VietBF

VietBF (https://www.vietbf.com/forum/index.php)
-   School | Kiến thức 2006-2019 (https://www.vietbf.com/forum/forumdisplay.php?f=273)
-   -   Your's Health (https://www.vietbf.com/forum/showthread.php?t=1234581)

florida80 04-17-2019 18:42

CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 7
 
CẤP CỨU NỘI THẦN KINH SỐ 7

CO GIẬT (SEIZURES)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ THẾ NÀO LÀ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Co giật (seizures) là kết quả của sự phóng điện quá mức hay hỗn loạn (excessive or chaotic discharge) từ các tế bào thần kinh năo bộ. Mặc dầu hầu hết các nhà lâm sàng gọi hậu quả của sự phóng điện này (ví dụ : các cử động giật, nh́n trừng) là một cơn co giật (a seizure), nhưng cơn co giật tự bản thân là hoạt động của tế bào thần kinh (neuronal activity). Những biểu hiện quan sát được được gọi là hoạt động co giật (seizure activity).

Tầm quan trọng của các cơn co giật là rơ ràng. Cái ǵ đó cản trở sự hoạt động b́nh thường của một nhóm tế bào thần kinh. Những công tŕnh nghiên cứu kiểm tra sự tạo nên các sản phẩm phụ chuyển hóa (metabolic by-products) cho thấy rằng chính hoạt động điện bất thường, chứ không phải là sự tích tụ các sản phẩm phụ chuyển hóa, gây nên sự thương tổn và chết tế bào. V́ những lư do không được biết rơ, thùy hải mă (hippocampus) dường như đặc biệt nhạy cảm đối với thương tổn này.

2/ LÀM SAO NHẬN BIẾT MỘT CƠN CO GIẬT.

Điều này không hiển nhiên như có vẻ như vậy. Các cơn co giật có thể biểu hiện bằng nhiều cách, tùy theo kích thước và định vị của vùng năo bộ bị thương tổn. Nói chung, các cơn co giật được xếp thành 3 loại : cục bộ, toàn thể, và cục bộ với toàn thể hóa thứ phát. Một cơn co giật cục bộ (focal seizure) được giới hạn vào một vùng đặc biệt của năo bộ và chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó của cơ thể. Một cơn co giật toàn thể (generalized seizure) được biểu hiện bởi hoạt động co giật lên toàn bộ cơ thể. Một cơn co giật cục bộ với toàn thể hóa thứ phát (focal seizure with secondary generalization) khởi đầu chỉ ảnh hưởng lên một phần của năo bộ nhưng sau đó lan rộng ra lên toàn bộ năo. Biểu hiện khởi đầu được tách biệt vào một vùng đặc biệt của cơ thể nhưng lan ra ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Hoạt động co giật không điển h́nh (atypical seizure activity) khó nhận biết hơn nhiều. Nếu một cơn co giật đă xảy ra nhưng đă dừng lại trước khi khám bệnh nhân, phải t́m kiếm những dấu hiệu thứ phát, bao gồm sự lú lẩn sau co giật, són đái hay phân, và cắn lưỡi hay niêm mạc miệng.


XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT


LOẠI

BIỂU HIỆN

TOÀN THỂ
Co cứng-co giật (động kinh cơn lớn) (tonic-clonic) (grand mal) Mất tri giác, tiếp theo ngay sau bởi co cứng các cơ, sau đó co giật các cơ (jerkinh : giật), có thể kéo dài trong vài phút. Một thời kỳ mất định hướng (thời kỳ sau động kinh) xảy ra sau hoạt động co cứng-co giật.
Cơn vắng ư thức (động kinh cơn nhỏ) (absence)
(petit mal) Đột nhiên mất ư thức với dừng hoạt động hay kiểm soát tư thế. Thời kỳ thường kéo dài vài giây đến vài phút và được đi kèm theo bởi một thời kỳ sau động kinh tương đối ngắn.
Mất trương lực (drop attacks) Mất hoàn toàn kiểm soát tư thế và ngă xuống đất, đôi khi gây chấn thương. Thường xảy ra nơi các trẻ em.
MỘT PHẦN HAY CỤC BỘ
Một phần đơn thuần (simple partial) Có thể có nhiều dạng tùy theo vùng năo bộ bị ảnh hưởng. Nếu vỏ năo vận động bị kích thích, bệnh nhân sẽ có co thắt của vùng cơ thể tương ứng. Nếu vùng không vận động của năo bị kích thích, cảm giác có thể gồm có dị cảm, ảo giác, và déjà vu.
Một phần phức hợp (complex partiel) Thường cớ mất hoạt động vận động đang tiếp diễn, với hoạt động vận động nhỏ, như chắc lưỡi, và đi không có mục đích.
MỘT PHẦN VỚI TOÀN THỂ HÓA THỨ PHÁT Những triệu chứng khởi đầu cũng giống như động kinh một phần. Tuy nhiên, hoạt động tiến triển để ảnh hưởng lên toàn cơ thể, với mất kiểm soát tư thế và có thể có hoạt động cơ co cứng-co giật.

