmortalité) liên kết với bệnh sida”. Sau cùng, The Lancet chứng nhận rằng không có các dữ kiện đối với những bệnh nhân trên 30 tuổi, cũng như đối với các bệnh nhân của các nước nghèo. Trong các nước nghèo, sự xuất hiện mới đây của liệu pháp 3 thứ thuốc, hiệu quả hơn những liệu pháp cách nay 10 năm, hẳn mang lại được nhiều hơn hy vọng sống cho những người bị bệnh sida. (LE FIGARO 26/7-27/7/2008) |
HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ SIDA NHẤN MẠNH VAI TR̉ CHỦ YẾU CỦA SỰ PH̉NG NGỪA.
Tháng 8 vừa qua, khoảng 23.000 người tập hợp ở Mexico để nghe kết quả của những nghiên cứu về HIV và về các điều trị chống sida. Gia tăng cố gắng để pḥng ngừa và chống lại sự phân biệt (discrimination), nguyên nhân làm duy tŕ dịch bệnh, là hai đề tài mạnh của Hội nghị quốc tế về sida XVII, khai mạc hôm 3/8 ở Mexico. Được công bố cách nay hai tuần, các con số mới nhất về t́nh trạng đại dịch do virus HIV, chứng tỏ số các trường hợp nhiễm trùng mới và tử vong năm 2007 đă giảm nhẹ, có thể cho cảm giác trấn an giả tạo. “Việc chấm dứt bệnh sida không ở trong tầm tay, Peter Piot, giám đốc ban chấp hành của Onusida đă cảnh cáo như vậy. Mỗi ngày có những người mới bị nhiễm trùng, gần 3 lần nhiều hơn là những bệnh nhân được điều trị bởi antirétroviral. V́ vậy, Ban Ki-moon, tổng thư kư Liên Hiệp Quốc đă biểu lộ sự lo lắng: “Hầu hết các nước vẫn c̣n nhiều việc phải làm để đạt mục tiêu mà họ đă đề ra cách nay 2 năm vào lúc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, đó là mục tiêu mọi người đều có thể tiếp cận được các phương tiện pḥng ngừa, điều trị, săn sóc và hổ trợ chống lại HIV vào năm 2010. Do đó, họ sẽ có những khó khăn lớn trong việc đạt được mục tiêu của Thiên niên kỷ cho sự phát triển (Millénaire pour le développement), đó là ngăn chận và làm đảo ngược sự lan tràn của bệnh sida từ nay đến 2015”. Những cố gắng nghiên cứu đă mở rộng số các loại thuốc chống HIV có sẵn để sử dụng và, nhất là , những cố gắng để thay đổi nấc thang trong sự tiếp cận các điều trị của những nước nghèo, đă cho phép vượt qua, mặc dầu với 2 năm chậm trễ, cái mốc 3 triệu người được điều trị với antirétroviraux trong những nước này. Peter Piot kêu gọi “một sự pḥng ngừa phối hợp” (une prévention combinée). Trong một bối cảnh được đánh dấu bởi những thất bại mới đây trong thử nghiệm vaccin pḥng ngừa và của những thử nghiệm mới với các chất diệt trùng, sự pḥng ngừa kết hợp này nhằm kết hợp những dạng thức khác nhau : túi dương vật (préservatif), giảm số bạn đường phối ngẫu, cắt bao quy đầu …. Trong phiên họp khoáng đại, cựu Bộ trưởng Y tế Mexico, Jaime Sepulveda, đă nhấn mạnh về sự phát triển những nghiên cứu khoa học nhằm đánh giá những loại pḥng ngừa khác nhau : “Chúng ta có một tư tưởng tốt về điều trị cần phải có và về những bệnh nhân nào cần phải điều trị. Nhưng đây không phải là trường hợp đối với pḥng ngừa ”. Cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt (discrimination) là hệ luận của sự pḥng ngừa. Như Ban Ki-moon đă giải thích, “ Trong những đất nước không có luật lệ để bảo vệ các gái măi dâm, những người dùng ma túy và những người đồng t́nh luyến ái, chỉ có một bộ phận dân chúng là tiếp cận được với pḥng ngừa ”. Ông Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc nói thêm: “Không bảo vệ những nhóm người này, đó không chỉ trái với đạo đức ; điều đó không có một ư nghĩa ǵ trên phương diện y tế.” Vị tổng thống Mexico, Filipe Calderon, nhắc lại rằng phải “đương đầu không chỉ virus gây ra căn bệnh khủng khiếp này, mà c̣n các huyền thoại, các thành kiến, sự phân biệt, gây nên biết bao thiệt hại cho xă hội, cũng như chính virus vậy”. (LE MONDE 6/8/2008) |
GIẢI THƯỞNG NOBEL DÀNH CHO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI VIRUS
Giải thưởng Nobel cho các nhà khám phá các siêu vi trùng gây bệnh sida và papillome người. Giải thưởng Nobel về y học năm 2008 đă được trao cho các người Pháp Luc Montagnier và Françoise Barré-Sinoussi của Viện Pasteur v́ đă khám phá ra virus gây bệnh sida năm 1983 và cho người Đức Harald zur Hausen v́ những công tŕnh của ông về ung thư của cổ tử cung Người ta đâu có nạp đơn ứng viên để xin được giải thưởng Nobel về y học. Chính v́ thế Françoise Barré-Sinoussi, sau khi đă hay tin hôm sáng thứ hai rằng bà đă được giải thưởng Nobel về y học, trong khi bà đang làm việc trong văn pḥng của viện Pasteur Phnom Penh, bà đă không thể che dấu được sự ngạc nhiên và xúc động. Bà chia sẻ giải thưởng này với Luc Montagnier (được biết nhiều hơn), v́ đă có công khám phá ra virus gây bệnh sida vào năm 1983. Hai nhà nghiên cứu người Pháp chia nhau một nửa của giải 1,02 triệu euros. Harald zur Hausen nhận nửa kia của giải. Đây là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu người Pháp nhận giải Nobel về y học từ năm 1980, là năm giải được trao cho giáo sư Jean Dausset. Việc trao giải thưởng này cho nhóm nghiên cứu của Viện Pasteur, mà không có các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, cho phép kết thúc vĩnh viễn cuộc tranh căi giữa Montagnier và Gallo. Hai nhà nghiên cứu này đă đấu tranh trong những năm dài, trước khi những công tŕnh nghiên cứu trong việc khám phá virus gây bệnh sida của nhóm nghiên cứu người Pháp được công nhận là xảy ra trước nhóm nghiên cứu của Hoa Kỳ. Ngày 20 tháng 5 năm 1983, trong một bài báo được công bố trong Science, một nhóm nghiên cứu của Viện Pasteur Paris, được điều khiển bởi giáo sư Luc Montagnier, đă mô tả một virus mới, bị nghi là nguyên nhân của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (SIDA : syndrome d’immunodéficien ce acquise, hay AIDS : acquired immunodeficiency syndrome). Được phân lập từ một bệnh nhân với huyết thanh dương tính (séropositif), virus này đă được đặt tên là LAV v́ siêu vi trùng này liên kết với bệnh hạch bạch huyết (lymphadénopathie). Công cuộc khám phá của Barré-Simoussi, 61 tuổi, và của giáo sư Luc Montagnier, 76 tuổi, “đă là thiết yếu cho sự thông hiểu hiện nay về sinh học và trị liệu kháng rétrovirus của bệnh này”, các chuyên gia của ủy ban Nobel đă ghi nhận như thế. MỘT QUYỀN TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG NHẬN Quyền tác giả được công nhận là một quyết định dứt khoát trong mối tranh chấp giữa nhóm nghiên cứu của Montagnier với nhóm nghiên cứu của người Mỹ Gallo ; ông này được công nhận như là người cùng khám phá ra virus, nhưng ủy ban Nobel lại không nêu tên ông này trong bảng thông báo. Vào tháng 4 năm 1984, Gallo đă loan báo là đă phân lập được một virus giống với virus do Viện Pasteur khám phá. Sau khi những tài liệu nội bộ được tiết lộ, Gallo đă được công nhận, là có “cách cư xử khoa học xấu” . “Người ta biết rằng đó là một khám phá quan trọng nhưng người ta đă không đo lường được quy mô của trận dịch như người ta biết hiện nay” , Françoise Barré-Sinoussi đă nhớ lại như thế. “Người ta đă không đo lường được tác động của trận dịch lên lục địa châu Phi. Vào thời kỳ đó, người ta nói về căn bệnh của những người đồng tính luyến ái, của những người bị bệnh ưa chảy máu (hémophiles), của những người nghiện ma túy và người ta chưa có ư niệm rằng đó là một bệnh được lây truyền bằng đường sinh dục (maladie sexuellement transmisible).” Chúng ta hăy nhắc lại rằng tác nhân gây bệnh sida phá hủy vài bạch cầu, điều này khiến cho bệnh nhân dễ bị những nhiễm trùng được gọi là cơ hội (infections opportunistes) như lao, viêm phổi do pneumocystis carinii (pneumocytose), bệnh toxoplasma (toxoplasmose) hay một vài khối u ung thư (thường nhất là sarcome de Kaposi). Được truyền bằng đường sinh dục, máu, hay từ mẹ sang con lúc thai nghén hay lúc cho bú sửa, virus sinh sản bằng cách sống kư sinh trên các lympho bào T4 hay CD4, của những bạch cầu đóng vai tṛ nhạc trưởng của hệ miễn dịch. Sau quá tŕnh tăng sinh, các virus mới phá hủy tế bào mà chúng làm tổ và đến gây nhiễm các tế bào khác. Sự phá hủy này gây nên một sự suy yếu của hệ miễn dịch. “ Tầm quan trọng của các công tŕnh của Barré-Sinoussi và Montagnier phải được xét đến trong khung cảnh của trận dịch ảnh hưởng lên gần 1% dân số thế giới ”, ủy ban Nobel đă ghi nhận như thế. “Sự thành công của liệu pháp rétrovirus đă cho phép làm gia tăng hy vọng sống (espérance de vie) của những người bị nhiễm bởi HIV, ngày nay tương tự với hy vọng sống của những người lành mạnh”. (LE SOIR 7/10/2008) |
SIDA ĐĂ XUẤT HIỆN NGAY THẾ KỶ THỨ XIX
Bệnh Sida xuất hiện 50 năm sớm hơn người ta tưởng và virus đă biến dị nhiều lần trước khi tăng sinh. Virus chịu trách nhiệm 95% những lây nhiễm hiện nay có thể đă chào đời giữa năm 1884 và 1924. Virus, nguyên nhân của trận đại dịch sida trên thế giới ngày nay, được khám phá năm 1981 và đă làm lây nhiễm 55 triệu người vào cuối năm 2007, đă đến từ đâu ? Một công tŕnh nghiên cứu mới, được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, Congo, Pháp và Bỉ và được công bố bởi tạp chí Nature, mang lại một ánh sáng mới về nguồn gốc của HIV Măi đến ngày nay, người ta nghĩ rằng HIV, siêu vi trùng gây suy giảm miễn dịch nơi người, đă xuất hiện vào khoảng năm 1930, ở châu Phi, do sự truyền giữa các loài (transmission interespèce) của một biến thể của virus dạng khỉ, từ con tinh tinh (chimpanzé) qua người, có thể xảy ra trong lúc săn bắn hay lúc ăn phải thịt bị nhiễm trùng. Một công tŕnh nghiên cứu di truyền “ khảo cổ học ”, mà các kết quả được công bố trong tạp chí Nature, đặt thời điểm truyền bệnh này ít nhất nửa thế kỷ trước đó, hoặc một thế kỷ trước khi virus trở nên một vấn để y tế công cộng quan trọng, vào năm 1981, tức hai năm trước khi Montagnier và Gallo nhận diện được virus. Các nhà nghiên cứu đă tiến hành như thế nào để đạt được kết luận này ? Họ đă phân tích một mẫu nghiệm virus HIV, trích từ một bệnh phẩm của hạch bạch huyết được bảo quản trong paraffine và rất mới đây vừa được làm cập nhật. Bệnh phẩm này, được bảo quản ở khoa cơ thể bệnh học của Đại học Kinshasa, rồi được chuyển về Đại học Arizona, vốn đă được lấy từ một phụ nữ 48 tuổi ở Kinshasa vào năm 1960. Michael Worobey (đại học Tucson, Arizona) đă phân tích bệnh phẩm này và đă khám phá, trong một mẫu nghiệm sinh thiết của một hạch bạch huyết của người phụ nữ này, dấu vết của virus bệnh sida. Đó là các acide nucléique, hay nói một cách khác, là các mảnh của các gène của ADN, đă được bảo quản như thế trong 48 năm. Thế mà, măi đến ngày nay, chỉ có một mẫu nghiệm duy nhất khác, có từ trước năm 1976, được khám phá vào năm 1959, cũng ở Kinshasa. Các nhà nghiên cứu sau đó đă phân tích di truyền hai giống gốc 1959 và 1960 (ZR59 và DRC60), và đă so sánh chúng với một trăm mẫu nghiệm mới đây, để quan sát những biến dị đă xảy ra. Kết quả ? Sự so sánh cho thấy rằng hai virus đă rất khác nhau, khiến có thể suy đoán rằng tổ tiên chung của virus này đă xuất hiện sớm hơn nhiều điều mà người ta đă nghĩ trước đây. ADN của virus HIV biến dị một triệu lần nhanh hơn ADN của một loài động vật, BS Paul Sharp đă ước tính như thế trong một bài báo của Nature. Trong vài thập niên, một số không phải là ít những biến dị của virus bệnh sida đă được quan sát. Theo các nhà nghiên cứu, nếu người ta tính đến tốc độ biến dị của virus bệnh sida, th́ tổ tiên nguồn gốc của trận đại dịch thế giới ngày nay, ắt hẳn phải cổ hơn nhiều.Trong lịch sử của trận dịch nơi người, tổ tiên virus của HIV là một virus của sự giảm miễn dịch của khỉ (SIV). Virus cổ đại này đă gây nhiễm tự nhiên các con tinh tinh ở vùng Trung và Tây phi. Những nghiên cứu khảo cổ học về một virus có ích lợi ǵ? “ Như đối với virus cúm năm 1918, một sự hiểu biết sâu rộng hơn về tiến triển của virus và phương cách mà nó biến dị từ những trường hợp đầu tiên ở châu Phi, có thể cho một cái nh́n chính xác hơn về độc lực và về tiến triển của những giống gốc hiện nay. Điều này có thể cho những hướng để ngăn ngừa trận dịch”, các nhà nghiên cứu đă nhấn mạnh như thế. 33 triệu người sống với virus HIV và 28 triệu người đă chết v́ nó từ năm 1981. (LE SOIR 3/10/2008) (LE FIGARO 2/10/2008) |
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CẮT BAO QUY ĐẤU CHỐNG SIDA
Vào lúc mà hiệu quả của sự cắt bao quy đầu như là phương tiện pḥng ngừa đang gây tranh căi, những dữ kiện mới trên hiện trường vừa được tŕnh bày ở Hội Nghị Quốc tế về sida lần thứ XVII, diễn ra ở Mexico. Chúng ta hăy nhớ rằng 33 triệu người bị nhiễm trùng bởi VIH vào cuối năm 2007 . Từ tháng 12/ 2006, người ta biết rằng sự cắt bao quy đầu nơi nam giới làm giảm 60%. các nguy cơ truyền VIH. Thật vậy bao quy đầu được cấu tạo bởi những tế bào đặc biệt rất dễ bị thương tổn bởi virus. Đó cũng là một vùng mảnh dẻ, nơi các thương tổn vi thể có thể xuất hiện lúc giao hợp. Sau cùng, môi trường nóng và ẩm của nó làm dễ sự tồn tại của VIH sau khi bị lây nhiễm. Do đó, cắt bỏ bao quy đầu làm giảm những cửa đi vào của virus. Da của dương vật cứng lại, trở nên một hàng rào chắn tốt hơn. Vấn đề duy nhất : cắt bao quy đầu làm giảm nguy cơ, nhưng không có tác dụng bảo vệ. Làm sao tránh những cảm giác an toàn giả tạo và nhiều hành v́ nguy cơ hơn?.Một công tŕnh nghiên cứu của Pháp, của cơ quan nghiên cứu quốc gia về bệnh sida, thực hiện trên 1.201 người đàn ông và 1.399 phụ nữ của quận Orange Farm ở Nam Phi, cho thấy rằng 55% đàn ông đă tuyên bố là đă được cắt bao quy đầu nhưng thực ra không phải là như vậy. Sự không hiểu biết này tăng cường ư tưởng rằng, để được chấp nhận và có hiệu quả, sự cắt bao quy đầu phải được thực hiện miễn phí và kết hợp với một mức cao về thông tin. (SCIENCES ET AVENIR 9/2008) |
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CÁC BỆNH LÂY LAN QUA ĐƯỜNG SINH DỤC
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Các Bệnh Lây Lan Qua Đường Sinh Dục từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh 30 PHÚT ĐỂ CHẤN ĐOÁN BỆNH SIDA Đây là một đầu tiên ở Pháp. Tại Montpellier, những xét nghiệm phát hiện nhanh bệnh sida từ nay được đưa vào sử dụng. Trong ṿng 30 phút và chỉ với một giọt máu lấy nơi đầu của ngón tay và được đặt trên một dải phản ứng (bandelette réactive), những trắc nghiệm này, cũng như những trắc nghiệm được dùng bởi những bệnh nhân đái đường, sẽ cho phép biết được t́nh trạng huyết thanh của một người, 3 tháng sau một giao hợp có khả năng bị lây nhiễm. Một trường hợp huyết thanh dương tính phải được xác nhận bởi một xét nghiệm máu cổ điển, được thực hiện trong môi trường bệnh viện. Hiện nay, ở Pháp, 36.000 người không hay biết rằng ḿnh có huyết thanh dương tính và do đó không được theo dơi về mặt y tế. (SCIENCES ET AVENIR 1/2009) |
CHÈ XANH ĐƯỢC DÙNG NHƯ RÀO CHẮN CHỐNG LẠI SIDA.