3/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ BAN ĐẦU ĐỐI VỚI MỘT BỆNH NHÂN ĐANG CO GIẬT ?

Hăy bắt đầu với ABC (airway, breathing, circulation), nhằm tất cả các dấu hiệu sinh tồn. Trước hết nên hướng sự chú ư vào đường hô hấp (airway) của bệnh nhân. Có nhiều kỹ thuật để mở hoặc có được một airway. Nên cho oxy bổ sung bởi v́ nhu cầu oxy gia tăng do sự co thắt cơ quá mức. Đánh giá t́nh trạng tim mạch với sự xác định huyết áp và capillary refill và điều chỉnh với dịch(nước muối sinh lư hay dụng dịch lactated ringer). Chú ư vào nhiệt độ và đáp ứng nhanh chóng với một bất thường là điều quan trọng.

Hầu hết can thiệp tích cực nơi bệnh nhân bị co giật nhằm vào ngăn ngừa chấn thương hay hít dịch. Bệnh nhân nên được kềm giữ (nhẹ nhàng) và, nếu có thể, nên được nghiêng về một bên để làm giảm khả năng bị hít dịch. Hút dịch miệng bệnh nhân nên được thực hiện trong lúc co giật. Điều quan trọng là không nên đặt bất cứ cái ǵ có thể bị hít hay bị cắn (kể cả các ngón tay của anh) vào trong miệng của bệnh nhân. Oxy bổ sung nên được cho bằng canun mũi (nasal cannula) hay mặt nạ, nhưng sự sử dụng thông khí bổ sung hiếm khi cần thiết nơi bệnh nhân với co giật không biến chứng.

4/ CƠN ĐỘNG KINH LIÊN TỤC (STATUS EPILEPTICUS) LÀ G̀ ?

• đó là một “ một cơn co giật động kinh (epileptic seizure) lập lại thường xuyên hoặc kéo dài tạo nên một t́nh trạng động kinh (epileptic condition) cố định và kéo dài ”.

• theo truyền thống được gọi là cơn động kinh liên tục (status epilepticus) nếu cơn co giật kéo dài hơn 30 phút hoặc các cơn co giật tái diễn nhưng bệnh nhân không tỉnh dậy giữa các cơn. Những khuyến nghị và mô tả hiện nay là hoạt động co giật kéo dài hơn 5 phút và không thể ngừng lại một cách ngẫu nhiên nên được xem là cơn động kinh liên tục (status epilepticus). Điều trị nên được bắt đầu trong ṿng 5 phút này.


Những bệnh nhân với chẩn đoán cơn động kinh liên tục (status epilepticus) cần được đánh giá kỹ và sâu rộng. Điều này bao gồm một đánh giá hoàn chỉnh để nhận diện và điều trị bất cứ các nguyên nhân gây cơn động kinh liên tục có thể đảo ngược và can thiệp nhanh để chấm dứt hoạt động neurone bất thường. Điều trị hỗ trợ đầy đủ để ngăn ngừa những biến chứng do các cơn co giật và những điều trị chúng (ví dụ suy hô hấp, tan cơ vân, hay sốt) là quan trọng.

5/ CÁC CO GIẬT ĐƯỢC LÀM NGỪNG NHƯ THẾ NÀO ?

Nếu một cơn co giật kéo dài hơn 5 phút, cần phải can thiệp ngay. Trong y khoa truyền thống, chuỗi thông thường là chẩn đoán, sau đó mới điều trị. Thường trong y khoa cấp cứu, cần chẩn đoán và điều trị đồng thời. Đừng chờ đợi cho đến khi đă lấy xong bệnh sử, khám nghiệm vật lư hoàn chỉnh, cho y lệnh làm những xét nghiệm phụ, rồi mới điều trị co giật. Các co giật làm thương tổn năo bộ ; càng để các cơn co giật diễn biến liên tục, th́ càng có nhiều tổn hại xảy ra.