Một dung dịch polyphénol ức chế một protéine của tinh dịch, vecteur của nhiễm trùng. Một thành phần của chè xanh có thể tỏ ra hiệu quả để tránh sự lây nhiễm bởi virus của sida trong lúc giao hợp, một công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Proceedings of the National Academy of Sciences đă xác nhận như vậy. Công tŕnh nghiên cứu này của đại học Heibelberg và của Viện virus học thực nghiệm của Hamburg đă cho thấy rằng gallate d’epigallocatech in (EGCG), một polyphénol hay tanin thực vật của chè xanh, có khả năng ức chế một protéine của tinh dịch có khuynh hướng dùng làm vecteur và tác nhân làm lan truyền của virus của sida. “ Một phần của peptide, được chứa trong tinh dịch người, làm tăng cường sự nhiễm trùng bởi HIV một cách hằng định. Các sợi nhỏ làm lan truyền (fibrilles propagatrices) nhiễm trùng của virus HIV bởi tinh dịch, bắt giữ các yếu tố của virus và móc chúng và các tế bào bia của chúng, làm lan tràn sự hợp nhất của virus trong những tế bào này ”, các nhà nghiên cứu của Heinrich-Pette-Institute de Hambourg đă viết như vậy. “ V́ những lư do này, chúng tôi đă cho rằng việc đưa vào một chất ức chế các sợi nhỏ này, như là chất diệt trùng , có thể ngăn ngừa sự lan truyền của bệnh sida qua những giao hợp ”, các nhà nghiên cứu chứng ḿnh rằng nơi các phụ nữ, việc sử dụng tại chỗ một dung dịch có liều lượng thấp polyphénol của chè xanh có thể “ hủy bỏ một cách hiệu quả những tính chất phát triển của nhiễm trùng.”. ĐƠN GIẢN VÀ ÍT TỐN KÉM Trong khi đại đa số trong số 33 triệu người có huyết thanh dương tính trên thế giới đă bị nhiễm trùng bởi HIV trong lúc giao hợp dị tính (relations hétérosexuelles) và trong lúc 96% những lây nhiễm mới đều xảy ra trong những nước nghèo, các nhà nghiên cứu cho rằng việc khám phá những tính chất ức chế của thành phần của chè xanh là “ đầy hứa hẹn ”. “ Điều đó có thể mang lại một phương pháp pḥng ngừa đơn giản và ít tốn kém, đặc biệt là trong những giới nghèo khổ.” EGCG của chè xanh đă được công nhận do những tính chất chống ung thư, kháng oxy hóa, chống vi khuẩn và kháng virus. (LE SOIR 27/5/2009) |
NHỮNG NHIỄM TRÙNG BỊ LÂY TRUYỀN BỞI CÁC NHA SĨ.
HEPATITE. Một báo cáo ở Pháp chỉ rơ nguy cơ, tuy rất thấp, nhưng không phải là ít, của sự lây nhiễm bởi virus viêm gan B hay C, thậm chí của Sida, nơi các pḥng khám của các nha sĩ. Những trường hợp chữa răng b́nh thường phải chăng có thể là nguồn gốc của những nhiễm trùng nặng bởi virus ? Đối với một cá thể, nguy cơ mắc phải HIV, virus của viêm gan B (VHB) hay virus của viêm gan C (VHC) nơi một pḥng mạch nha sĩ là rất thấp, một báo cáo của Viện theo dơi y tế (IVS : Institut de veille sanitaire), vừa được công bố, đă đánh giá như vậy. Tuy nhiên nguy cơ này không hẳn là không đáng kể ở quy mô đại chúng, nếu xét đến số lượng cao của các động tác giải phẫu răng và những khiếm khuyết trong sự khử trùng dụng cụ, được chứng thực nơi các nha sĩ hành nghề. Ở Pháp, theo những tính toán của IVS, mỗi năm khoảng 200 trường hợp bị lây nhiễm bởi virus của viêm gan B, có thể là do sự khử trùng không được đầy đủ của các các giá mang dụng cụ quay (PIR : porte-instruments rotatifs : toàn bộ các turbines và những pièces à mains khác, truyền một chuyển động quay đến các dụng cụ, như fraises, tiếp xúc trực tiếp với các răng được điều trị), được sử dụng rộng răi bởi các nha sĩ để điều trị bảo tồn và làm răng giả. Như thế, những khiếm khuyết vệ sinh trong lănh vực này, trên lư thuyết, có thể gây nên những lây nhiễm bởi virus của viêm gan C (dưới 2 trường hợp mỗi năm) hay bởi HIV (dưới 1 mỗi năm). Trên thực tế, rất ít các trường hợp được chứng minh trong tư liệu y học. Trong hầu hết các trường hợp, những virus có thể được lây truyền bởi máu này bị nhiễm phải trong những bối cảnh khác (giao hợp, nghiện ma túy, những tai nạn do tiếp xúc với máu...). Trường hợp đầu tiên được xác nhận của sự truyền virus viêm gan B từ bệnh nhân này đến bệnh nhân khác vào lúc chữa răng, đă được báo cáo ở Hoa Kỳ vào năm 2007. “ Ở Pháp một trường hợp đang trong ṿng điều tra, nhưng chưa có ǵ được chứng minh, BS Bruno Poignard của IVS đă xác nhận như vậy. Thường khó chứng minh trách nhiệm của việc chữa răng (là những động tác rất thông thường) trong sự lan truyền của một bệnh sida hay viêm gan. Nói chung, đó là giả thuyết cuối cùng được thăm ḍ và đó là một chẩn đoán loại trừ.” Cách nay vài năm, Tổng giám đốc y tế đă phân phát một hướng dẫn các khuyến nghị dành cho những nhà chuyên nghiệp, nhằm tăng cường sự pḥng ngừa những nhiễm trùng do việc chữa răng. Nhưng mới đây, giới hữu trách y tế đă được báo động bởi các cuộc thanh tra trong các pḥng mạch của các nha sĩ trong môi trường nhà tù. Những khuyến nghị tiệt trùng các giá mang dụng cụ quay (PIR : porte-instruments rotatif) giữa mỗi bệnh nhân vẫn không hẳn luôn luôn được tôn trọng. Điều chứng nhận này cũng tương tự đối với các pḥng khám tư. “ Mặc dầu những tiến bộ quan trọng đă được chứng thực trong việc tôn trọng những quy tắc vệ sinh bởi các nha sĩ trong những năm qua, nhưng nhiều cuộc điều tra cũng cho thấy rằng những khiếm khuyết có thể tồn tại về vấn đề này nơi vài nha sĩ ”, bảng tường tŕnh của IVS đă ghi nhận như vậy. Theo IVS, nguy cơ cá nhân mắc phải một virus do khiếm khuyết trong khử trùng các giá mang dụng cụ quay (PIR) là thấp nhất đối với HIV, 1/420 triệu, và cao nhất đối với virus của viêm gan B, 1/516.000. Xác suất là 1/67 triệu đối với viêm gan C. Các nguy cơ sẽ là 8 lần cao hơi trong môi trường nhà tù.Thật vậy, sự mang virus sida và viêm gan đúng là thường xảy ra hơn trong nhóm dân này, do những hành vi có nguy cơ như nghiện ma túy. Tổng cộng, theo đánh giá của IVS, việc chữa răng có thể chịu trách nhiệm 200 trường hợp nhiễm virus viêm gan B mỗi năm. (LE FIGARO 29/5/2009) |
VACCIN CHỐNG BỆNH SIDA : SAU CÙNG CÁC KẾT QUẢ DƯƠNG TÍNH !
Cuộc thử nghiệm vaccin với quy mô rộng lớn nhất được tiến hành cho đến ngày hôm nay đă cho phép làm giảm 1/3 nguy cơ nhiễm trùng bởi virus HIV. Nhưng c̣n nhiều điều cần phải làm. Mặc dầu vaccin chống bệnh sida chưa có cho ngày mai, nhưng đây là lần đầu tiên trong lịch sử của dịch bệnh mà một thử nghiệm lâm sàng cho hé thấy khả năng pḥng ngừa sự lây nhiễm bởi virus HIV. Nguy cơ bị nhiễm trùng sida giảm 31% nơi những người được tiêm chủng so với những người đă nhận một placebo, hôm thứ năm 24/9, các nhà tổ chức cuộc thử nghiệm tiêm chủng đă loan báo như vậy. “ Đó là một bước tiến quan trọng, giáo sư Jean –François Delfraissy, giám đốc ANRS (Cơ quan quốc gia nghiên cứu về bệnh si da và các bệnh viêm gan virus) đă chào mừng.Tuy nhiên vẫn c̣n khiêm tốn và không đủ. Chúng ta chưa có một vaccin chống sida.” Được trắc nghiệm nơi 16.000 người t́nh nguyện ở Thái Lan có huyết thanh âm tính (séronégatif), thử nghiệm kết hợp hai vaccin khác nhau (un cocktail de deux vaccins) được chế tạo cách nay 10 năm. Vaccin đầu tiên được tiêm là Alvac, được bào chế bởi Sanofi Pasteur và vaccin thứ hai Aidsvax B/E VaxGen. Hai vaccin, nhằm vào các chủng gốc lưu hành ở Thái Lan, được tiêm cách nhau một khoảng thời gian 6 tháng, vaccin thứ hai tăng cường tác dụng của vaccin thứ nhất, theo chiến lược primovaccination, tiếp theo bởi một tiêm chủng nhắc lại (“ prime boost ”). Những người t́nh nguyện được khám lại mỗi 6 tháng trong ṿng 3 năm sau khi tiêm chủng, đồng thời mỗi lần khám bệnh họ nhận “ những lời khuyên về phương cách pḥng ngừa nhiễm trùng bởi HIV ”. Những kết quả thô sơ của thử nghiệm giai đoạn III này, được gọi là RV 144, đă được tŕnh bày hôm qua nhân một cuộc họp báo được tổ chức bởi Sanofi-Pasteur, là hăng bào chế Alvac-HIV, một trong hai vaccin. Mặc dầu họ không ngớt đưa ra những lời tuyên bố phấn khởi, nhưng các phát ngôn viên của quân đội Hoa Kỳ và Bộ y tế Thái Lan (đă tiến hành nghiên cứu), đă không chi tiết bao nhiêu về các dữ kiện. Những dữ kiện này sẽ được phát triển vào hội nghị quốc tế về các vaccin sẽ diễn ra ở Paris từ 19 đến 22 tháng 10. Hai thử nghiệm quy mô lớn đầu tiên, được tiến hành với các vaccin thế hệ thứ nhất, đă thất bại. Để gia tăng các cơ may thành công, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ đă nhờ đến chiến lược “ prime-boost ” (primovaccination rappel), nhằm tiêm một vaccin đầu tiên để khơi mào đáp ứng miễn dịch, rồi một vaccin thứ hai, tính chất khác, để khuếch đại sự sản xuất các kháng thể.Vaccin đầu tiên, Alvac-HIV, được sản xuất từ một virus gây nhiễm trùng chim hoàng yến (canari) (canarypox) bị biến đổi về mặt di truyền. Virus này không có thể sống sót trong các tế bào người nhưng cho phép đưa vào các gène mật mă cho các protéine miễn dịch của HIV. Vaccin thứ hai, AIDSVAX là một dạng tổng hợp của một protéine thuộc lớp vỏ của virus, gpl120. Được trắc nghiệm riêng rẽ, hai vaccin này đă không mang lại một sự bảo vệ miễn dịch nào. Trong thử nghiệm Thái Lan, được bắt đầu vào năm 2003, 16.000 người t́nh nguyện, tuổi từ 18 đến 30 và được xem như có nguy cơ“ trung b́nh ” bị lây nhiễm bởi HIV, đă được chia thành hai nhóm : 8.000 người đă nhận cocktail vaccin, 8.000 người nhận các placebo. Vào thời kỳ đó, một bộ phận của cộng đồng y khoa đă đứng lên chống lại công tŕnh nghiên cứu này, được cho là cần phải bàn căi về mặt đạo đức. 3 năm sau khi chấm dứt các tiêm chủng, các vaccin đă xác nhận tính dung nạp tốt của chúng. Nhất là, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, sau cùng chúng đă chứng tỏ một hiệu quả : 74 trường hợp sida đă xảy ra trong nhóm placebo, 51 trong số những người được tiêm chủng, hoặc một sự giảm 31%, có ư nghĩa về mặt thống kê. “ Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu , thể hiện một sự tiến bộ khoa học đáng kể, là điều chứng minh đầu tiên rằng một vaccin có thể ngăn ngừa nhiễm trùng bởi HIV trong dân chúng trưởng thành và có một tầm quan trọng lớn ”, OMS và Onusida đă tuyên bố như vậy. “ Rất là đáng phấn khởi. Những kết quả này cũng cho thay chiến lược “ prime-boost ” đáng được nghiên cứu sâu ” , BS Catherine Hankins, trưởng cố vấn khoa học của Onusida đă chỉ rơ như vậy. “ Những kết quả này là khiêm tốn, nhưng đây là lần đầu tiên người ta có một dấu hiệu dương tính đối với một vaccin ”, GS Anthony Fauci thuộc Viện quốc gia dị ứng và các bệnh nhiễm trùng (Hoa Kỳ) đă nhấn mạnh như vậy. Tuy nhiên ông nhấn mạnh rằng vẫn c̣n nhiều câu hỏi phải giải quyết trước khi dự kiến đưa ra thị trường.“ Người ta không biết thời gian bảo vệ do vaccin mang lại là bao nhiêu, cũng như không biết là vaccin này sẽ có hiệu quả trong những loại dân chúng khác hay không, chẳng hạn những người đồng tính luyến ái hay nghiện ma túy ”, Anthony Faucy đă ghi nhận như thế. Các chuyên gia Pháp khác lại c̣n thận trọng hơn. “ Phải tiết chế bớt niềm phấn khởi của chúng ta, đó chỉ là một sự giảm 31%, và chúng ta không biết tại sao những người này lại được bảo vệ ”, GS Françoise Barré-Sinoussi, Giải Nobel Y Học 2008 do đă tham gia vào việc khám phá virus HIV, đă phản ứng như vậy. “ Tin vui đầu tiên, đó là sự thông tin về những biện pháp pḥng ngừa đă rất là có hiệu quả, bởi v́ đă chỉ có 125 trường hợp lây nhiệm trên 16.000 người ", giám đốc Cơ quan quốc gia nghiên cứu về sida (ANRS) Jean François Delfraissy đă phát biểu như vậy. Tuy nhiên, GS Yves Levy, phụ trách về những thử nghiệm vaccin ở ANRS nhắc lại rằng “ sau 30 ứng viên vaccin trong 20 năm, ít nhất chúng ta có được một dấu hiệu cho thấy rằng có thể làm giảm các nguy cơ ”. “ Một vaccin có hiệu quả trong 30% hay 50% các trường hợp sẽ có thể đóng một vai tṛ quan trọng nếu vaccin này nằm trong một hệ thống pḥng ngừa được tăng cường. Chưa có giải pháp độc nhất để chống lại sida ”, Michel Sidibé, giám đốc của Onusida đă đánh giá như vậy. (LE FIGARO 25/9/2009) (LE MONDE 26/9/2009) |
TA CÓ PHẢI THỰC HIỆN MỘT XÉT NGHIỆM PHÁT HIỆN BỆNH SIDA ?
Professeur Yazdan Yazdanpanah Service universitaire des maladies infectieuses et du voyageur. Centre hospitalier de Tourcoing. Chính sách phát hiện HIV ở Pháp và trong nhiều nước phát triển dựa trên đề nghị, bởi những người điều trị, xét nghiệm cho nhóm người có nguy cơ : những người đàn ông đồng tính luyến ái, những người sử dụng thuốc ma túy bằng đường tĩnh mạch và những người dị tính luyến ái (hétérosexuels) có nhiều bạn đường phối ngẫu. Chính sách này, được thiết lập vào cuối những năm 1980, ngày nay không c̣n thích ứng với dịch tễ học cũng như tiến triển của bệnh ở kỷ nguyên của các điều trị antirétroviraux. Ngày nay, ở Pháp, số những người bị nhiễm bởi HIV nhưng không biết là ḿnh bị nhiễm trùng, được ước tính là 40.000. Giữa ¼ đến 1/3 các bệnh nhân phát hiện căn bệnh ḿnh vào một giai đoạn muộn. Những người dị tính luyến ái có nguy cơ hai lần nhiều hơn, và những người trên 60 tuổi có bốn lần nguy cơ cao hơn, không được phát hiện và điều trị. Một mặt, bởi v́ họ tự xem là không phải diện có nguy cơ và mặt khác bởi v́ nhiều thầy thuốc không xếp loại họ trong nhóm người bị tiếp xúc HIV. Thế mà, sự điều tra phát hiện, có thể cho phép thiết đặt sớm một điều trị, sẽ làm giảm một cách đáng kể những nguy cơ bệnh tật và tử vong. Mặt khác, sự điều trị sớm có một tác dụng hữu ích đối với cộng đồng. Thật vậy, do làm giảm lượng virus trong cơ thể, các antirétroviraux làm giảm nguy cơ truyền cho những người khác. Sau cùng, việc biết được t́nh trạng huyết thanh (statut sérologique) của ḿnh mang lại một sự biến đổi của những hành vi sinh dục có nguy cơ (comportememnt sexuel à risque). Trong khi phải duy tŕ và tăng cường sự phát hiện nhắm đích và đều đặn những nhóm người có nguy cơ, giờ đây ta phải mở rộng công tác phát hiện bệnh. Đó là điều được khuyến nghị bởi Haute Autorité de Santé, vào tháng 10 năm 2009, đối với toàn bộ những người tuổi từ 15 đến 70. Một cách cụ thể, mỗi người sẽ được đề nghị một xét nghiệm hay yêu cầu được hưởng xét nghiệm này trong một cơ sở y tế. Ngoài ra, việc đề nghị phát hiện mở rộng (dépistage généralisé) sẽ là cơ hội để minh định rơ rằng, mỗi cá nhân, dầu thuộc cộng đồng nào, đều có khả năng bị nhiễm bởi HIV. Tuy nhiên, xét nghiệm chỉ được thực hiện bởi những người điều trị trong bối cảnh này không đủ. Nhất là để phát hiện những người trong t́nh trạng bấp bênh không hay ít thường xuyên lui tới các cơ sở điều trị, hay vài nhóm “ cộng đồng ”. Phải đi đón lấy những nhóm người này ! Sự sử dụng mới đây các xét nghiệm phát hiện có kết quả nhanh, được thực hiện chỉ với một giọt máu lấy nơi đầu ngón tay, mang lại cho chúng ta một khả năng đổi mới tuyệt vời. Ngày nay, với những trắc nghiệm này, việc phát hiện bệnh có thể được thực hiện ở nơi khác với pḥng xét nghiệm. Dầu cho chiến lược phát hiện bệnh là ǵ, médicalisé hay không, chúng ta hăy nhắc lại rằng công tác phát hiện này vẫn là một phương pháp tiến hành tự nguyện. Điều chủ yếu là các quyền của con người, đặc biệt là tính cách kín mật phải được tôn trọng. Chính trên những nguyên tắc này mà nền dân chủ y tế hoạt động. Hay dân chủ nói chung. (LE FIGARO 5/7/2010) |
SIDA : TIẾN ĐẾN SỰ THANH TOÁN VIRUS VÀO NĂM 2050 ?
Liệu pháp ba loại thuốc (trithérapie) điều trị các bệnh nhân, nhưng cũng làm giảm khả năng gây nhiễm. Từ đó nảy ra ư tưởng điều trị để pḥng ngừa. EPIDEMIE. Nếu như tất cả những người bị nhiễm bởi virus sida được phát hiện và nhận các thuốc kháng virus, có lẽ dịch bệnh có thể biến mất trong vài thập niên. Thật vậy, mặc dầu các thuốc hiện nay không cho phép tiêu hủy virus, nhưng, đối với bệnh nhân được điều trị, chúng làm giảm nhiều nguy cơ truyền virus cho một đệ tam nhân, bằng đường sinh dục hay bằng tiêm chích. “ Phát hiện và điều trị ” (Test and treat). Từ nay, đó là triết lư hành động của các cơ quan lớn chống bệnh sida và đặc biệt là Onusida, xác định cho ḿnh mục tiêu điều trị các bệnh nhân, đồng thời ngăn cản những lây nhiễm mới. Trong khi Hội nghị quốc tế lần thứ 18 về bệnh sida đă khai mạc hôm qua với hơn 20.000 người tham dự (các nhà nghiên cứu, các thầy thuốc, các hiệp hội), càng ngày càng có nhiều chuyên gia ủng hộ một chiến lược như thế. Ngay cả Tổ chức y tế thế giới nghĩ đến, ở chân trời năm 2050, sự triệt căn của virus VIH, chịu trách nhiệm 25 triệu trường hợp tử vong kể từ đầu đại dịch, vào năm 1892. “ Chiến lược này dựa trên sự kiện là, khi ta làm giảm trọng tải virus (charge virale) của các bệnh nhân bằng điều trị, th́ nguy cơ truyền bệnh có vẻ thấp hơn, GS Jean-François Delfraissy (giám đốc của Cơ quan quốc gia nghiên cứu về bệnh sida, Paris) đă giải thích như vậy. “ Người ta cho rằng việc đảm bảo một sự tiếp cận điều trị cho tất cả những ai cần đến, có thể cho phép làm giảm 1/3 những trường hợp lây nhiễm mới mỗi năm ”, bản báo báo mới nhất của Onusida, được công bố cách nay vài ngày, đă xác nhận như vậy. Cho măi đến nay, đó chủ yếu là những mô h́nh, liên kết với những công tŕnh nghiên cứu quán sát, cho phép dự kiến, nhờ một phương pháp như thế, một khả năng thanh toán virus sida. Hôm qua, nhân Hội nghị quốc tế thế giới về sida, tạp chí Anh The Lancet đă công bố những kết quả của công tŕnh nghiên cứu Canada ít nhất cũng phù hợp phần nào những giả thuyết này. Công tŕnh chứng minh rằng chỉ cần điều trị những người huyết thanh dương tính (séropositifs) cũng cho phép chia đôi số những trường hợp mới nhiễm trùng bởi VIH. NHỮNG CÔNG TR̀NH NGHIÊN CỨU KHÁC ĐANG ĐƯỢC TIẾN HÀNH. Nhóm nghiên cứu của GS Julio Montaner (giám đốc của Trung tâm chống bệnh sida ở Vancouver và chủ tịch của International Aids Society, tổ chức hội nghị quốc tế ở Vienne) đă tập trung vào tỉnh Colombie-Britanique (Canada), nơi đây, từ năm 1996, tất các các bệnh nhân bị nhiễm bởi virus sida đều được hưởng một sự tiếp cận điều trị miễn phí. Nhóm nghiên cứu đă có thể quan sát thấy rằng giữa năm 1996 (lúc bắt đầu liệu pháp 3 thứ thuốc, trithérapie) và 2009, số những người được điều trị trong vùng này đă chuyển từ 837 lên 5.413. Trong cùng thời gian, suốt trong 13 năm này, số những trường hợp chẩn đoán huyết thanh dương tính mới mỗi năm đă chuyển từ 702 xuống c̣n 338, hoặc một sự giảm 52%. “ Cứ thêm 100 người được điều trị bởi liệu pháp 3 thứ thuốc, số những trường hợp mới hạ 3% ”, các tác giả đă tóm tắt như vậy. Ngược lại, các tỷ lệ các bệnh nhiễm trùng được lây truyền bằng đường sinh dục đă gia tăng trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu, điều này chứng tỏ rằng những kết quả của nó không phải là do một sự giảm các hành vi sinh dục có nguy cơ (conduite sexuelle à risque), mà đúng là do hiệu quả pḥng ngừa của các điều trị. Sự giảm số các nhiễm trùng mới đă có thể nhận thấy đối với các cách lây nhiễm và đặc biệt là đối với những người tiêu thụ thuốc ma túy bằng đường tiêm chích. “ Những kết quả nghiên cứu của chúng tôi xác nhận lợi ích thứ hai của các điều trị, đó là làm giảm sự lan truyền của VIH. Những kết quả này khiến phải xem xét lại sự lưỡng phân được xác lập giữa sự pḥng ngừa và sự điều trị của VIH ”, các tác giả đă kết luận như thế. Nhiều công tŕnh nghiên cứu khác đang được tiến hành để đánh giá tốt hơn ảnh hưởng của điều trị lên sự pḥng ngừa. “ C̣n có nhiều nghi vấn, GS Delfraissy đă xác nhận như vậy. Trước hết phải cố đạt được sự chấp thuận để được phát hiện bệnh và sự tuân thủ các điều trị. Cũng cần phải theo dơi những đề kháng của virus đối với các loại thuốc. Sau cùng, vấn đề phí tổn của một điều trị đối với tất cả không thể không được nói đến. Hiện nay, trên 33 triệu người bị nhiễm trùng trên thế giới, chỉ 12 triệu được phát hiện và 5 triệu được điều trị. ” Trong lúc chờ đợi một sự triệt căn khả dĩ của virus VIH trong 40 năm đến, những chiến dịch pḥng ngừa bệnh sida bằng bao dương vật được tiếp tục khắp nơi trên thế giới. Các chuyên viên đang nôn nóng chờ đợi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu, được tŕnh bày ngày mai, nhằm đánh giá hiệu quả của một gel âm đạo chứa một chất kháng virus, để pḥng ngừa sự lây nhiễm đối với các phụ nữ. (LE FIGARO 19/7/2010) |
THUỐC CHỦNG CHỐNG BỆNH SIDA (VACCIN ANTI-VIH) : SỰ LẠC QUAN CỦA GIÁM ĐỐC VIỆN CÁC BỆNH NHIỄM TRÙNG HOA KỲ.
Sau 20 năm thất bại, công cuộc t́m kiếm một vaccin chống bệnh sida đă trải qua những bước tiến quan trọng, làm tin tưởng hơn nhiều khả năng thắng bệnh nhiễm trùng, Anthony Fauci, giám đốc Viện các bệnh nhiễm trùng Hoa Kỳ, đă đánh giá như vậy. “ Tôi nghĩ rằng, chúng ta có thể nói một cách thành thật rằng, những tiến bộ đáng kể đă được thực hiện trong sự phát triển của một vaccin ”, Anthony Fauci đă tuyên bố như vậy, nêu lên sự khám phá mới đây của hai kháng thế mới chống lại virus sida (anticorps anti-VIH), bởi những nhà nghiên cứu của cơ quan ông, Viện quốc gia Hoa Kỳ về các dị ứng và những bệnh nhiễm trùng (Niaid), đang ở hàng đầu trong công cuộc đấu tranh chống lại bệnh sida. “ Măi cho đến gần đây, không những các cố gắng để sản xuất một vaccin đă không thu được kết quả, mà chúng ta c̣n không có chỉ dấu ít ỏi nào cho thấy rằng chúng ta đă đi trên con đường đúng đắn ” ông nói tiếp như vậy. Chúng ta tiến bước hầu như một người mù, với hy vọng gặp được cơ may.” Tất cả đă bắt đầu thay đổi với những kết quả của một thử nghiệm lâm sàng của một vaccin thí nghiệm ở Thái Lan, vào năm 2009, trên 16.000 người. Những kết quả đă cho thấy một hiệu quả dương tính rất khiêm tốn để ngăn ngừa nhiễm trùng bởi VIH (virus de l’immunodéficien ce). “ Mặc đầu hiệu quả không đầy đủ, vaccin này đă đánh dấu một bước tiến về quan niệm (une avancée conceptuelle), đă cho chúng ta thấy rằng có thể sản xuất một vaccin có khả năng ức chế VIH, BS Fauci nói thêm như vậy. Tất cả sự khó khăn để sản xuất một vaccin là ở chỗ virus này biến dị một cách nhanh chóng ”. Tuần vừa qua, các nhà nghiên cứu của Niaid đă loan báo trong tạp chí Science cua Hoa Kỳ là đă thành công nhận diện hai kháng thể (VRCQ1,VRCO2) nơi một người bị nhiễm trùng. Những kháng thể này trong pḥng thí nghiệm cũng phong bế hơn 90% những giống gốc VIH được biết trên thế giới. “ Khám phá này đă cho phép chúng tôi phân lập một bộ phận của VIH, mà chúng tôi có thể sử dụng như vaccin, bởi v́ chúng tôi biết rằng những kháng thể này luôn luôn tấn công vào đó và phong bế virus ”, ông đă xác nhận như vậy. Mục tiêu sắp đến là thử tiêm nơi người, một trích chất của bộ phận này của virus dưới dạng vaccin, để gây nên một đáp ứng miễn dịch bảo vệ chống lại nhiễm trùng. Tất cả những diễn biến này chỉ mới xảy ra rất gần đây. Vậy th́, mặc dầu không có thể biết khi nào chúng ta sẽ có một vaccin, nhưng chúng ta tin tưởng hơn nhiều so với chỉ cách nay vài năm, khi đó không có ǵ chỉ cho thấy rằng việc khám phá một vaccin là có thể thực hiện được.” T́m ra những kháng thể, có khả năng làm vô hiệu các giống gốc của VIH hiện diện khắp nơi trên thế giới, cho đến nay, đă tỏ ra rất là gay go, bởi v́ virus thay đổi protéine bề mặt một cách thường xuyên để thoát khỏi sự phát hiện bởi hệ miễn dịch. Những khám phá như thế tạo nên một điểm khởi đầu lư thú nhưng dầu sao vào giai đoạn này, điều đó dường như không đủ để hiệu chính một vaccin pḥng ngừa, GS Jean-François Delfraissy (giám đốc của Cơ quan quốc gia nghiên cứu bệnh sida, Paris) đă phát biểu như vậy. (LE FIGARO 19/7/2010) |
VIRUS CỦA BỆNH SIDA CHẲNG BAO LÂU NỮA SẼ CÓ LIỆU PHÁP GENE.
Các thuốc kháng siêu vi trùng (antiviraux) chống lại virus của bệnh sida phải chăng một ngày nào đó sẽ được thay thế bởi một liệu pháp gène (thérapie génique ? Đó là hy vọng được dấy lên bởi một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ. Các nhà nghiên cứu đă lấy các tế bào máu trên 4 người bị nhiễm bởi VIH và bị một ung thư máu, hay lymphome, liên kết với bệnh sida. Sau đó họ đă biến đổi một phần nhỏ của những tế bào này bằng cách đưa vào đó những gène ngăn cản sự phát triển của VIH. Sau cùng, các nhà nghiên cứu đă đưa các tế bào này vào lại trong máu của các bệnh nhân. Sau đó, các nhà nghiên cứu đă chứng thực rằng, các triệu chứng của tất cả các bệnh nhân đă được cải thiện và rằng, nơi hai trong số các bệnh nhân này, các tế bào chữa lành bệnh (cellulues guérisseuses) đă tăng sinh. Ngược lại, không có sự bảo đảm về tính hiệu quả của các gène“ thuốc ” này về lâu về dài. (SCIENCE ET VIE 8/2010) |
NGUỒN GỐC CỦA BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT.
Sống trong môi trường đô thị, di dân, tiêu thụ cannabis...Những t́nh huống này có phải là những yếu tố nguy cơ đối với bệnh tâm thần phân liệt, căn bệnh tâm thần gây bệnh cho 1% dân số thế giới ? Lần đầu tiên, một công tŕnh nghiên cứu, được phát động bởi Fondation FondaMental (mạng lưới hợp tác khoa học về sức khỏe tâm thần), sẽ mang lại câu trả lời ở Pháp. Bệnh tâm thần phân liệt, xuất hiện giữa 15 và 20 tuổi, gây nên những ảo giác (hallucination), thường nhất là thính giác, và những ư tưởng mê sảng (idées délirantes), dẫn đến một sự cắt đứt tiếp xúc xă hội (rupture du contact social) và một một sự giảm khả năng xúc cảm (une baisse de l’affect). Theo các nghiên cứu dịch tễ học, “ có một yếu tố di truyền làm dễ (un facteur génétique de prédisposition), mà người ta đă chưa có thể nhận diện được các biến dị ”, BS Andrei Szoke, thuộc bệnh viện Albert-Chenevier (Créteil) và là người đồng phụ trách công tŕnh nghiên cứu, đă giải thích như vậy. Một tính chất dễ bị thương tổn di truyền (vulnérabilité génétique) được biểu hiện trong vài điều kiện môi trường. “ Một đứa trẻ đă lớn lên trong thành phố, sẽ có một nguy cơ hai lần cao hơn phát triển một bệnh tâm thần phân liệt, so với một trẻ của môi trường nông thôn ”, vị thầy thuốc nói tiếp như vậy. Cũng vậy, các dân di tản cũng sẽ bị ảnh hưởng hơn “ có lẽ là do stress gây nên bởi sự đối xử phân biệt ”. Sau cùng, sự tiêu thụ cannabis sẽ nhân lên gấp 2,5 lần nguy cơ xuất hiện của hợp chứng. Có bao nhiêu lư thuyết, có bấy nhiêu công tŕnh muốn kiểm chứng.“ Chúng tôi sẽ so sánh 150 trường hợp mới trong các thành phố của Val-de-Marne và trong một vùng nông thôn của Puy-de-Dome, với 100 trong số các anh hay chị của họ, ở trong cùng một môi trường và một phần của các gène của họ và với 150 người chứng.Tất cả sẽ trả lời những bảng câu hỏi, và một xét nghiệm máu sẽ xác định những yếu tố di truyền hay nhiễm trùng.” Cũng cuộc điều tra sẽ được tiến hành ở Tây ban Nha, ở Ư, Anh và ở Hoà lan, tất cả được tài trợ bởi Liên Hiệp Châu Âu. Mục tiêu cuối cùng ? “ Hiểu biết tốt hơn nguồn gốc của những bệnh lư này, thiết đặt những biện pháp pḥng ngừa và báo động các nhóm dân và những vùng có nguy cơ.” Cac kết quả sẽ có trong 3 năm nữa. (SCIENCES ET AVENIR 8/2010) |
SIDA : CÓ THỂ THẮNG ĐƯỢC DỊCH BỆNH NÀY TỪ NAY ĐẾN 20 NĂM NỮA.