Các benzodiazepine là những thuốc được lựa chọn đầu tiên để điều trị các cơn co giật kéo dài hơn 5 phút. Lorazepam (Témesta) là benzodiazepine tuyến đầu được ưa thích để điều trị các cơn co giật do tính hiệu quả gia tăng và thời gian bán hủy dài hơn trong việc giữ cho các cơn co giật khỏi bị tái phát so với diazepam (Valium). Liều lượng người trưởng thành của Lorazepam là 2-4 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, với liều lượng tối đa 10-15 mg. Nếu không có lorazepam, có thể cho diazepam với liều lượng 5-10 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, không vượt quá 30 mg trong một thời gian 8 giờ. Nếu nhiều liều benzodiazepine không làm ngừng co giật hay nếu benzodiazepines bị chống chỉ định nơi bệnh nhân, nên cho một liều lượng tấn công của thuốc chống động kinh nguyên phát (primary anticonvulsant).

Nếu không có đường tĩnh mạch, midazolam (Dormicum) có thể được sử dụng bằng tiêm mông hay bằng đường trực tràng. Mặc dầu diazepam và lorazepam không được khuyến nghị dùng bằng đường tiêm mông do sự hấp thụ thất thường, midazolam với liều lượng 0,05 mg/kg đă được sử dụng để điều trị thành công cơn động kinh liên tục (status epilepticus).

6/ KHI CO GIẬT ĐĂ DỪNG, LÀM SAO GIỮ CHO KHỎI TÁI PHÁT ?

Vấn đề này mang chúng ta đến một loại thuốc khác, các thuốc chống co giật (anticonvulsant). Các thuốc chống co giật không chỉ giữ cho các co cơn giật khỏi tái phát ở pḥng cấp cứu mà c̣n được sử dụng để làm ngưng các cơn co giật đề kháng với benzodiazepines.


THUỐC CHỐNG CO GIẬT


TÊN THUỐC

LIỀU LƯỢNG

ĐƯỜNG CHO THUỐC

B̀NH LUẬN

Phenytoin
(Dialantin, Diphantoine) ampoules 250mg/5ml

18-20 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 50mg/phút ; bệnh nhân nên được monitor tim ; ngưng truyền nếu độc tính xuất hiện (QRS kéo dài hơn 50% căn bản, hạ huyết áp). Nếu động kinh liên tục tiếp diễn, có thể gia tăng liều lượng toàn bộ lên đến 30 mg/kg.
Fosphenytoin
(ProDilantin)
15-20 PE/kg
Tiêm tĩnh mạch, Tiêm mông Đơn vị đo lường là PE (phenytoin equivalent), được ghi chú trên chai thuốc. Thuốc này là chất tiền thân của phenytoin, như vậy an toàn khi tiêm truyền nhanh mà không gây các tác dụng huyết động nghịch. Một nồng độ điều trị của thuốc này đạt được nhanh hơn nhiều so với dilantin.
Fosphenytoin Phenobarbital
(Gardénal)
Flacons 40 mg và 200mg

lên đến 15mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Không nên cho nhanh hơn 100mg/phút ; liều lượng có thể được nhắc lại một lần sau 30 phút nếu không có hiệu quả ; liều lượng tổng cộng tối đa là 600 mg ; coi chừng giảm áp hô hấp, đặc biệt là nếu bệnh nhân đă nhận diazepam
Pentobarbital
12mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Chỉ sử dụng khi những loại thuốc khác thất bại
Lidocaine
1-1,5 mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Đă được ghi nhận là làm ngưng t́nh trạng động kinh liên tục
Propofol
(Diprivan)
2mg/kg
Tiêm tĩnh mạch Có những báo cáo về sự sử dụng propofol trong trường hợp cơn động kinh liên tục đề kháng. Nên được sử dụng với nội thông khí quản và thông khí cơ học. Coi chừng hạ huyết áp và chuẩn bị để điều trị


7/ KỂ NHỮNG NGUYÊN NHÂN THÔNG THƯỜNG NHẤT CỦA CO GIẬT

Những nguyên nhân có thể đảo ngược tức thời mà các thầy thuốc cần cảnh giác gồm có hạ glucose-huyết và giảm oxy-mô (thứ phát ngộ độc nha phiến).

•Nhũ nhi

◦Chấn thương sinh đẻ (giảm oxy mô, chấn thương nội sọ)

◦Nhiễm trùng (áp xe năo, viêm màng năo)

◦Các bất thường điện giải (giảm natri-huyết, giảm canxi-huyết, giảm magnesi-huyết)

◦Các dị dạng bẩm sinh (các nang trong năo bộ, tràn dịch năo)

◦Các rối loạn di truyền (sai lầm chuyển hóa bẩm sinh, thiếu hụt pyridoxine)



•Trẻ em

◦Co giật do sốt cao

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Chấn thương

◦Nhiễm trùng (viêm màng năo)



•Thiếu niên

◦Chấn thương

◦Co giật không rơ nguyên nhân

◦Ma túy hay rượu (ngộ độc hay cai cấp tính).