Chúng ta đang ở vào năm 2030.Vẫn không có vaccin, nhưng dịch bệnh sida được trừ diệt. Dưới 40 triệu người, trên một dân số thế giới 7 hay 8 tỷ người, sống với VIH, điều này hơi nhiều hơn năm 2010. Và người ta hầu như không c̣n đếm thêm một nhiễm trùng mới nào nữa : nhiễm trùng (bệnh sida) này đă trở thành một bệnh măn tính và dưới vài chục ngàn người chết mỗi năm. Không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, trận dịch gây chết người nhất trên thế giới sau cùng có vẻ đă bị đánh bại ! Bằng phép diệu kỳ nào ? Một sự thay đổi triệt căn chiến lược pḥng ngừa, trong ṿng 20 năm, đă hoàn toàn làm thay đổi dữ kiện.. V́ chúng ta chưa phải ở vào năm 2030 nên kịch bản này vẫn là giả tưởng. Nhưng có lẽ không phải là phi hiện thực ! V́ một lư do đúng đắn : thập niên 2000 chấm dứt và chưa bao giờ khả năng một coup d’arrêt đối với dịch bệnh lại gần kề đến thế. Bởi v́, từ ba năm qua tất cả đă thay đổi. Ta đang chứng kiến một thay đổi paradigme thật sự. Sự thay đổi này có thể được tóm tắt bằng 4 chữ : TASP (Treatment as prevention), nghĩa là điều trị để pḥng ngừa. Một cách rơ nét, điều trị được theo đuổi bởi những người bị nhiễm trùng có một tác dụng pḥng ngừa chống lại sự lan truyền của VIH…và điều đó mở cửa cho một sự kiểm soát dịch bệnh. Trong khi đó, măi cho đến nay, ta vẫn nghĩ rằng chỉ có sự xuất hiện của một vaccin mới có thể dứt điểm căn bệnh và rằng chiến dịch duy nhất chống lại sự bành trướng của dịch bệnh dựa trên túi dương vật (préservatif). Vậy với TASP, đó là một bài diễn văn được nghe rất mới. Đến độ nhân Hội nghị quốc tế tháng 7vừa qua về bệnh sida, quy tụ khoảng 20.000 chuyên gia ở Vienne, người ta đă chỉ nói về điều đó ! Và nhất là, các chuyên gia dịch tễ học và các thầy thuốc hôm nay không e ngại khi xác nhận rằng : từ nay họ có những phương tiện kỹ thuật để dứt điểm virus bằng cách phối hợp những kỹ thuật pḥng ngừa cổ điển với phương pháp mới của TASP. Theo họ, chỉ c̣n việc thực hiện chúng, với điều kiện là phải vượt qua vài chướng ngại vật, đặc biệt là tài chánh. Cũng như điều thường xảy ra trong khoa học, các tư tưởng mới phải đi qua một chặn đường trong một thời gian nào đó trước khi được công nhận và ư tưởng “ điều trị để pḥng ngừa ” (traitement comme prévention) cũng không ra ngoài quy luật đó. Bởi v́, chính vào đầu năm 2008 mà quan niệm này đă xuất hiện, qua một bài báo được công bố trong một tập sách y học khó hiểu, Le Bulletin des médecins suisses, được công bố bởi một nhóm nhỏ các chuyên gia về VIH, được kính nễ, nhưng không được công chúng biết đến. Thế mà, điều mà bài báo này đưa ra lại hoàn toàn chưa từng có. “ Những người huyết thanh dương tính không bị một bệnh nhiễm trùng bằng đường sinh dục nào khác, nếu theo một điều trị antirétroviral hiệu quả, sẽ không truyền VIH bằng đường sinhdục ”. 3 năm sau, sau khi đă gây nên một cuộc tranh luận kéo dài, cái ng̣i nhỏ được đốt cháy này không ngừng khích động niềm hy vọng : ngày nay, tất cả các chuyên gia trên thế giới đều nhất trí về sự khẩn trương xem xét lại những chiến lược chống lại bệnh sida dưới ánh sáng của TASP. Phải nói rằng các con số thật hùng hồn. “ Nguy cơ lây truyền tùy thuộc vào lượng virus (charge virale) lưu hành trong cơ thể. Các ARV (antirétroviraux), bởi v́ chúng kiểm soát sự tăng sinh (réplication) của virus đến độ làm cho charge virale không c̣n có thể phát hiện được, sẽ làm giảm một cách đáng kể nguy cơ lây truyền. Trong các kết quả của một công tŕnh nghiên cứu mới đây, sự điều trị gây nên một sự thu giảm 92% nguy cơ lây truyền trong các cặp huyết thanh khác nhau (couple sérodifférent). Một mức độ hiệu quả tương tự với mức độ hiệu quả khi dùng bao dương vật (préservatif) ! ”, Willy Rozenbaum, thầy thuốc chuyên bệnh truyền nhiễm thuộc bệnh viện Saint-Louis (Paris) và chủ tịch của Conseil national du sida đă mô tả như vậy. Hội đồng này, vào tháng tư năm 2009, đă công bố một ư kiến thuận lợi đối với việc sử dụng những điều trị như là một công cụ “doi mới ”. Như thế chiến lược mới nhằm điều trị một số lượng rất lớn những người bị nhiễm trùng để làm giảm lượng virus lưu hành trong cộng đồng, cũng được gọi là “charge virale communitaire” và do đó hạn chế, thậm chí dập tắt hoàn toàn những lây nhiễm mới. Bernard Hirschel, thành viên của nhóm Thụy Sĩ nổi tiếng này, nói thêm : “ Vào năm 1996, việc đưa những thuốc antirétroviraux vào điều trị trùng hợp với một sự hạ những lây nhiễm mới. Nếu không có những điều trị này, sẽ có 50 đến 100% các lây nhiễm nhiều hơn trên thế giới vào năm 2000 ”. Theo ông ta, sự bành trướng của điều trị bởi những thuốc antirétroviraux và tính hiệu quả gia tăng của nó như thế đă làm giảm số những người có khả năng gây lây nhiễm. Và điều này, mặc dầu khoảng chỉ 5 triệu người bị nhiễm trùng trên 33 triệu người trên thế giới thật sự được hưởng điều trị bởi các thuốc antirétroviraux. |
SỰ CẦN THIẾT PHÁT HIỆN NHANH VÀ TỐT.
Và đúng như vậy : để thật sự có hiệu quả, chiến lược TASP phải liên hệ đến tối đa những người bị nhiễm trùng. Điều này hàm ư phải phát hiện họ ! Điều đó xảy ra đúng lúc : những công cụ phát hiện mới hiện có sẵn. Đặc biệt, những trắc nghiệm nhanh cho những kết quả trong không đầy 30 phút. Một trong những xét nghiệm mới nhất, được trắc nghiệm từ một năm nay trong nhiều khoa cấp cứu, cho phép ngay cả thu được một kết quả đáng tin cậy trong một phút ! Tuy nhiên một bémol nhỏ, những xét nghiệm nhanh này chỉ phát hiện những kháng thể xuất hiện trung b́nh 3 tuần sau khi bị lây nhiễm, chứ không phải những kháng nguyên p24, chúng mới thể hiện sự hiện diện của virus ngay vào tuần lễ thứ hai. Thế mà, chính trong thời kỳ nhiễm trùng sơ cấp (primo-infection) này, ngay tuần lễ thứ hai và cho đến tuần lễ thứ tám, trong đó VIH, lợi dụng sự vắng mặt của đáp ứng miễn dịch, đă tăng sinh một cách dễ dàng nhất và do đó nguy cơ lây truyền cao nhất. Trong khi người ta nói chung c̣n không hay biết t́nh trạng huyết thanh của ḿnh... “ Người ta nghĩ rằng trung b́nh, chỉ riêng thời kỳ ngắn ngủi này chịu trách nhiệm 30% các lây nhiễm ”, Geoffrey Garnett, thuộc Imperial College (Luân Đôn) đă đánh giá như vậy. Một con số, theo nhiều công tŕnh nghiên cứu, sẽ lên hơn 50% trong những nhóm người có dịch bệnh rất năng động : nơi những người đồng tính luyến ái hay trong vài nước Châu Phi dưới Sahara, nơi đây tỷ lệ những người trưởng thành bị nhiễm trùng (tỷ lệ lưu hành) xoay quanh 20 đến 25%. “ Các pḥng thí nghiệm do đó làm việc cật lực để chế tạo những xét nghiệm nhanh hiệu năng hơn trong việc phát hiện các primo-infection, François Simon, giám đốc của pḥng xét nghiệm virus học thuộc bệnh viện Saint-Louis đă giải thích như vậy. Và những xét nghiệm này sẽ được thương măi hóa trong những năm rất gần đây ”. Cuối cùng, việc xuất hiện những phương pháp phát hiện mới này hẳn cho phép phổ cập chiến lược “ trắc nghiệm và điều trị ” (test and treat). Đó là một sự phát hiện được đề nghị một cách hệ thống và những điều trị được cấp càng sớm chừng nào tốt chừng đó cho một số tối đa những người bị nhiễm trùng. Theo Tổ chức y tế thế giới, chiến lược “ phát hiện và điều trị ” này làm giảm rất tích cực số những lây nhiễm mới, thậm chí làm chúng biến mất hoàn toàn. ĐIỀU TRỊ NGAY CẢ NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BỊ NHIỄM TRÙNG ! Vâng, nhưng việc phổ cập các điều trị này liệu thật sự có thể dự kiến khi chúng có tiếng là nặng nề về mặt các tác dụng phụ (bệnh thần kinh, các rối loạn phân bố mỡ) ? Đừng quên là “ từ 3 hay 4 năm nay, những điều trị antirétroviraux đă trở nên đơn giản hơn, hiệu quả hơn và, nhất là, chúng được dung nạp tốt hơn nhiều, chuyên gia virus học Christine Rouziuox đă nhấn mạnh như vậy. Vậy không những có lợi ích tập thể mà c̣n cả cá nhân khi được điều trị rất sớm ”. Trong những nước phát triển, những điều trị mới này đă có sẵn, đó là liệu pháp đầu tiên ba thứ thuốc trong một viên thuốc mỗi ngày, Atripla, được thương măi hóa từ năm 2009 ở Pháp. C̣n hơn thế, chất lượng của các điều trị được cải thiện đến độ một ư nghĩ cách mạng đang nảy mầm nơi các chuyên gia về bệnh sida : không những chỉ cho những thuốc điều trị này cho những người bị lây nhiễm, mà cũng cho chúng nơi những người không bị nhiễm trùng nhưng có nguy cơ bị lây nhiễm nhằm tránh cho họ khỏi bị nhiễm trùng ! Ở đây, các antirétroviraux trở nên những “ boucliers anti-contamination ” (khiên chống lây nhiễm). Chỉ cần uống chúng dưới dạng viên hay sử dụng chúng qua một gel đặt tại chỗ. Gel này ngày nay là phương pháp tiên tiến nhất. Với sự loan báo tác dụng bảo vệ một phần bằng một gel được đặt trong âm đạo, vào tháng 7 vừa qua, sau hơn 15 năm nghiên cứu không có kết quả. Sản phẩm chứa một antirétroviral, ténofovir, và phải được đặt, tối đa 12 giờ trước đó, rồi 12 giờ sau khi giao hợp. “ Tỷ lệ bảo vệ trung b́nh là 39%, nhưng tỷ lệ này lên đến 54% khi gel được sử dụng : hơn 8 trên 10 ”, những tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu, Quarrhaisha và Salim Abdool, thuộc Centre pour le programme de recherche sida ở Nam Phi, đă giải thích như vậy. Tuy nhiên, trước khi được đưa ra cho dân chúng sử dụng, gel sẽ phải được cải thiện, nhất là bằng cách làm gia tăng nồng độ antirétroviral được sử dụng (ở đây 1%) hay bằng cách sử dụng một coctail các thứ thuốc. Một sự cải thiện khả đĩ khác nhằm sử dụng các “ ṿng khuếch tán ” (anneaux diffusants), mà sự thương măi hóa được dự kiến vào năm 2015. Những ṿng này sử dụng một antirétroviral thí nghiệm, dapivitrine, và ưu điểm của chúng là một khi được đặt trong một tháng, chúng sẽ tránh việc quên thuốc. Về viên thuốc uống mỗi ngày để tránh nhiễm trùng, hay chiến lược “Prep” (prophylaxie pré-exposition : dự pḥng trước khi bị tiếp xúc với virus bệnh Sida), những kết quả đầu tiên hiện có là những kết quả của thử nghiệm quốc tế iPrex. Trong thực tiễn ? Những người có nguy cơ cao tiếp xúc với VIH, nhưng không bị lây nhiễm, uống mỗi ngày một viên thuốc Truvada, phối hợp ténofovir và một thuốc antirétroviral thông thường khác, emtricitabine. Thử nghiệm được thực hiện trên 3000 người đồng tính luyến ái, ở Brésil, ở Equateur, ở Pérou, ở Nam Phi, ở Thái lan và ở Hoa Kỳ. Những phân tích đầu tiên là đáng phấn khởi, với một khả năng bảo vệ gần 40 đến 60%. Vấn đề c̣n lại là phải làm rơi hàng rào ngăn cản về mặt tâm lư trước khi có thể thấy những người huyết thanh âm tính chấp nhận dùng các antirétroviral như aspirine hay thuốc ngừa thai. Bằng một cách nào đó hàng rào tâm lư này có thể vượt qua nhờ ư tưởng một Prep orale “ đoạn hồi ” (prophylaxie intermittente : uống thuốc pḥng bệnh không phải mỗi ngày mà chỉ vào lúc cần đến), được phát triển bởi vài nhà nghiên cứu. Hoặc uống một viên thuốc vào lúc các giao hợp, ngay trước và ngay sau đó. Jean-Michel Molina, trưởng khoa các bệnh truyền nhiễm của bệnh viện Saint-Louis, Paris, đang chuẩn bị một thử nghiệm sẽ bao gồm nhiều trăm người đồng tính luyến ái nam người Pháp và người Québec. “ Prep đoạn hồi tương ứng tốt hơn với các nhu cầu của người ta, nó có thể làm dễ sự tuân thủ điều trị, được dung nạp c̣n tốt hơn và có một phí tổn thấp. Thử nghiệm sẽ được bắt đầu chẳng bao lâu nữa. ” |
MỘT KỶ NGUYÊN MỚI TRONG ĐẤU TRANH CHỒNG BỆNH SIDA ”
Tất cả những chiến lược này phải chăng một ngày nào đó sẽ được áp dụng khắp nơi trên thế giới ? Vâng, “ có thể bảo đảm một sự tiếp cận điều trị bệnh sida cho toàn thể trong các nước có lợi tức thấp hay trung gian ”, theo báo cáo hàng năm mới đây của Tổ chức y tế thế giới, của Onusida và của Unicef, được công bố ngày 28 tháng 9 vừa qua. 8 nước (Botswana, Cambodge, Croatie, Cuba, Guyanan, Oman, Roumanie và Rwanda), đă đạt được sự tiếp cận điều trị cho toàn thể dân chúng, trong khi 21 nước khác tiến gần đến khả năng này, với một tỷ lệ bảo vệ đi từ 50% đến 80%. Sự gia tăng mạnh nhất được ghi nhận đối với Châu Phi dưới Sahara, với gần 1 triệu bệnh nhân bổ sung được điều trị trong một năm, hoặc một sự gia tăng 1/3. Ngoài ra, một trong những cách lan truyền của VIH hầu như được loại bỏ : sự truyền virus VIH từ mẹ sang con, nhờ điều trị người mẹ. Trong những nước mà sự pḥng ngừa này đă được thực thi, tỷ lệ trẻ em huyết thanh dương tính được làm giảm xuống chỉ c̣n 1%. Đối với chủ tịch của hiệp hội Aides, Bruno Spire, “ ta có tất cả các phương tiện để làm ngừng dịch bệnh. Cách nay 10 năm, không ai nghĩ được rằng việc cho phép tiếp cận với điều trị ở các nước Phương Nam là có thể dự kiến được. Thế mà từ nay, hon 5 triệu người nhận được điều trị antirétroviral này. ” Đối với Michell Warren, giám đốc của Liên minh thế giới pḥng ngừa VIH, chúng ta “ đang dứt khoát ở trong một kỷ nguyên mới chống lại bệnh sida ”. Dịch bệnh sẽ chấm dứt trong 20 năm nữa ? Tất cả chỉ c̣n là một vấn đề ư chí chính trị và tài chánh. Điều này không phải là không có nghĩa ǵ. (SCIENCE ET VIE 12/2010) |
THÔNG TIN Y HỌC VỀ BỆNH THOÁI HÓA HOÀNG ĐIỂM DO TUỔI TÁC
(AGE-RELATED MACULAR DEGENERATION (AMD) ) Lynn Ly Tổng Hợp Thông Tin Về Bệnh Thoái Hóa Hoàng Điểm do Tuổi Tác (Age-Related Macular Degeneration (AMD) ) 1/ CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC DƯỢC PHẨM CHỐNG MÙ L̉A 2 dược phẩm tương tự nhau có tác dụng cải thiện thị lực trong bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA=dégénérescence maculaire liée à l’age). AVASTIN giá 30 euros mỗi liều. LUCENTIS (thuốc duy nhất được cho phép sử dụng) giá 1200 Euro mỗi liều. Các nhà nhăn khoa trên toàn thế giới đang đương đầu với một nghịch lư khó tin,đặt ra những vấn để về đạo đức,kinh tế,khoa học trong điều trị bệnh thoái hoá điểm vàng do tuổi tác này. Hăng bào chế Novartis đă sáng chế một dược phẩm, LUCENTIS,được phép lưu hành ở Pháp từ tháng giêng vừa qua.Thuốc này có khả năng cải thiện thị lực nơi những người bi bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác dạng « ướt »(forme « humide »).Thuốc giá 1200 Euros mỗi liều, cứ mỗi 6 tuần tiêm thuốc vào trong nhăn cầu một lần.AVASTIN ,một dược phẩm của hăng bào chế Roche,lúc đầu được sử dụng cho ung thư đại tràng và được các y sĩ Hoa Kỳ thử nghiệm trong bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác và thuốc được nhận thấy có cùng hiệu quả trong điều trị DMLA lúc được tiêm vào trong nhăn cầu.Từ vài tháng nay Avastin đă được sử dụng rất rộng răi bởi các nhà nhăn khoa trên toàn thế giới để điều trị bệnh thoái hoá điểm vàng,với giá 30 Euros mỗi liều mặc dầu thuốc không được giấy phép lưu hành để điều trị bệnh này và có thể sẽ không bao giờ được phép cả. Phải chăng là đạo đức khi phải kê toa một thuốc rất tốn kém trong khi đă có sẵn một thuốc khác 40 lần giá rẽ hơn nhưng lại không được cho phép lưu hành? Phải chăng là đúng luật khi phải cấp một thuốc giá rẻ nhưng không được phép lưu hành trong khi thuốc kia lại được phép bán ra thị trường nhưng giá lại rất mắc ? Ở Pháp, Cơ quan an toàn các sản phẩm y tế vừa nhóm họp một nhóm công tác về chủ đề này, được chủ tŕ bởi giáo sư Bahram Bodaghi (Pitié-Salpetrière, Paris). Ở Hoa Kỳ, Cơ quan quản lư thực phẩm và dược phẩm cũng đă phát động một công trinh nghiên cứu để so sanh 2 dược phẩm này. Ở Pháp,bệnh thoái hoá điểm vàng do tuổi tác gây bệnh cho một triệu người với những mức độ nặng nhẹ khác nhau.Người ta phân biệt hai dạng : dạng teo (forme atrophique) không điều trị được và dạng ướt (forme humide) với đặc điểm tăng sinh các tân huyết quản sau vơng mạc,là nguyên nhân của xuất huyết và mù loà.Dạng này gây bệnh cho 30.000 đến 50.000 người. Để chống lại sự tăng sinh các tấn huyết quản,cách nay vài năm,hai phương pháp điều trị đă được sử dụng để điều trị bệnh DMLA, đặc biệt là bởi nhóm của G.S Gabriel Coscas (Centre Hospitalier intercommunal de Créteil) : photocoagulation các huyết quản bởi laserrồi photothérapie dynamique với Visudyne, cho phép ổn định thị giác hơn . CẤU TRÚC TƯƠNG TỰ : Trong những năm 1990,một nhà nghiên cứu Hoa kỳ Judah Folkman đă đưa ra ư tưởng rằng bằng cách tấn công vào các VEGF(các yếu tố tăng trưởng kích thích các huyết quản),có thể phá hủy sự phân bố mạch (vascularisation) của một khối u và do đó phá hủy ngay chính khối u đó. Khi đó Hăng Bào Chế Genetech hiệu chính các kháng thể chống VEGF và bán 2 bằng sáng chế.Một cho Hăng Roche sản xuất Avastin, một phân tử chống sinh mạch máu (molécule antiangiogénique) chống ung thư ruột già,c̣n bằng kia th́ bán cho Hăng Novartis thương măi hoá cho châu Âu dược phẩm Lucentis, một phân tử chống sinh mạch máu chống DMLA. Cả hai thuốc đều có cấu trúc tương tự. Vào tháng 10 năm 2006,một thử nghiệm trên 500 bệnh nhân được công bố trong New England Journal of Medicine đă kết luận rằng Lucentis,tiêm vào trong nhăn cầu cứ mỗi 6 tuần sẽ ngăn cản sự hủy hoại thị giác và cải thiện thị lực.Năm ngoái thuốc này đă được cho phép sử dụng ở Hoa Kỳ với giá 2000 dollars mỗi liều lượng,rồi ở Châu Âu tháng giêng 2007 với giá 1200 Euro.Một thuốc thứ ba,Macugen (Fitzer),một thuốc chống sinh mạch máu khác xuất hiện trên thị trường Pháp tự 2006 với giá 687 Euro. Cách nay hai năm, một nhà nhăn khoa Hoa Kỳ bị bệnh DMLA đă nhận thấy sự cải thiện rất rơ thị giác của ḿnh sau khi điều trị ung thư trực tràng với Avastin bằng đường tĩnh mạch.Thông tin này được lưu hành mau chóng và Avastin chich vào nhăn cầu tức thời được sử dụng một cách “ hoang dă ” tại Hoa Kỳ trên những bệnh nhân đang bị mất thị giác,vào luc đó Lucentis chưa được lưu hành.Hàng chục nghiên cứu tiền phong thực hiện trên hàng trăm bệnh nhận đă được công bố với những kết quả đáng phấn khởi như đối với Lucentis.. |
SỰ TIÊU THỤ CÁ NGĂN NGỪA VÀI BỆNH MÙ L̉A.
Những người tiêu thụ các oméga-3 sẽ giảm nguy cơ bị thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge) Ở Pháp, sự thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác gây bệnh, ở những mức độ khác nhau, cho hơn 500.000 người. Sự thoái hóa của vùng trung tâm vơng mạc này được thể hiện bởi một sự giảm thị lực trung tâm, có thể dẫn đến mù ḷa sau nhiều năm tiến triển. Mặc dầu các nguyên nhân của căn bệnh nghiêm trọng và thường xảy ra này vẫn không được biết đến, nhưng rơ ràng rằng một vài yếu tố làm dễ căn bệnh này như tuổi tác và thuốc lá. Sự tiếp xúc quá mức với ánh sáng cũng được cho là có liên hệ, nhưng không có chứng cớ tuyệt đối. Vậy người ta có thể bảo vệ chống lại căn bệnh này hay không ? Các nhà nghiên cứu Úc đại lợi vừa khảo sát vấn đề này, và kết luận trong một công tŕnh nghiên cứu được công bố tuần này trong Archives of Ophtalmology, rằng những người có một chế độ ăn uống giàu cá hay ăn bổ sung những thức ăn có oméga 3 sẽ có một nguy cơ bị DMLA ít hơn. Các oméga-3 là những chuỗi acide béo không bảo hoà mà người ta t́m thấy nhiều nhất trong cá mỡ : cá hồi (saumon), cá thu (maquereau), cá trích (hareng)…, trong cây cai dầu (colza), các quả hồ đào. Vào đầu những năm 1990, các chất mỡ này được gán cho nhiều tác dụng tốt, không phân biệt đúng hay giả. Mặc dầu nhiều nghiên cứu đă phát hiện một nguy cơ bị tai biến tim mạch ít hơn nơi những người tiêu thụ nhiều cá, nhưng những thử nghiệm pḥng ngừa cơn đau tim bằng oméga-3 đă hơi gây thất vọng hơn. Chính trong bối cảnh này mà các thầy thuốc Úc đại lợi ở Melbourne đă quyết định xem xét một cách hoàn toàn, mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu cá hay oméga-3 và nguy cơ bị bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA). Để thực hiện điều này, họ đă xem lại 9 công cuộc điều tra được công bố trong 20 năm qua về chủ đề này, và đă sưu tập thành một phân tích méta trên 88.974 người. Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu này chứng tỏ rằng những người tiêu thụ nhiều oméga-3 nhất, dầu đó là cá hay các bổ sung thực phẩm, có 38% nguy cơ bị một thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (DMLA) ít hơn, so sánh với những người tiêu thụ ít nhất. Như vậy, sự việc ăn cá hai lần mỗi tuần liên kết với một nguy cơ bị DMLA thấp hơn. CẦN NHỮNG THỬ NGHIỆM ĐIỀU TRỊ “Phân tích của chúng tôi gợi ư rằng sự tiêu thụ cá và các thức ăn giàu oméga-3 được liên kết với một nguy cơ bị DMLA ít hơn”, các tác giả của công tŕnh nghiên cứu đă kết luận như vậy. Như vậy có phải ăn cá hay dùng oméga-3, ngay cả khi chúng ta vẫn khỏe mạnh, để ngăn ngừa hoặc kềm hăm sự thoái hóa này hay không? Các tác giả tỏ ra thận trọng không muốn bước thêm bước nữa, đánh giá rằng trước khi có những khuyến nghị chính thức, th́ bây giờ phải thực hiện, không phải là những điều tra quan sát như đă làm cho từ trước cho đến nay, mà phải thực hiện những thử nghiệm điều trị quy mô lớn. Các thử nghiệm này nhằm so sánh tiến triển của thị lực của những người dùng oméga-3 so với những người không dùng chất bổ sung này. Bằng cách nào các oméga-3 làm giảm nguy cơ bị DMLA? Theo Elaine Chong, tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu, các acides béo này là một thành phần sinh tử của vơng mạc và một sự thiếu hụt có thể sẽ đóng một vai tṛ trong việc gây ra bệnh này. Cũng phải biết rằng vào tháng 2 năm 2008, các thầy thuốc Úc Đại Lợi của đại học Sidney đă chứng tỏ rằng những người bị DMLA cũng có một nguy cơ tim mạch gia tăng. Điều này khiến các nhà nghiên cứu nghĩ rằng cùng những yếu tố ảnh hưởng lên tim (huyết áp cao, cholestérol máu cao, nghiện thuốc lá...) cũng gây thương tổn ở mắt và có liên hệ trong sự phát sinh bệnh DMLA. Như thế, tác dụng thuận lợi do oméga-3 lên tim cũng có thể được giải thích ở mắt. Hiện nay, đó chỉ là một giả thuyết.Trong tất cả mọi trường hợp, không ǵ có thể ngăn cản chúng ta ăn cá hai lần mỗi tuần, hoặc nhiều hơn nếu trái tim của chúng ta muốn như vậy, ngoại trừ các phụ nữ có thai. (LE FIGARO 11/6/2008) |
VITAMIN B CÓ THỂ LÀM HẠ THẤP NGUY CƠ BỊ BỆNH MẮT
Cho vitamin B bổ sung có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh thoái hóa hoàng điểm do tuổi tác (age-related macular degeneration), ít nhất nơi các phụ nữ bị bệnh tim mạch hay có nguy cơ bị bệnh này. thoái hóa hoàng điểm, một bệnh phá hủy vùng trung tâm của vơng mạc, là nguyên nhân dẫn đầu của sự mất thị giác nghiêm trọng nơi những người trên 50 tuổi. Trong một công tŕnh nghiên cứu, được công bố ngày 23/2 trong The Archive of Internal Medicine American, các nhà nghiên cứu đă theo dơi 5.205 người phụ nữ hoạt động trong ngành y tế, có bệnh tim mạch hay 3 hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ tim mạch. Các phụ nữ này được chia thành hai nhóm : nhóm nhận một placebo và một nhóm nhận một phối hợp acide folique và các vitamine B6 và B12. Sau một thời gian theo dơi trung b́nh 7,3 năm, các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng những phụ nữ uống vitamin B có nguy cơ bị thoái hóa hoàng điểm mức độ quan trọng được thu giảm. Điều này có thể là do các vitamins B làm giảm nồng độ homocysteine (một acide aminé) trong máu ; chất này có can dự trong sự mất thị giác. Những tác giả lănh đạo công tŕnh, B.S William G.Christen, một phó giáo sư y khoa của Havard, đă từ chối khuyến nghị sử dụng vitamin B. Ông nói cần phải có những công tŕnh nghiên cứu khác nữa. (INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 5/3/2009) |
CÁ, HỒ ĐÀO VÀ OLIVE CHỐNG BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC (DMLA).
Việc ǵn giữ một thị giác tốt cũng có thể phụ thuộc vào chế độ ăn uống. Trong les Archives d’Ophtalmologie, một tạp chí của Hoa Kỳ, được công bố hôm nay, các thầy thuốc người Úc của đại hoc Sidney cho thấy rằng một chế độ ăn uống giàu hồ đào (noix), cá hay dầu olive, làm giảm nguy cơ bị thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge). Hiện nay, ở Pháp, sự biến đổi thị giác trung tâm này cùa vơng mạc tác động lên 500.000 người, ở những mức độ khác nhau. Ngược lại, những axít béo được gọi là trans (những chất béo thực vật được bảo ḥa bởi một phương thức công nghiệp để cải thiện sự tiêu thụ chúng) có một tác dụng có hại lên thị giác. Hiện nay, ở Pháp cũng như trong những nước kỹ nghệ hóa khác, DMLA là nguyên nhân chính của thị lực kém (malvoyance) nơi những người trên 65 tuổi. Những yếu tố nguy cơ dĩ nhiên là tuổi tác, cũng như tố bẩm di truyền (prédisposition génétique) và hút thuốc lá. Để đánh giá mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và DMLA, các nhà nghiên cứu người Úc đă quan tâm đến chế độ ăn uống, và đặc biệt là sự tiêu thụ mỡ, của 2454 người tuổi hơn 65, từ năm 1992 đến 1994 và đă chụp h́nh vơng mạc. 10 năm sau, các kết quả cho thấy rằng những người ăn cá, ít nhất một lần mỗi tuần (nhưng cũng ăn hồ đào và dầu olive) có tỷ lệ bị DMLA 30% thấp hơn. Sự tiêu thụ càng quan trọng th́ nguy cơ càng ít cao. Một công tŕnh nghiên cứu thứ hai, được công bố trong cùng tạp chí, đă kết luận rằng một sự tiêu thụ quá mức axít trans (hiện diện trong viennoiserie công nghiệp, biscuit và vài món ăn tiền chế khác) làm gia tăng nguy cơ bị DMLA. Những công tŕnh nghiên cứu này, nếu được xác nhận, chứng tỏ một cách rơ ràng một mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và sự biến đổi vơng mạc do bệnh DMLA. (LE FIGARO 12/5/2009) |
ACIDE FOLIQUE VÀ VITAMINE B VÀ SỰ THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG.
Cho bổ sung hàng ngày acide folique, pyridoxine và cyanocobalamine có thể làm giảm nguy cơ bị thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégérérescence maculaire liée à l’âge). Ngoài việc ngưng thuốc lá, người thầy thuốc đến nay ít có lời khuyên để cho bệnh nhân nhằm ngăn ngừa chứng thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA). Những dữ kiện dịch tễ học đă cho thấy một mối liên hệ trực tiếp giữa những nồng độ homocystéine và nguy cơ bị DMLA, tuy nhiên không chứng minh được rằng sự giảm của nồng độ của homocystéine có thể có một tác dụng thuận lợi. William G. Christen và các cộng sự viên (Brigham và Women’s Hospital, Boston) đă thực hiện, về chủ đề này, một công tŕnh nghiên cứu nơi những phụ nữ có nguy cơ tim mạch cao. 5.205 người tham dự, có tuổi 45 hoặc hơn, và bị một bệnh tim mạch vốn đă có trước đây hay mang hai hoặc ba yếu tố nguy cơ. Sự theo dơi đă kéo dài 7,3 năm. Trong suốt thời kỳ này, 55 trường hợp DMLA đă được chẩn đoán trong nhóm can thiệp (nhận các vitamine), so với 82 trong nhóm placebo. Vậy, việc sử dụng những chất bổ sung dường như mang lại một bảo vệ chống lại sự xuất hiện của căn bệnh có liên quan với tuổi tác này. Tuy nhiên, người ta chưa thể xác nhận rằng khả năng bảo vệ này đúng là do sự hạ của các nồng độ homocystéine. (LE GENERALISTE 16/4/2009) |
BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG : 3 GENES LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH.