◦Dị dạng động-tĩnh mạch



•Thanh niên

◦Chấn thương

◦Rượu (ngộ độc hay cai cấp tính)

◦U năo



•Người trưởng thành lớn tuổi hơn

◦U năo

◦Đột quy

◦Xuất huyết trong năo.

◦Nghiện rượu

◦Các rối loạn chuyển hóa (hạ natri-huyết, tăng natri-huyết, giảm canxi-huyết, hạ đường huyết, uremia, suy gan)





8/ BỆNH SỬ CÓ QUAN TRỌNG KHÔNG ?

Bệnh sử vô cùng quan trọng ! Bạn có thể sử dụng COLD để chắc chắn rằng bạn đă hỏi các khía cạnh của hoạt động co giật :

•Character (tính chất) : Loại hoạt động co giật nào đă xảy ra ?

•Onset (Khởi đầu) : Co giật khởi đầu khi nào ? Trong khi bệnh nhân đang làm ǵ ?

•Location (vị trí) : Hoạt động co giật bắt đầu ở đâu ?

•Duration (thời gian) : co giật kéo dài bao lâu ?


Nói chung những co giật thật sự có khuynh hướng xảy ra đột ngột, có bài bảng (stereotyped) (những tính chất cơ bản của co giật được duy tŕ từ đợt này qua đợt khác), và không bị kích thích bởi những kích thích môi trường, được biểu hiện bởi những cử động không mục đích và không thích hợp, và, ngoại trừ nhưng co giật cỡ nhỏ, được tiếp theo sau bởi một thời kỳ lú lẩn và ngủ lịm (lethargy) (thời kỳ sau cơn vật). Những điểm quan trọng khác bao gồm tiền sử của bệnh nhân (đặc biệt là tiền sử co giật trước đây), sử dụng rượu và uống các độc chất khác, những thuốc đang sử dụng, và tiền sử các khối u hệ thần kinh trung ương, và tiền sử chấn thương mới đây hay đă lâu.

9/ NGOÀI KHÁM THẦN KINH, NHỮNG PHẦN KHÁC NÀO CỦA THĂM KHÁM VẬT LƯ LÀ QUAN TRỌNG VÀ TẠI SAO ?

Một thăm khám hoàn chỉnh từ đầu đến chân là quan trọng. Ngoài việc t́m kiếm các nguyên nhân của co giật, người thầy thuốc nên t́m kiếm chấn thương gây nên bởi co giật. Thăm khám thường b́nh thường nhưng đôi khi có thể cho các manh mối về vấn đề bên dưới. Đặc biệt, thăm khám da có thể phát hiện các thương tổn phù hợp với meningococcemia hay những vấn đề nhiễm trùng khác. Hăy khám đầu t́m các chấn thương. Nếu t́m thấy cứng cổ (nuchal rigidity), viêm màng năo hay xuất huyết dưới màng nhện nên được nghi ngờ. Một tiếng tim thổi, đặc biệt nếu bệnh án chỉ rơ không hề được nghe trước đó, có thể chỉ rơ viêm nội tâm mạc bán cấp do nhiễm khuẩn (subacute bacterial endocarditis), với embolization là nguyên nhân của co giật.

Thăm khám thần kinh là quan trọng. Những dấu hiệu thần kinh khu trú, như liệt nhẹ khu trú (focal paresis) sau co giật (bại liệt Todd) có thể chỉ rơ một thương tổn năo bộ khu trú (khối u, áp xe, đụng dập năo) như là nguyên nhân của co giật. Sự đánh giá các dây thần kinh đầu và đáy mắt có thể chỉ rơ tăng áp lực nội sọ.

10/ NHỮNG XÉT NGHIỆM PHỤ NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN NƠI MỘT BỆNH NHÂN CO GIẬT ?