Tiến bộ lớn và mới nhất trong bệnh thoái hóa điểm vàng liên quan với tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge) là khám phá 3 gène có liên quan trong sự xuất hiện của bệnh này. “ Bây giờ chúng ta biết được vai tṛ quan trọng của tố bẩm di truyền (prédisposition génétique), GS José-Alain Sahel đă xác nhận như vậy. Từ nay đến vài năm nữa, bằng một xét nghiệm máu ta sẽ có thể xác định một nguy cơ gia tăng, thiết đặt một sự theo dơi sớm và một biện pháp pḥng ngừa bằng những quy tắc chế độ ăn uống. Nhất là, sự giáo dục bệnh nhân có nguy cơ sẽ tạo khả năng điều trị rất sớm ! ”. Bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA) khởi đầu bằng một sự tích tụ các mảnh và những tế bào chết trong các cơ quan nhận cảm ánh sáng (photorécepteurs) của vơng mạc và các mô nâng đỡ. Vào một giai đoạn tiến triển, sự đổi mới của những cơ quan cảm thụ ánh sáng không c̣n thực hiện được nữa và bệnh nhân mất thị giác trung ương (vision centrale). Ở Pháp, đó là một vấn đề y tế công cộng thật sự : 1,5 triệu người bị bệnh này và hơn 200.000 người bị tật nguyền nặng. Điều đáng sợ nhất của các bệnh nhân là t́nh trạng phụ thuộc (dépendance), bởi v́ DMLA có thể xảy ra cả hai bên mắt. “ Chúng tôi trấn an các bệnh nhân của chúng tôi bằng cách nói với họ rằng họ sẽ luôn luôn vẫn c̣n thị giác ngoại biên (vision périphérique), mặc dầu trung tâm của vơng mạc bị thương tổn, và rằng họ sẽ phải học sử dụng thị giác ngoại biên này để bù trừ phần nào phế tật ”, GS José-Alain Sahel đă giải thích như thế. Có hai dạng tiến triển : dạng ướt (forme humide), có thể xảy ra rất đột ngột, được đặc trưng bởi sự tạo thành những mạch máu mới (néovaisseaux), và dạng khô (forme sèche), trong đó những cơ quan nhận cảm ánh sáng bị teo di và biến mất dần dần. “ Tần số mắc bệnh trung b́nh là 1% vào lúc 55 tuổi, 10% vào lúc 65 tuổi, 25% vào lúc 75 tuổi và 60% vào lúc 90 tuổi, GS José-Alain Sahel đă xác nhận như vậy. Với sự kéo dài tuổi thọ, người ta dự kiến tăng gấp đôi những con số này vào năm 2050. ” Những triệu chứng đầu tiên được biểu hiện bởi những vấn đề thích nghi đối với sự thay đổi ánh sáng. Hai dấu hiệu phải khiến đi thăm khám càng sớm càng tốt : một vết cố định (une tache fixe), ổn định trong thị trường, hay một sự biến dạng các h́nh ảnh. MỘT THĂM KHÁM VƠNG MẠC, TỪNG TẾ BAO MỘT Ở Quize-Vingts, nhóm của GS Sahel thuộc một trong những nhóm có hiệu năng nhất trong lănh vực chẩn đoán DMLA : “ Từ tháng giêng năm 2009, chúng tôi sử dụng một kỹ thuật thiên văn (technique d’astronomie) cho phép nh́n thấy từng tế bào nhận cảm ánh sáng (cellule photoréceptrice) của vơng mạc.Nhờ kỹ thuật này và nhờ những tiến bộ của các hệ thống như chụp lớp quang học (tomographie optique), các chuyên gia chẳng bao lâu nữa sẽ có thể quyết định điều trị theo các tiêu chuẩn khách quan và rất là chính xác. Những tiêu chuẩn này cũng sẽ cho phép họ đánh giá tính hiệu quả của điều trị với một chất lượng chưa từng có. Hăy tưởng tượng xem các thầy thuốc ngoại thần kinh sẽ hạnh phúc biết bao nếu họ có thể quan sát từng tế bào thần kinh một ! ”. Trước giai đoạn đặc biệt này, các kỹ thuật chẩn đoán đă hưởng rộng răi các tiến bộ công nghệ học. Thí dụ từ 3 năm qua, các bệnh nhân có thể được phát hiện nhờ các h́nh chụp đơn giản của đáy mắt. ĐIỀU TRỊ DẠNG ƯỚT (FORME HUMIDE) : MỘT SỰ CẢI THIỆN NGOẠN MỤC. Một giai đoạn quan trọng đă được vượt qua trong những năm qua với sự xuất hiện của các anti-VEGF, các tác nhân chống sinh mạch (antiangiogénique), ngăn cản sự tạo thành các huyết quản mới trong vơng mạc và giới hạn sự phù nề. Các loại thuốc này (mà đầu đàn là ranibizumab) là rất có hiệu quả khi chúng được tiêm sớm vào trong mắt mỗi tháng. “ Trong 90% các trường hợp, ta quan sát thấy một sự ổn định của căn bệnh, và trong hơn 10%, một sự cải thiện nhỏ, GS Sahel đă xác nhận như vậy. Kỹ thuật này đă là có tính cách mạng bởi v́, trước đây, với các kỹ thuật bằng laser và quang động (techniques au laser et photodynamiques), chỉ dưới 20% các bệnh nhân được ổn định mà thôi. Những bệnh nhân khác đánh mất thị giác trung ương. Không c̣n có thể đọc cũng như nhận diện các gương mặt nữa, bị cản trở không thể đi ra đường, họ chịu một phế tật khủng khiếp ! Sự thay đổi tiên lượng này tuyệt vời.” Những nghiên cứu đang được tiến hành để cải thiện thêm nữa chất lượng của các bệnh nhân : người ta đang nghiên cứu chế tạo các loại thuốc giọt có tác dụng kéo dài (được sử dụng mỗi 6 tháng). NHỮNG THỬ NGHIỆM ĐÁNG PHẤN KHỞI ĐỐI VỚI DẠNG KHÔ. “ Tiến bộ lớn, GS Sahel đă giải thích như vậy, có liên quan đến các giai đoạn sớm mà ta có thể làm chậm tiến triển của bệnh lại nhờ một cocktail các chất chống oxy hóa (oxydants), làm tăng cường sự hóa sắc tố của vơng mạc. Nhưng các nghiên cứu đang tiến triển : các nhóm nghiên cứu, trong đó có nhóm của chúng tôi, đang trắc nghiệm hai loại thuốc mới. Một vài loại thuốc nhằm giới hạn sự tích tụ của các chất đọng (dépôts) trong vơng mạc (kháng vitamine A), những chất khác phong bế phản ứng viêm (các chất điều biến của các complément). Những thử nghiệm này, ở giai đoạn 2, là đáng phấn khởi. Sẽ c̣n phải chờ đợi những kết quả của giai đoạn 3 rồi mới phát biểu được.” Đối với những người mà bệnh ở một giai đoạn tiến triển và rất bị trở ngại do mất thị giác trung ương, chúng tôi phát triển société Essilor des lunettes mang các caméra nhỏ xíu cho phép lúc nh́n chiếu các h́nh ảnh được phóng đại trong những vùng ngoại biên mà bệnh nhân c̣n thấy được. Những prototype đầu tiên đă gần như sẵn sàng. Các trung tâm cải tạo đă được thành lập để dạy cho những bệnh nhân phế tật sử dụng tốt hơn đôi mắt của họ. Ở Viện thị giác, chúng tôi đang hiệu chính đủ loại công nghệ học nhằm cải thiện chất lượng sống, ví dụ một GPS sẽ chỉ rơ rất chính xác cho người sử dụng vị trí, môi trường của ḿnh. (PARIS MATCH 5/1-1/1/2009). |
BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC : NHỮNG PHƯƠNG TIỆN PH̉NG NGỪA BỆNH.
Tất cả chúng ta không b́nh đằng trước bệnh bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge). Một vài người có nguy cơ hơn phát triển bệnh này v́ có những yếu tố tố bẩm (facteurs de prédisposition). Kiến thức chỉ có lợi ích nếu ta có thể tác động ở thượng nguồn và đây chính là trường hợp như vậy. Có các gène tố bẩm của bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA), trong đó gène thứ ba vừa được nhận diện ở CHU de Créteil, và vài gia đ́nh có nhiều thành viên bị bệnh. Có một người anh/em hay chị/em bị bệnh, nhân gấp 4 lần nguy cơ, một ngày nào đó, bị bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác này. Tuy vậy, sự phát triển các trắc nghiệm di truyền (test génétique) không là một ưu tiên, bởi v́ các thầy thuốc nhăn khoa đă biết rằng một người sẽ có nguy cơ mắc phải bệnh DMLA, nếu người này có những tiền sử gia đ́nh, một con mắt đầu tiên bị bệnh, nếu người này hút thuốc (nguy cơ được nhân lên gấp 4), nếu béo ph́ (nguy cơ nhân lên gấp đôi), hay lại nữa, nếu thăm khám đáy mắt vào lúc 55 tuổi đă cho phép phát hiện sự hiện diện của những dấu hiệu báo trước. “ Như vậy, một hoàng điểm (macula) hoàn toàn b́nh thường ở lứa tuổi này được thể hiện bởi một nguy cơ rất thấp (0,5%) phát triển một DMLA trong 5 năm đến, trong khi nếu hoàng điểm đă có những dấu hiệu báo trước, nguy cơ sẽ chuyển lên 50% sau 5 năm và ngay cả 75% sau 10 năm, GS Souied đă xác nhận như vậy. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG. Khi người ta có một profil nguy cơ, điều đó không muốn nói rằng nhất thiết là ta sẽ phát triển bệnh. Nhưng ta có thể làm giảm nguy cơ này nhờ những biện pháp pḥng ngừa, bắt đầu bằng chào vĩnh biệt thuốc lá và sự làm mất các kilo bị dư thừa. “ Chế độ ăn uống của chúng ta cũng có ảnh hưởng nhiều. Như là một công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng vài chất chống oxy hóa làm giảm 25% xác suất, đối với những người có nguy cơ cao, phát triển một DMLA trong 5 năm. Một ảnh hưởng không phải là nhỏ ”, BS Benzacken đă nhận xét như vậy. Đó chủ yếu là lutéine và zéaxanthine, hai caroténoide tập trung ở vơng mạc để bảo vệ nó. Để có kết quả tốt, ta phải có 6mg mỗi ngày. Các nhu cầu hàng ngày của chúng ta có thể được đảm bảo bằng cách tiêu thụ 5 suất trái cây và rau xanh, nhưng với điều kiện lựa chọn chúng trong số những trái cây và rau xanh chứa nhiều các chất này nhất : các rau xanh có lá xanh đậm, chou hay épinard, nhưng cũng brocolis, các petits pois, các poivrons màu da cam, bắp, kiwis hay nho. Chất dinh dưỡng khác hữu ích : các axít béo oméga 3, rất có can dự trong sự vận hành chức năng tốt của các tế bào của vơng mạc. Người ta t́m thấy chúng trong các loài cá béo của những vùng biển lạnh : saumon, sardine, maquereaux, harengs. “ Tiêu thụ những con cá này 3 đến 4 lần mỗi tuần có thể làm giảm 1/3 nguy cơ bị DMLA ”, BS Benzacken đă nhấn mạnh như vậy. Sau cùng, các chất chống oxy hóa (vitamine C, E, kẽm) cũng là những ứng viên tốt bởi v́ chúng ngăn cản những phản ứng oxy hóa dẫn đến sự lăo hóa sớm của những tế bào của vơng mạc. Thế có nên sử dụng tất cả bằng cấp bổ sung ? Một câu hỏi hay. Một cơng tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành, nhưng kết quả sẽ chỉ được biết trong vài năm. (LE FIGARO 8/3/2010) |
SỰ MÙ L̉A : HƯỚNG VỀ NHỮNG ĐIỀU TRỊ MỚI CHỐNG SỰ THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG.
Các loại thuốc dễ sử dụng hơn được dự kiến từ nay đến dưới 5 năm. OPHTALMOLOGIE. Là nguyên nhân dẫn đầu của kém thị lực (malvoyance) của các lăo niên, bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégérérescence maculaire liée à l’âge) gây bệnh cho hơn 1 triệu người Pháp. Và con số này sẽ tăng gấp đôi từ nay đến 2030. Trong căn bệnh này, vùng trung tâm của vơng mạc (macula : hoàng điểm) là nơi của một quá tŕnh viêm, với những phản ứng nối tiếp nhau (réaction en cascade). Có bao nhiêu phân tử khác nhau liên hệ vào trong căn bệnh này, th́ có bấy nhiêu mục tiêu tiềm tàng cho những điều trị của ngày mai. Có thể có hai loại tiến triển. Loại tiến triển đầu tiên dẫn đến một sự phá hủy rất chậm của những tế bào vơng mạc (thể khô của bệnh, thường gặp nhất). Và loại tiến triển thứ hai, dẫn đến sự tăng sinh hỗn loạn của các mạch máu mới (néovaisseaux) (thể ướt), do sự sản xuất của các yếu tố tăng trưởng (VEGF). Khi những tân huyết quản này phát triển ngay trước hoàng điểm, sự đánh mất thị lực trung tâm (vision centrale) có thể xảy ra nhanh chóng. Vậy đó là một cấp cứu nhăn khoa. Vấn đề : DMLA vẫn không có triệu chứng trong một thời gian lâu và khi những triệu chứng điển h́nh của bệnh xuất hiện (các đường thẳng dường như lượn sóng) th́ các tân huyết quản đă thắng thế. “ Chính v́ thế mà người ta khuyên thăm khám thầy thuốc nhăn khoa ngay ở tuổi 50 để thực hiện một thăm khám đáy mắt phát hiện bệnh (un fond’oeil de dépistage), GS Eric Souied (trưởng khoa mắt, CHI Créteil) và BS Laurent Benzacken (trưởng khoa mắt, CHU Aulnay-sous-Bois) đă nhấn mạnh như vậy. Trong trường hợp có những dấu hiệu thương tổn ở hoàng điểm, khám đáy mắt được bổ sung bởi chụp mạch (angiographie) để xem các tân mạch máu có thể xảy ra và nhất là bởi một tomographie par cohérence optique (OCT). Thăm khám này, v́ cho phép thấy tất cả các lớp của vơng mạc, nên có thể phát hiện những thương tổn sớm. Như thế có thể hành động trước khi thị giác bị ảnh hưởng.” Những điều trị hiện nay (anti-VEGF) ức chế sự tiết của các yếu tố tăng trưởng (VEGF) và do đó ức chế sự tăng sinh của các tân mạch máu không được mong muốn. Các thuốc này rất có hiệu quả với điều kiện can thiệp trước khi các tế bào vơng mạc bị chết. Dầu chúng có tính chất cách mạng như thế nào đi nữa, tuy nhiên các anti-VEGF đặt ra hai vấn đề. Một mặt, chúng phải được tiêm vào bên trong nhăn cầu, với một nguy cơ nhiễm trùng nặng nhưng hiếm xảy ra. Và, mặt khác, chúng rất đắc (1290 Euro đối với mũi tiêm Lucentis, thuốc điều trị chuẩn). Thế mà, cần phải tiêm nhiều lần mỗi năm. Để làm giảm phí tổn mà không đánh mất tính hiệu quả, khuynh hướng hiện nay là gia tăng các kiểm tra (một lần mỗi tháng) nhằm chỉ tiêm thuốc khi điều đó tỏ ra cần thiết. Phương thức này đă cho phép làm giảm số các mũi tiêm toàn bộ được thực hiện đồng thời giữ một tính hiệu quả rất tốt của điều trị. Mặt khác, theo yêu cầu của Bộ y tế và Afssaps (Agence française de sécurité sanitaire des produits de santé), nhóm nghiên cứu của GS Souied tham gia vào một công tŕnh nghiên cứu so sánh tính hiệu quả của Avastin với tính hiệu quả của Lucentis. B́nh thường, Avastin là một thuốc để điều trị ung thư đại tràng, nhưng người ta nhận thấy rằng nó cũng cho những kết quả tốt trong DMLA : vả lại, chinh trong lúc điều trị các bệnh nhân bị đồng thời hai bệnh lư này mà các thầy thuốc đă nhận thấy như vậy. Thế mà phí tổn của Avastin chỉ khoảng 30 Euro một mũi tiêm. Tuy nhiên hiện nay Aventis không có được giấy phép bán ra thị trường đối với chỉ định này, v́ vậy công tŕnh nghiên cứu đang được thực hiện mà những kết quả sẽ được biết trong 3 năm nữa. Tất cả đầu tư hiện nay là t́m thêm những loại thuốc khác có khả năng tác dụng ở những mức khác và dễ cho thuốc hơn. Khoảng gần một chục loại thuốc hiện được đưa vào trong các công tŕnh nghiên cứu. Vậy từ nay đến năm 2015, sẽ xuất hiện nhiều loại thuốc, trước hết dưới dạng tiêm, rồi có lẽ dưới dạng thuốc nhỏ mắt hay implant nhăn cầu, có khả năng cấp chừng ít một liều lượng của hoạt chất. Những thuốc này có thể được liên kết với các anti-VRGF đă hiện hữu và như thế tăng gấp mười tính hiệu quả của chúng. “ Chúng ta cũng đă t́m thấy những chất chỉ dấu di truyền (marqueurs génétiques) tiên đoán mức độ nghiêm trọng của bệnh. Vậy, trước mắt, chúng ta sẽ có khả năng nói trước bệnh nhân nào sẽ là những người đáp ứng tốt hay xấu đối với các điều trị và do đó thích ứng thái độ điều trị của chúng ta ”, BS Souied đă xác nhận như vậy. C̣n lại dạng khô (forme sèche) của bệnh này, măi đến nay là người bà con nghèo của DMLA v́ lẽ vào lúc này không có một điều trị nào để ngăn chặn nó. Lại nữa, các loại thuốc c̣n đang được đánh giá. Nhằm mục đích ngăn cản sự chết sớm của các tế bào vơng mạc, các thuốc loại này là một đường hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn, với những thuốc đầu tiên sẽ xuất hiện trong khoảng một chục năm nữa. (LE FIGARO 8/3/2010) |
NHỮNG CHẤT BỔ SUNG THỨC ĂN CÓ GIÚP NGĂN NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC (DMLA) ?
GS Catherine Creuzot-Garcher Chef du service d’ophtalmologie CHU Dijon et Laboratoire Œil et Nutrition Inra-Dijon. Vơng mạc, và đặc biệt là vùng trung tâm của nó, hoàng điểm (macula), không được tha miễn bởi những tác dụng có hại của sự lăo hóa. Bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge) là một bệnh lư nhiều yếu tố, trong đó thuốc lá, bệnh béo ph́, ánh nắng mặt trời, sự dinh dưỡng, tương tác với những yếu tố nguy cơ di truyền. Căn bệnh này, nguồn gốc của một phế tật thị giác nghiêm trọng, ảnh hưởng lên hơn 1 triệu người ở Pháp. Sau hết người ta biết rằng một bệnh nhân bị DMLA của con mắt bên này, sẽ có 50% nguy cơ thấy xuất hiện một dạng tiến triển của con mắt bên kia trong ṿng 5 năm tiếp theo sau đó. Tiên lượng khá u tối này đă biện minh cho nhiều công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện để hạn chế sự tiến triển của DMLA. Mặc dầu nhiều nghiên cứu trước đây biện minh cho những thói quen thường dựa trên kinh nghiệm, nhưng ảnh hưởng của các chất bổ sung thức ăn (complément alimentaire) và nói chung của sự dinh dưỡng lên vơng mạc, dựa trên những kết quả không hoàn toàn, thậm khí đôi khi mâu thuẫn nhau. Bước thực hiện thường gồm hai th́ : những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học quy mô lớn (études épidémiologiques à grande échelle) cho phép chúng ta chọn lọc vài yếu tố dinh dưỡng nhằm làm kềm hăm sự xuất hiện của DMLA. Sau đó, những công tŕnh nghiên cứu can thiệp (études d’intervention) (trong đó người ta kiểm soát chặt chẽ sự cung cấp các vi chất dinh dưỡng, micronutriments) sẽ cố gắng xác nhận giả thuyết này. ƯU TIÊN RAU XANH. Những công tŕnh nghiên cứu lâm sàng, xác nhận lợi ích của các chất bổ sung thức ăn để ngăn ngừa những dấu hiệu của sự lăo hóa, tương đối mới xuất hiện gần đây : tính hợp lư, biện minh cho việc sử dụng các chất bổ sung thức ăn để làm chậm lại tiến triển của DMLA, chủ yếu dựa trên công tŕnh Areds 1 (Age Related Eye Diesease Study). Công tŕnh nghiên cứu quy mô lớn, được tiến hành trong hơn 6 năm ở Hoa Kỳ, đă cho thấy rằng những chất bổ sung thức ăn, với chất cơ bản là vitamine C và E, bêta-carotène, kẽm và đồng, cho phép hạn chế những nguy cơ tiến triển thành DMLA nặng. Công tŕnh nghiên cứu này, mặc dầu có cách nay hơn 10 năm, vẫn có nhiều khuyết điểm, nhất là những liều lượng được đề nghị rất là cao hơn những liều lượng được khuyến nghị ở Châu Âu, và việc sử dụng bêta-carotène, có tiềm năng nguy hiểm cho người hút thuốc. Những công tŕnh nghiên cứu khác đă gợi ư vai tṛ của các sắc tố điểm vàng (pigments maculaires) (lutéine và zéaxanthine), thay thế một cách có lợi bêta-carotène. Cũng vậy, một chế độ ăn uống giàu oméga-3 giới hạn sự tiến triển của DMLA, cũng như vitamine B nơi phụ nữ. Toàn bộ những giả thuyết này chẳng bao lâu nữa sẽ được đánh giá trong công tŕnh Areds 2, mà các kết quả sẽ sẵn sàng từ nay đến vài năm nữa. Những kết quả này đă cho phép xác định những khuyến nghị đối với những bệnh nhân, tùy theo nguy cơ bị DMLA của họ. Đối với những bệnh nhân đă bị DMLA một bên hay có những dấu hiệu tiến triển của sự lăo hóa điểm vàng, người ta chủ trương làm chậm lại tiến triển của bệnh bằng sự tiêu thụ các chất bổ sung thức ăn. Tuy nhiên phải nhắc lại cho các bệnh nhân rằng việc cải thiện chế độ ăn uống mỗi ngày là dễ thực hiện và có lợi ích. Cần làm hiểu rơ thế nào là việc “ ăn tốt ” (bien manger) ! Ăn sardine (đóng hộp) hay cá mỡ hai lần mỗi tuần, trộn dầu colza vào salade, nhai vài quả hồ đào (cerneau de noix) trong tuần, ưu tiên dành cho rau xanh (chính ở đó chứa lutéine) là những sự việc dễ thực hiện đối với tất cả mọi người. Sau hết, phải rất cảnh giác đối với sự tiêu thụ bừa băi các chất bổ sung thức ăn, đặc biệt là các sản phẩm bán trên internet, bởi v́ chúng không có một bảo đảm nào trong việc chế tạo. Hiện nay chúng tôi cố gắng hạn chế tiến triển của bệnh một khi các dấu hiệu đầu tiên xuất hiện. Có lẽ từ nay đến vài năm nữa ta sẽ xác định c̣n tốt hơn “ profil ” của một bệnh nhân trước khi bệnh xuất hiện, nhằm xác định bệnh nhân nào sẽ được hưởng tốt nhất một sự pḥng ngừa bằng các chất bổ sung thức ăn. (LE FIGARO 27/9/2010) |
CÁC VƠNG MẠC NHÂN TẠO VƯỢT QUA MỘT CHẶNG ĐƯỜNG MỚI.
Một implant mới đă cho phép một người mù đọc được những mẫu tự và những chữ. OPHTALMOLOGIE. Cho phép những người mù t́m lại một thị giác đủ để nhận biết những vật thông thường và đọc những chữ lớn. Đó là kết quả từ nay có thể thu được với những implant vơng mạc thuộc thế hệ mới nhất. Nhóm của Eberhart Zrenner (đại học Tubingen, Đức) một trong những nhóm tiên tiến nhất thế giới trong lănh vực này, công bố hôm nay những dữ kiện ngoạn mục trong Proceedings of the Royal Society B. Vơng mạc chứa một lớp tế bào cảm thụ ánh sáng (cellules photoréceptrices), bắt các tín hiệu ánh sáng và biến hóa chúng thành những xung động điện. Những xung động này sau đó được truyền qua dây thân kinh thị giác cho đến tận các vùng thị giác của năo bộ. Khi những tế bào vơng mạc rất biệt hóa này bị hủy hoại, khi bị một bệnh thoái hóa như viêm vơng mạc sắc tố (rétinite pigmentaire) hay DMLA (thoái hóa điểm vàng do tuổi tác), th́ sự mất thị giác không c̣n có thể sửa chữa được nữa. Ư tưởng thay thế chúng bằng một vơng mạc nhân tạo đă nẩy mầm cách nay nhiều thập niên. Từ đó, nhiều nhóm nghiên cứu đă bắt tay vào thách thức công nghệ học này với những phương cách khác nhau. Nhờ những tiến bộ của điện tử học, những vơng mạc mới gồm hàng trăm điểm kích thích, điều này cho phép hoàn lại một thị giác tinh tế hơn nhiều. Nhóm của Tubingen đă chế tạo một implant có cạnh 3 mm với 1500 diode, điều này tương ứng với một h́nh ảnh 38x40 điểm hay pixel. Theo các công tŕnh nghiên cứu, cần ít nhất 600 pixel để cho phép đọc được, 1.000 để nhận diện một gương mặt. 5 TRẮC NGHIỆM THỊ GIÁC. Vơng mạc nhân tạo (rétine artificielle) này đă được ghép vào dưới vơng mạc, ở chỗ của các tế bào cảm thụ ánh sáng (photorécepteurs), cho 3 bệnh nhân ở tuổi 40, bị mù từ lâu v́ bệnh viêm vơng mạc sắc tố. Sau đó những bệnh nhân được ghép vơng mạc nhân tạo này đă chịu 5 trắc nghiệm thị giác. Tất cả đă có thể thấy những vật sáng được đặt trên một chiếc bàn sẫm màu. Các hiệu năng đă rơ rệt cao hơn nơi một trong những người t́nh nguyện, đă thành công nhận biết một cách chính xác các đồ vật, và sau khi được huấn luyện, đă thành công ngay cả đọc được các mẫu tự và các chữ. “ Mặc dầu những thách thức c̣n tồn tại về mặt sinh học và kỹ thuật, những kết quả của chúng tôi cho thấy rằng các prothèse vơng mạc điện tử có thể là một thay thế để phục hồi thị giác cho những người mù không có thể hưởng được những phương pháp khác như liệu pháp gène hay các thuốc bảo vệ thần kinh (médicaments neuroprotecteurs) ”, các tác giả của bài báo đă ghi nhận như vậy. “Khi những kết quả này được tŕnh bày cách nay vài tháng nhân một hội nghị, chúng đă có tác dụng như một trái bom nhỏ, Serge Pocaud, nhà nghiên cứu của Viện thị giác (Paris) đă kể lại như vậy. Từ đó, một loại implant khác, được phát triển bởi công ty Hoa Kỳ Second Sight và được trắc nghiệm đặc biệt ở Pháp, đă thu được những hiệu năng tương đương ”. Các nhà nghiên cứu người Đức đă đặt implant vơng mạc cho khoảng một chục bệnh nhân khác, mà không bị vấn đề dung nạp. Và hệ thống dây và b́nh điện đă trở nên kín đáo hơn. Về phần ḿnh, nhóm nghiên cứu của Serge Picaud đang nghiên cứu một prototype de prothèse trên cơ sở các nanoparticule kim cương. “ Vật liệu này đáng lưu ư bởi những tính chất điện tử và tính sinh tương hợp (biocomptabilité) ”, nhà nghiên cứu đă nhấn mạnh như vậy. Những thử nghiệm đang được tiến hành nơi động vật, nhưng sự phát triển bị làm chậm lại do thiếu nguồn tài trợ. (LE FIGARO 3/11/2010) |
VƠNG MẠC NHÂN TẠO : THÀNH CÔNG CỦA NHỮNG IMPLANT MỚI NƠI NHỮNG NGƯỜI MÙ.
GS José-Alain Sahel, giám đốc Viện thị giác, trưởng khoa mắt Hôpital des Quinze-Vingts, giải thích những công tŕnh của nhóm nghiên cứu của ông, đă cho phép 4 người mù nhận biết lại môi trường của họ. Hỏi : Những bệnh nào có nguy cơ dẫn đến sự mù ḷa một phần hay hoàn toàn ? GS José-Alain Sahel : Thường xảy ra nhất là thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge). Đó là một rối loạn trong sự đổi mới của các tế bào cảm thụ ánh sáng (cellules photoréceptrices) với sự tích tụ của những mảnh vỡ tế bào dưới vơng mạc. Sau đó phải kể đến hai bệnh : •bệnh tăng nhăn áp (glaucome) (800.000 người) làm gia tăng áp suất của nhăn cầu và cuối cùng làm thương tổn dây thần kinh thị giác. •bệnh đái đường (400.000 đến 500.000 trường hợp) làm thương tổn các huyết quản của vơng mạc. Tiếp theo sau đó là vài bệnh lư nguồn gốc di truyền như bệnh viêm vơng mạc sắc tố (rétinite pigmentaire) (40.000 trường hợp). Hỏi : Trong những trường hợp nào ta có thể tránh sự mất thị giác nhờ một điều trị ? GS José-Alain Sahel : Về bệnh đái đường và bệnh tăng nhăn áp, nếu ta chẩn đoán chúng sớm, ta có thể tránh được những biến chứng mắt nơi vơng mạc cũng như sự phá hủy của dây thần kính thị giác. Để điều trị vài dạng của DMLA , ta có những thuốc chống sinh mạch máu (anti-angiogénique), ức chế sự tăng sinh của các huyết quản của vơng mạc, nguyên nhân của sự giảm thị lực. Về những bệnh di truyền, một liệu pháp gène đang được thử nghiệm. Đối với những bệnh nhân đă mất hoàn toàn thị giác, ngày nay hy vọng quan trọng là ghép những vơng mạc giả (prothèse rétinienne). Hỏi : Để hiểu cách tác dụng của những vơng mạc giả này, xin ông có thể giải thích cho chúng tôi vai tṛ của vơng mạc ? GS José-Alain Sahel : Vơng mạc gồm có một lớp tế bào nhận cảm (cellules réceptrices) bắt các tín hiệu ánh sáng và biến đổi chúng thành những xung động điện (impulsions électriques). Sau đó những xung động điện này được truyền đến các vùng thị giác (aire visuelle) của năo bộ bởi dây thần kinh thị giác. Khi những tế bào cảm quan (cellules photoréceptrices) của vơng mạc bị tiêu hủy, sự mất thị giác là hoàn toàn. Hỏi : Protocole ghép (implantation) được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của ông ở Viện Mắt là ǵ ? GS José-Alain Sahel : Trước hết, vào lúc một can thiệp ngoại khoa, ta đặt trên vơng mạc một puce điện tử (một implant) bao gồm một loạt các điện cực bằng kim loại thay thế những tế bào cảm quang bị phá hủy. Một caméra nhỏ xíu được gắn trên kính đeo bắt h́nh ảnh và xử lư nó nhờ microprocesseur được đặt trong một chiếc bọc. Microprocesseur này truyền các thông tin nhận được đến implant vơng mạc, rồi implant này truyền chúng đến các vùng thị giác của năo bộ qua dây thần kinh thị giác. Vậy để thực hiện kỹ thuật này, dây thần kinh thị giác không được bị phá hủy. Hỏi : Những kết quả nào đă thu được với sự tái tạo vơng mạc này ? GS José-Alain Sahel : Từ hai năm rưỡi nay, 4 bệnh nhân bị mù ḷa do viêm vơng mạc sắc tố đă được mổ (30 trường hợp trên thế giới). Ngày nay 4 người đàn ông này có thể di chuyển, thấy các cánh cửa, các cửa sổ và các đồ vật. 3 trong 4 các bệnh nhân này có thể đọc cả những chữ gồm 3 hay 4 mẫu tự ! Hỏi : Nhóm của ông hiện đang nghiên cứu công tŕnh nghiên cứu khác nào ? GS José-Alain Sahel : Chúng tôi đang phát triển trong pḥng thí nghiệm hai loại điện cực, lần này được bọc bởi kim cương. Những vật liệu tương hợp sinh học (matériaux biosensibles) này cho phép hạn chế những phản ứng mô. Hỏi : Sự hồi phục một phần thị giác này có thể có được nơi những người bị mù khi sinh ra đời hay không ? GS José-Alain Sahel : Chúng ta chưa biết bởi v́ để được như vậy năo bộ “ đă phải học thấy ” trong những năm đầu của đời sống. Hỏi : Giai đoạn kế tiếp sẽ là ǵ ? GS José-Alain Sahel : Để cải thiện những kết quả thu được, chúng tôi sẽ mổ một loạt những bệnh nhân khác với những protocole được tập trung hơn vào những khả năng nhận biết chính xác. Nhưng ta sẽ không bao giờ thay thế một cách hoàn hảo hàng triệu các tế bào cảm quan của vơng mạc lành mạnh, nghĩa là cho trở lại một thị giác b́nh thường. Trong hai năm nữa, chúng tôi dự định vượt qua một chặng đường mới bằng cách gia tăng số các điện cực trên implant, lần này được bọc bằng kim cương. (PARIS-MATCH 16/12-22/12/2010) |
Stress during early pregnancy is linked to reduced reproductive function in male offspring
European Society of Human Reproduction and Embryology Share Print E-Mail Men whose mothers were exposed to stressful life events while they were in the first 18 weeks of pregnancy may have reduced sperm counts when they become adults, according to a study published today (Thursday) in Human Reproduction [1], one of the world's leading reproductive medicine journals. Research has shown that the first few months of pregnancy is when male reproductive organs are at their most vulnerable stage of development. This current study of 643 young men aged 20 found that those who were exposed to at least one stressful life event during early gestation (0-18 weeks) had worse sperm quality and lower testosterone concentrations than those who were not exposed, or who were exposed during later gestation, between 18-34 weeks. The findings come from the Western Australia's Raine Study [2], a multi-generational study that recruited nearly 3000 women in their 18th week of pregnancy in the period between May 1989 and November 1991. The mothers completed questionnaires at 18 and 34 weeks' gestation, and each survey included questions about stressful life events during the preceding four months of pregnancy. These events included death of a close relative or friend, separation or divorce or marital problems, problems with children, mother's or partner's involuntary job loss, money problems, pregnancy concerns, moving home or other problems. A total of 2868 children (1454 boys) were born to 2804 mothers and were followed by the researchers, making this the first study to investigate prospectively the links between exposure to stressful life events in early and late gestation and male reproductive function in young adult men. When they reached 20 years old, up to 643 young men underwent a testicular ultrasound examination and provided semen and blood samples for analysis. The researchers found that 63% of the men had been exposed to at least one stressful life event in early gestation, while fewer stressful life events occurred in late gestation. Those who were exposed to stressful life events in early gestation had lower total sperm counts, fewer sperm that could swim well and lower concentrations of testosterone than those exposed to no events. The researchers adjusted their analyses to take account of factors that could affect their calculations, such as the mothers' body mass index, socio-economic status and whether or not the mothers had given birth previously. The senior author of the study, Roger Hart, Professor of Reproductive Medicine at the University of Western Australia and medical director of the Fertility Specialists of Western Australia IVF unit, said: "We found that men who had been exposed to three or more stressful life events during early gestation had an average of 36% reduction in the number of sperm in their ejaculate, a 12% reduction in sperm motility and an 11% reduction in testosterone levels compared to those men who were not exposed to any stressful life event during that period. "This suggests that maternal exposure to stressful life events during early pregnancy, a vulnerable period for the development of male reproductive organs, may have important life-long adverse effects on men's fertility. This contrasts with the absence of any significant effect of exposure to maternal stressful life events in late gestation." In their Human Reproduction paper, the authors write: "These potential associations could provide important insight into the decline of total sperm count in Western men, which has been, apart from genetic and direct spermatogenic damage, largely unexplained." Prof Hart said that exposure to stressful life events during early pregnancy was unlikely to cause a man to be infertile by itself, but when added to other factors, it could contribute to an increased risk of infertility. "Like most things in life, if exposure to stressful life events in early gestation is added to other things that are known to affect men's fertility, it may contribute to an increased risk of male infertility. These other, predominantly lifestyle exposures include being overweight, central obesity, smoking, excessive alcohol intake, high blood pressure, high cholesterol, sugar, or fat levels in the blood, a varicocele in the scrotum, or possibly exposure to chemicals in the environment that interfere with natural hormones, both before birth and in adulthood," he said. The researchers point out that they have found only an association between stressful life events in early pregnancy and reduced sperm quality and testosterone concentrations in offspring, not that one definitely causes the other. First author of the study, Dr Elvira Bräuner, a senior scientist in reproductive epidemiology at the Department of Growth and Reproduction, Rigshospitalet in Copenhagen, Denmark, said: "It is likely that women have always been exposed to stressful life events during pregnancy. However, the World Health Organization has described a general upward trend in stress over time. So, the additional effect of a stressful life event during pregnancy might be more pronounced in women who are already stressed." One of the main limitations of the study is that it was not possible to measure how stressful life events affected women's experiences and their perceptions of stress, and their resilience in coping with such events. Prof Hart said: "Our findings suggest that improved support for women, both before and during pregnancy, but particularly during the first trimester, may improve the reproductive health of their male offspring. Men should also be made aware that their general health is also related to testicular health, so they should try to be as healthy as possible to ensure that not only do they have the best chance of maintaining fertility, but also of remaining healthy in later life. "To provide some perspective, the association between exposure to stressful life events and reduction in sperm counts was not as strong as the association between maternal smoking and subsequent sperm counts, as this was associated with a 50% reduction in sperm number." ### [1] "The association between in utero |