Nói chung, việc sử dụng những xét nghiệm phụ tùy thuộc bệnh sử và lâm sàng của bệnh nhân. Nơi bệnh nhân với bệnh sử trước đây có rối loạn co giật, chỉ có một cơn co giật đơn độc, xảy ra tự nhiên, th́ xét nghiệm duy nhất hữu ích là nồng độ của thuốc chống co giật trong máu. Nếu nồng độ ở dưới mức điều trị, bệnh nhân nên được cho một liều tấn công thuốc này để đạt được nồng độ điều trị. Quyết định đánh giá bệnh nhân với những trắc nghiệm phụ khác (xét nghiệm và X quang) nên được căn cứ trên những dấu hiệu của bệnh sử và thăm khám vật lư. Nếu có nghi vấn không biết bệnh nhân đă có một cơn co giật vận động quan trọng hay không, nên xét nghiệm các chất điện giải và tính anion gap.

11/ Ư NGHĨA CỦA ANION GAP TRONG CHẤN ĐOÁN ĐỒNG KINH CƠN LỚN (GRAND MAL SEIZURE) ?

Một anion gap gia tăng tạm thời (thời gian 1 giờ) là bằng cớ tốt cho thấy rằng cơn động kinh cơn lớn (grand mal seizure) đă xảy ra. Điều này được xác nhận bằng cách lấy máu càng gần với lúc động kinh càng tốt. Lấy máu nơi xảy ra động kinh là lư tưởng cho khảo sát này. Nếu không có nhiễm toan anion gap, ta sẽ có thể giả định rằng bệnh nhân đă không có một cơn động kinh quan trọng.

12/ PHẢI LÀM G̀ NẾU TRƯỚC ĐÂY BỆNH NHÂN ĐĂ KHÔNG CÓ MỘT CƠN CO GIẬT ?

Nếu đây là một cơn co giật mới khởi ra (new-onset seizure), th́ những xét nghiệm phụ quan trọng hơn. Tuy nhiên hiệu năng thường rất thấp. Một xét nghiệm t́m những rối loạn chuyển hóa (sodium, calcium, glucose, magnesium, BUN tăng cao, hay creatinine) là quan trọng. Những xét nghiệm độc chất (toxicologic screen) nhắm vào các chất được biết là gây co giật (cocaine, lidocaine, thuốc chống trầm cảm, theophylline, và các chất kích thích là trong số những chất thông thường nhất) nên được thực hiện nếu có chỉ định trên phương diện lâm sàng.

13/ CÓ PHẢI TẤT CẢ BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT ĐỀU CẦN LÀM CT SCAN Ở PH̉NG CẤP CỨU ?

Đây là một lănh vực đang c̣n tiếp tục được nghiên cứu. Câu trả lời hay nhất có thể được cho vào lúc này là rằng sự sử dụng chọn lọc CT scan đầu là an toàn trong những t́nh huống thích đáng. Những bệnh nhân nên được chụp CT scan đầu ở pḥng cấp cứu gồm có những bệnh nhân được nghi có một biến cố cấp tính trong sọ (ví dụ máu tụ dưới màng cứng, xuất huyết dưới màng nhện), những bệnh nhân có một trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài (t́nh trạng sau vật kéo dài) hay một thăm khám thần kinh bất b́nh thường, và những bệnh nhân không thể đảm bảo một đánh giá theo dơi nhanh chóng bởi thầy thuốc tuyến đầu hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh.

14/ XỬ TRÍ THÍCH ĐÁNG MỘT BỆNH NHÂN VỚI CO GIẬT TÁI PHÁT ?

Nếu như không có những dấu hiệu bất thường trong bệnh sử hay thăm khám vật lư, bệnh nhân có thể được cho xuất viện với theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc chuyên khoa thần kinh của bệnh nhân. Nếu nồng độ thuốc chống co giật b́nh thường hay bệnh sử gợi ư một sự thay đổi hoạt động(ví dụ tần số cơn gia tăng, loại động kinh khác), th́ bệnh nhân nên được đánh giá như là một bệnh nhân với cơn co giật mới. Điều này có thể bao gồm sự nhập viện nếu việc theo dơi không được đảm bảo hay nếu các dấu hiệu lúc thăm ḍ cho thấy cần phải nhập viện

15/ SỰ VIỆC BỆNH NHÂN CÓ CƠN CO GIẬT LẦN ĐẦU CÓ KHÁC NHAU TRONG ĐIỀU TRỊ VÀ XỬ LƯ HAY KHÔNG ?

Những bệnh nhân với cơn co giật lần đầu (first-time seizure) có khả năng được nhập viện hơn sau khi đă đánh giá ở pḥng cấp cứu. Nếu cơn co giật xảy ra ngắn ngủi, thăm khám vật lư và các xét nghiệm phụ tất cả đều b́nh thường, và sự theo dơi bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh có thể được xếp đặt trước khi bệnh nhân được cho ra khỏi pḥng cấp cứu, th́ sự nhập viện có thể không cần thiết.

Cũng tương tự như vậy, không phải tất cả các bệnh nhân bị co giật lần đầu đều cần phải bắt đầu cho thuốc chống động kinh. Những lời khuyên đặc biệt về việc sử dụng các thuốc chống động kinh nơi những bệnh nhân này là khó. Nếu có thể theo dơi sát bởi thầy thuốc gia đ́nh hay thầy thuốc thần kinh, và nếu bệnh nhân có thể tin cậy được, th́ việc cho xuất viện mà không bắt đầu cho thuốc chống co giật có thể là thích hợp.

Những chỉ thị xuất viện nên nhấn mạnh với bệnh nhân rằng không được lái xe, vận hành máy móc, hoặc đi đến những chỗ ở cao và mở (ví dụ các platform xây dựng).

16/ CO GIẬT GIẢ (PSEUDOSEIZURE) LÀ G̀, LÀM SAO CHẨN ĐOÁN ?

Những co giật giả (pseudoseizures) là những hoạt động giống co giật (seizure-like activity) nhưng không có hoạt động điện bất thường trong năo bộ. Các co giật giả khó chẩn đoán được ở pḥng cấp cứu. Những thủ thuật đă được chứng tỏ có tác dụng trong vài trường hợp bao gồm sự gợi ư với bệnh nhân rằng co giật chẳng bao lâu sẽ ngừng lại hay cố làm lăng trí bệnh nhân bằng những tiếng động lớn hay những áng sáng chói ḷa trong khi hoạt động “ co giật ” đang diễn biến. Những dạng vẻ của hoạt động bất thường làm cho nó có khả năng là một co giật giả gồm có cử động chi không đồng bộ (asynchronous extremity movement), một cử động đẩy vùng chậu ra phía trước (a forward thrusting movement of the pelvis), và mắt bị lệch về phía đất, dầu cho đầu được đặt ở vị trí nào. Chẩn đoán có thể được thực hiện bằng điện nếu bệnh nhân được móc vào một máy điện tâm đồ. Trong co giật giả, hoạt động điện bất thường không được nh́n thấy. Tương tự, việc đo prolactin huyết thanh 20 phút sau “co giật ” giúp gián biệt một co giật thật sự với một co giật giả. Trong những co giật thật sự, nồng độ prolactin tăng cao ít nhất hai lần, trong khi trong co giật giả, nồng độ prolactin vẫn trong giới hạn b́nh thường. Không có phương pháp nào trong hai phương pháp này có để sử dụng ở pḥng cấp cứu. Các co giật cơn lớn giả (pseudogrand mal seizures) thường không gây nên nhiễm toan chuyển hóa với anion gap, và sự xác định này có thể làm ở pḥng cấp cứu.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH (21/3/2010)

References : Emergency Medicine Secrets

-------------
Xem thêm các bài Cấp Cứu liên quan: Mục Lục "Cấp Cứu và Hồi Sức Tích Cực (Emergency and Critical Care)
Edited by user Monday, August 20, 2012 1:57:24 PM(UTC) | Reason: Not specified


"Kẻ Ác lo không hăm hại được người,
Người Hiền sợ không cứu giúp được ai"




Back to top

florida80 04-17-2019 18:43

CẤP CỨU NGOẠI THẦN KINH SỐ 2
 
CẤP CỨU NGOẠI THẦN KINH SỐ 2

PH̀NH MẠCH NĂO
(CEREBRAL ANEURYSMS)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH


1/ TỶ LỆ BỊ XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN DO VỠ PH̀NH MẠCH TRONG SỌ (INTRACRANIAL ANEURYSMS) ?

Tỷ lệ được ước tính là 6-28 trên 100.000 dân.

2/ TỶ LỆ BỊ PH̀NH MẠCH TRONG SỌ KHÔNG CÓ TRIỆU CHỨNG ?

Những nghiên cứu giải phẫu tử thi đă cho thấy một tỷ lệ lưu hành khoảng 2% trong toàn bộ dân chúng. Nguy cơ xuất huyết do ph́nh mạch trong sọ trước đó không vỡ là khoảng 1% mỗi năm tuy nhiên những con số chính xác không được biết đến.

3/ CÁC LOẠI PH̀NH MẠCH TRONG SỌ CHÍNH ?

Ph́nh mạch h́nh túi (saccular aneurysms) : loại ph́nh mạch thông thường hơn hết và nguyên nhân của xuất huyết dưới nhện.