Stress during early pregnancy is linked to reduced reproductive function in male offspring
European Society of Human Reproduction and Embryology Men whose mothers were exposed to stressful life events while they were in the first 18 weeks of pregnancy may have reduced sperm counts when they become adults, according to a study published today (Thursday) in Human Reproduction [1], one of the world's leading reproductive medicine journals. Research has shown that the first few months of pregnancy is when male reproductive organs are at their most vulnerable stage of development. This current study of 643 young men aged 20 found that those who were exposed to at least one stressful life event during early gestation (0-18 weeks) had worse sperm quality and lower testosterone concentrations than those who were not exposed, or who were exposed during later gestation, between 18-34 weeks. The findings come from the Western Australia's Raine Study [2], a multi-generational study that recruited nearly 3000 women in their 18th week of pregnancy in the period between May 1989 and November 1991. The mothers completed questionnaires at 18 and 34 weeks' gestation, and each survey included questions about stressful life events during the preceding four months of pregnancy. These events included death of a close relative or friend, separation or divorce or marital problems, problems with children, mother's or partner's involuntary job loss, money problems, pregnancy concerns, moving home or other problems. A total of 2868 children (1454 boys) were born to 2804 mothers and were followed by the researchers, making this the first study to investigate prospectively the links between exposure to stressful life events in early and late gestation and male reproductive function in young adult men. When they reached 20 years old, up to 643 young men underwent a testicular ultrasound examination and provided semen and blood samples for analysis. The researchers found that 63% of the men had been exposed to at least one stressful life event in early gestation, while fewer stressful life events occurred in late gestation. Those who were exposed to stressful life events in early gestation had lower total sperm counts, fewer sperm that could swim well and lower concentrations of testosterone than those exposed to no events. The researchers adjusted their analyses to take account of factors that could affect their calculations, such as the mothers' body mass index, socio-economic status and whether or not the mothers had given birth previously. The senior author of the study, Roger Hart, Professor of Reproductive Medicine at the University of Western Australia and medical director of the Fertility Specialists of Western Australia IVF unit, said: "We found that men who had been exposed to three or more stressful life events during early gestation had an average of 36% reduction in the number of sperm in their ejaculate, a 12% reduction in sperm motility and an 11% reduction in testosterone levels compared to those men who were not exposed to any stressful life event during that period. "This suggests that maternal exposure to stressful life events during early pregnancy, a vulnerable period for the development of male reproductive organs, may have important life-long adverse effects on men's fertility. This contrasts with the absence of any significant effect of exposure to maternal stressful life events in late gestation." In their Human Reproduction paper, the authors write: "These potential associations could provide important insight into the decline of total sperm count in Western men, which has been, apart from genetic and direct spermatogenic damage, largely unexplained." Prof Hart said that exposure to stressful life events during early pregnancy was unlikely to cause a man to be infertile by itself, but when added to other factors, it could contribute to an increased risk of infertility. "Like most things in life, if exposure to stressful life events in early gestation is added to other things that are known to affect men's fertility, it may contribute to an increased risk of male infertility. These other, predominantly lifestyle exposures include being overweight, central obesity, smoking, excessive alcohol intake, high blood pressure, high cholesterol, sugar, or fat levels in the blood, a varicocele in the scrotum, or possibly exposure to chemicals in the environment that interfere with natural hormones, both before birth and in adulthood," he said. The researchers point out that they have found only an association between stressful life events in early pregnancy and reduced sperm quality and testosterone concentrations in offspring, not that one definitely causes the other. First author of the study, Dr Elvira Bräuner, a senior scientist in reproductive epidemiology at the Department of Growth and Reproduction, Rigshospitalet in Copenhagen, Denmark, said: "It is likely that women have always been exposed to stressful life events during pregnancy. However, the World Health Organization has described a general upward trend in stress over time. So, the additional effect of a stressful life event during pregnancy might be more pronounced in women who are already stressed." One of the main limitations of the study is that it was not possible to measure how stressful life events affected women's experiences and their perceptions of stress, and their resilience in coping with such events. Prof Hart said: "Our findings suggest that improved support for women, both before and during pregnancy, but particularly during the first trimester, may improve the reproductive health of their male offspring. Men should also be made aware that their general health is also related to testicular health, so they should try to be as healthy as possible to ensure that not only do they have the best chance of maintaining fertility, but also of remaining healthy in later life. "To provide some perspective, the association between exposure to stressful life events and reduction in sperm counts was not as strong as the association between maternal smoking and subsequent sperm counts, as this was associated with a 50% reduction in sperm number." ### |
3-Jun-2019
For many, friends and family, not doctors, serve as a gateway to opioid misuse Penn State Share Print E-Mail In a common narrative of the path to opioid misuse, people become addicted to painkillers after a doctor prescribed them pills to treat an injury and then, later, switch to harder drugs, such as heroin. However, nonmedical opioid users were more likely to say they began abusing opioids after friends and family members offered them the drugs, according to researchers. In a series of in-depth interviews with 30 opioid users from southwestern Pennsylvania, about 56 percent of the interviewees said they began using the painkillers recreationally first, said Ashton Verdery, assistant professor of sociology, demography and social data analytics, and an affiliate of the Institute for CyberScience, Penn State. According to Verdery, the national narrative often portrayed in the media is that heroin abuse occurred after people were prescribed opioid pills by their doctors and became addicted to them. This narrative holds that when the government cracked down on prescription opioids and drug manufacturers began making pills more difficult to abuse in the late 2000s, these people then transitioned to heroin because of its lower price and higher relative availability. "There's a lot about that narrative that I think is an overly simplistic way of thinking about this," said Verdery. "What emerged from our study -- and really emerged because we decided to do these qualitative interviews in addition to a survey component -- was a pretty different narrative than the national one. We found that most people initiated through a pattern of recreational use because of people around them. They got them from either siblings, friends or romantic partners." He added that some study participants did say that they later engaged in "doctor shopping" to locate new sources of prescription pills when acquiring pills from those initial sources became more difficult. The researchers, who report their findings in a recent issue of the Journal of Addictive Studies, said that understanding this pathway may help improve interventions and treatment options. "It's not just that people were prescribed painkillers from a doctor for a legitimate reason and, if we just crack down on the doctors who are prescribing in these borderline cases we can reduce the epidemic," said Verdery. "Our results really don't speak to that framework. They speak more to the need of educating people how dangerous these pills are and warning them about getting the pills from friends and family, because that's the way a lot of people are getting addicted." The researchers first recruited 125 participants to complete a survey that sought information on their demographics, substance use, social networks and risk factors. A total of 30 survey participants accepted an invitation to then take part in semi-structured, in-depth interviews that lasted about an hour. The researchers conducted interviews with nonmedical opioid users from southwestern Pennsylvania because the region has been hit particularly hard by the opioid epidemic and features both rural and urban users. Verdery suggests that the researchers would find similar results in other areas hit by the epidemic, but future research may explore addiction pathways in other communities and consider how other substance use may play a role in opioid addiction. "We think that understanding this mechanism as a potential pathway is worth further consideration," said Verdery. "At the same time, friends and family are critical resources that people who use opioids can draw on for support and help in seeking treatment, which is all the more reason to pay attention to how drug use affects and is affected by social relationships." |
BS NGUYỄN VĂN THỊNH
CƠN CAO HUYẾT ÁP (POUSSEE HYPERTENSIVE) Dr Bertrand François Chef de service de médecine générale d'urgence Hôpital Saint-Roch. CHU de Nice Dr Pras Pierre Chef du service de gérontologie clinique Hôpital Cimiez. CHU de Nice. Dr Tardieux Pierre-Marie Hôpital Cimiez. CHU de Nice. Dầu cho đó là dấu hiệu khởi đầu của một cao huyết áp hay dầu cho đó là biến chứng của tiến triển của cao huyết áp, cơn cao huyết áp (accès hypertensif) phải được phát hiện và điều trị một cách nhanh chóng để tránh sự xuất hiện những biến chứng nghiêm trọng I. NHỮNG TRƯỜNG HỢP XUẤT HIỆN Cơn cao huyết áp không biến chứng có thể được thể hiện bởi đau đầu, chóng mặt, ù tai (acouphènes), chảy máu cam, suy nhược. Sự tăng cao huyết áp có thể được chứng thực một cách t́nh cờ khi không có một triệu chứng nào. Cơn cao huyết áp có thể được phát hiện bởi một biến chứng : • một suy tâm thất trái, được thể hiện hoặc bởi khó thở gắng sức hoặc bởi một phù phổi cấp ; • một suy động mạch vành cấp tính ; • một xuất huyết dưới kết mạc hay vơng mạc ; • một cơn lú lẫn do phù năo ; • một thiếu máu cục bộ năo chịu trách nhiệm một thiếu sót thần kinh quan trọng ít hay nhiều và đôi khi thoái lui ; • một xuất huyết màng năo hay năo-màng năo. II. CHẨN ĐOÁN Chẩn đoán dựa trên đo huyết áp. Đo huyết áp phải được thực hiện ở hai tay, với những thận trọng sử dụng. Ở người già, chính sự tăng cao đột ngột và bất thường của huyết áp phải được chẩn đoán là cơn cao huyết áp (poussée hypertensive). Nói chung trên 180 mmHg đối với huyết áp tối đa, và 110 mmHg đối với huyết áp tối thiểu. Ta nói là urgence hypertensive nếu những triệu chứng thương tổn tạng (signes de souffrance viscérale) được liên kết, và ta gọi là HA maligne nếu những con số huyết áp rất cao (nói chung >/=250 mmHg đối với tối đa và >/=130 mmHg đối với tối thiếu), với sự hiện diện của đau đầu, trạng thái lú lẫn hay co giật. Phải nhấn mạnh rằng không có sự tương quan giữa cường độ của các con số huyết áp và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. III. NHỮNG TRƯỜNG HỢP XUẤT HIỆN CỦA CƠN CAO HUYẾT ÁP Trong đại đa số các trường hợp, cơn cao huyết áp (accès hypertensif) là biến chứng của một cao huyết áp cũ được điều trị không đủ, thậm chí cân bằng, nhưng mất bù do một yếu tố gian phát, nguồn gốc thức ăn hay thuốc : cung cấp muối không đúng lúc hay sai lầm hồi sức gây nên quá tải thể tích, choáng t́nh cảm. Ngoài ra, cơn cao huyết áp xảy ra khi có sự thay đổi hay ngừng bất ngờ một điều trị cao áp, nhất là khi đó là clonidine hay những thuốc chẹn beta giao cảm. IV. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT Đứng trước một cao huyết áp không giải thích được, trước hết phải loại bỏ một cơn cao huyết áp sinh lư (poussée hypertensive physiologique), phản ứng lại với một sự tấn công bất ngờ : stress, đau tạng, co mạch của giai đoạn khởi đầu của một choáng (xuất huyết, giảm thể tích dưới tác dụng thuốc lợi tiểu), nhưng trong trường hợp này, thăm khám lâm sàng cẩn thận có thể phát hiện những marbrures, nhiễm trùng cấp tính, bí tiểu cấp tính. V. ĐIỀU TRỊ Cơn cao huyết áp (poussée hypertensive) có thể được điều trị tại nhà nếu ta có thể loại bỏ một biến chứng sẽ xảy ra. Điều này giả định rằng ta đă ở bên bệnh nhân một thời gian đủ và các con số huyết áp đă được điều chỉnh đúng đắn bởi điều trị. UserPostedImage 1. CƠN CAO HUYẾT ÁP KHÔNG BIẾN CHỨNG. Trước hết phải trấn an bệnh nhân, đặt bệnh nhân nằm dài, yên tĩnh, kiểm soát lại các con số huyết áp để loại bỏ “ tác dụng của áo khoác trắng ", ở hai cánh tay, sau khi kiểm tra mọi sai lầm phương pháp và kiểm tra lại huyết áp vài giờ sau đó. Trong trường hợp các con số vẫn cao, điều trị ưu tiên một cần đến nicardipine (Loxen, Rydène), hay urapidil (Eupressyl, Mediatensyl). 2. CƠN CAO HUYẾT ÁP TRIỆU CHỨNG HAY CÓ BIẾN CHỨNG Trước sự hiện diện diện của những triệu chứng cơ năng không đe dọa (đau đầu, suy nhược, chóng mặt) và khi không có những biến chứng bệnh lư, điều trị tức thời nhờ đến một thuốc chẹn kênh canxi (inhibiteur calcique). Chảy máu cam biện minh cho phương pháp nhét bấc vào các hố mũi (méchage des fosses nasales), tùy trường hợp, phương pháp nhét bấc mũi sau (tamponnement postérieur) hay phương pháp đốt điểm chảy máu (électro-coagulation). Trước một xuất huyết nặng và không cầm được bằng phương pháp nhét bấc, một ống thông tiểu có bóng bơm (sonde urinaire à ballonnet) có thể được sử dụng nếu không có một sonde de tamponnement đặc hiệu. Nifédipine dưới lưỡi không được dùng nữa bởi v́ gây nên hạ huyết áp đột ngột có hại. Đứng trước một urgence hypertensive thật sự, liên kết với một biến chứng, cần phải nhập viện. Tùy theo t́nh huống, những điều trị khác được liên kết với điều trị ban đầu với thuốc chẹn kênh canxi của cơn cao huyết. • xuất huyết vơng mạc cần trong một thời hạn ngắn nhất một điều trị đặc hiệu liên kết với điều trị cơn cao huyết áp. • Phù phổi cấp được điều trị bởi những thuốc lợi tiểu có tác dụng nhanh (Furosémide injectable), các dẫn xuất nitrat (Natispray, Lénitral spray) dưới dạng thuốc xịt hay bằng đường tĩnh mạch, đặc biệt là nếu phù phổi cấp được liên kết với một nhồi máu cơ tim • Trong trường hợp đau ngực, ta sẽ kê đơn một dẫn xuất nitrat bằng đường dưới lưỡi hay tĩnh mạch, và ta sẽ làm một điện tâm đồ. • Trong trường hợp tai biến mạch máu năo, cao huyết áp phải được tôn trọng nếu chụp cắt lớp vi tính năo hướng về một nguồn gốc thiếu máu cục bộ, và dẫu sao chừng nào scanner không được thực hiện ; • Xuất huyết năo-màng năo do vỡ một ph́nh động mạch có thể được điều trị với nimodipine (Nimotop), inhibiteur calcique tiêm cho phép ngăn ngừa co thắt mạch. VI. KẾT LUẬN Cần phân biệt rơ một t́nh trạng bất ổn huyết áp đơn thuần với một cơn cao huyết áp. Chỉ một cơn cao huyết áp mới cần một điều trị cấp cứu bởi v́ những hậu quả có thể là nghiêm trọng. Những thuốc điều trị huyết áp hiện nay có đủ để cho phép đáp ứng cơn cao huyết áp này một cách hiệu quả. Quote: Những cạm bẫy và những đặc điểm ở người già Trong cao huyết áp của người già có một sự mất của tính dẻo động mạch (compliance artérielle) : điều này ảnh hưởng chủ yếu lên những trị số của HA thu tâm. Hăy loại bỏ một cơn cao huyết áp triệu chứng của một bệnh tạng cấp tính : sốc t́nh cảm, đau, bí tiểu cấp tính, t́nh trạng choáng giai đoạn đầu. Nifédipine (Adalat) dưới lưỡi không được sử dụng nữa, bởi v́ đôi khi nó có thể gây hạ huyết áp đột ngột. Mỗi cơn cao áp biến chứng (poussée hypertensive compliquée) cần được nhập viện. Ở người già được điều trị, ta chấp nhận những con số HA lên đến 160 mmHg đối với tối đa, 90 mmHg đối với tối thiểu. |
All times are GMT. The time now is 06:57. |
VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by
Advanced User Tagging (Pro) -
vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.