Ph́nh mạch h́nh nấm (mycotic aneurysms) : 1-5 % các ph́nh mạch năo là do tắc mạch do vi khuẩn (septic embolization) từ các thể sùi ở van tim (valvular vegetations) ở những bệnh nhân với viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (bacterial endocarditis). Các ph́nh mạch h́nh nấm xuất hiện khoảng 4-5 tuần sau một biến cố nghẽn mạch cấp tính. Chúng thường được thấy ở phần xa của tuần hoàn động mạch năo giữa, mặc dầu 10% được nhận thấy ở phần gần hơn. Ph́nh mạch hinh nấm thường tan biến với điều trị kháng sinh đầy đủ nhưng đôi khi đ̣i hỏi can thiệp ngoại khoa hay nội huyết quản. Các liên cầu khuẩn là tác nhân gây bệnh thông thường nhất.

Ph́nh mạch do chấn thương : mặc dầu những ph́nh mạch do chấn thương là hiếm, nhưng những ph́nh mạch giả (false aneurysm) thường xảy ra hơn. Ph́nh mạch giả là do vỡ hoàn toàn của thành mạch máu với sự tạo thành cục máu đông. Các ph́nh mạch do chấn thương có thể được nhận thấy liên kết với găy xương sọ.

Ph́nh mạch h́nh thoi : gây nên do các mạch máu ngoằn nghèo bị giăn, có thể vỡ, lóc, hay tạo thành các huyết khối gây tắc mạch (embolize) ở xa. Bệnh lư của ph́nh mạch h́nh thoi có vẻ khác với bệnh lư của ph́nh mạch đó vữa xơ động mạch lẫn ph́nh mạch h́nh túi.

4/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ NÀO LÀM PHÁT TRIỂN NHỮNG PH̀NH MẠCH H̀NH TÚI ?

Cả các yếu tố bẩm sinh và thụ đắc đều có can dự vào. Khoảng 6,7 của tất cả các ph́nh mạch năo xảy ra trong các gia đ́nh ; những ph́nh mạch có yếu tố gia đ́nh hiện diện sớm hơn những ph́nh mạch không có yếu tố gia đ́nh. Các ph́nh mạch cũng được liên kết với các dị dạng thông động-tĩnh mạch (arteriovenous malformations) (AVMs) ; chúng đă được ghi nhận nơi các động mạch nuôi dưỡng nơi khoảng 7% các bệnh nhân. Những yếu tố nguy cơ không thể biến đổi khác gồm có bệnh thân đa năng nhiễm sắc thể thường tính trội (autosomal dominant polycystic kidney disease) (2% các bệnh nhân), neurofibromatosis loại I, và những rối loạn mô liên kết như Ehlers-Danlos loại IV, fibromuscular dysplasia, và hội chứng Marfan. Khoảng 16% các bệnh nhân với bệnh thận đa nang phát triển những ph́nh động mạch trong sọ. Nguyên nhân bệnh lư chính xác của các ph́nh mạch h́nh túi đă không được giải thích một cách rơ ràng, nhưng chúng có khuynh hướng xảy ra ở những chĩa của các mạch máu năo quan trọng, nơi các áp suất chảy cao nhất

5/ NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA VỠ PH̀NH ĐỘNG MẠCH TRONG SỌ ?

Vỡ thường xảy ra nhất giữa 40 và 60 tuổi với một tần số cao điểm giữa 55 và 60 tuổi. Bệnh sử gia đ́nh của xuất huyết dưới màng nhện (subarachnoid hemorrhage) là một yếu tố làm dễ ; 5-10% các bệnh nhân có một bệnh sử gia ́́nh dương tính. Trong hầu hết các công tŕnh nghiên cứu, phụ nữ có vẻ có nguy cơ cao hơn đàn ông, và có một tỷ lệ mắc bệnh hơi cao hơn trong thời kỳ thai nghén. Kích thước của ph́nh động mạch cũng quan trọng ; những ph́nh động mạch lớn hơn dễ bị vỡ hơn là những ph́nh động mạch nhỏ (2% cac ph́nh động mạch đường kính < 5mm so với > 40% các ph́nh động mạch có đường kính từ 6 đến 10 mm. Những ph́nh động mạch có đường kính trên 3 mm được nghĩ là có nguy cơ bị vỡ gia tăng.

6/ NGOÀI PH̀NH ĐỘNG MẠCH, NHỮNG NGUYÊN NHÂN KHÁC CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN ?
•Lóc động mạch (arterial dissection) : Các lóc động mạch là những sự phá vỡ của thành động mạch trong đó máu chảy vào nội mạc, tạo nên ḷng giả (a false lumen). Khi lóc xảy ra ở các đồng mạch đốt sống, chúng có thể cho triệu chứng xuất huyết dưới màng nhện hay hay đột qụy do tắc mạch (embolic stroke) và thường được liên kết với liệt dây thần kinh sọ phía dưới và nhồi máu thân năo. Lóc động mạch thuộc tuần hoàn trước cũng có thể xảy ra, nhưng xuất huyết dưới nhện liên kết với lóc động mạch tuần hoàn trước nhất thiết là hiếm.

•Dị dạng thông động-tĩnh mạch : Đôi khi xuất huyết đười nhện được thấy mà không có xuất huyết trong năo như b́nh thường. Trong những trường hợp như thế, một ph́nh mạch h́nh túi xảy ra đồng thời phải được loại bỏ.

•Đột qụy năo thùy (pituitary apoplexy) : Bệnh nhân thường đau đầu đột ngột với sự suy sụp thị lực. Các bất thường cử động nhăn cầu và sự suy thoái mức đó tri giác cũng có thể được nhận thấy. MRI hay CT thường chỉ năo thùy là nguyên nhân của bệnh.

•Xuất huyết dưới nhện quanh trung năo (perimesencephalic SAH) cũng được gọi là xuất huyết dưới nhện chụp mạch máu âm tính (angionegative SAH) : Máu dưới nhện nằm tách riêng trước ph́nh hoàn trạng. Chẩn đoán được xác nhận bằng cách loại bỏ một ph́nh mạch với chụp mạch máu (angiography) hay CT angiography. Nguy cơ tái xuất huyết thấp, và tiên lượng tốt. Bệnh nhân không phát triển những di chứng nguy hiểm được thấy trong xuất huyết dưới nhện do vỡ ph́nh mạch (aneurysmal SAH).

•Chấn thương đầu : Xuất huyết dưới nhện thường xảy ra trong chấn thương đầu.


7/ NHỮNG TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA VỠ PH̀NH MẠCH NỘI SỌ ?

Những triệu chứng đặc hiệu nhất bao gồm một cơn đau đầu dữ dội (explosive headache), nôn, mửa, cứng cổ, và sợ ánh sáng, có thể liên kết với mất tri giác. Các dấu hiệu thần kinh khu trú đôi khi rơ rệt lúc thăm khám ; một trong những dấu hiệu thông thường nhất là bại liệt dây thần kinh sọ III, liên kết với các ph́nh mạch nối sau (posterior communicating artery aneurysm). Abducens palsies cũng được nhận thấy và được cho là có liên quan với tăng áp lực nội sọ và có thể với tụt kẹt thân năo (braistem herniation), do dầy thần kinh bị kéo. Tùy thuộc vào định vị, các dấu hiệu liệt thần kinh cũng có thể được nhận thấy, bao gồm các liệt vận động và cảm giác, mất thị giác, và mất các phản xạ thân năo.


CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN.


CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN

CÁC DẤU HIỆU CỦA XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN

•Đau đầu đột ngột, nghiêm trọng.

•Nôn và mửa

•Dizziness

•Vertigo

•Mệt

•Song thị (diplopia)

•Sợ ánh sáng.

•Cứng cổ

•Dấu hiệu Brudzinski, Kernig.

•Sốt

•Cao huyết áp

•Thị giác mờ

•Liệt vận động nhăn cầu

•Liệt nhẹ nửa người

•Lú lẩn và/hoặc kích động

•Hôn mê



Những dấu hiệu toàn thân kiên kết với xuất huyết dưới nhện gồm có loạn nhịp tim và thiếu máu cục bộ. Những dấu hiệu tim mạch này được mô tả rơ trong tài liệu y học và nói chung được quy cho sự phóng thích của norepinephrine. Các loạn nhịp tim thường được thấy nhất trong 48 giờ đầu. Cao huyết áp toàn thân và nhịp tim chậm có thể được thấy như là những biểu hiện của tăng áp lực trong sọ. Viêm phổi do hít dịch (aspiration pneumonia) và phù phổi là những biểu hiện phổi thông thường nhất. Phù phổi được cho là do suy tâm thất trái, đưa đến gia tăng áp lực thủy tĩnh mao mạch phổi. Phù phổi do nguyên nhân thần kinh (neurogenic pulmonary edema) có thể phát triển nhanh sau xuất huyết dưới nhện và cũng được cho là do sự phóng thích norepinephrine, dẫn đến gia tăng tính thẩm thấu mao mạch.

8/ XUẤT HUYẾT LÍNH CANH (SENTINEL BLEED) LÀ G̀ ?

Một xuất huyết lính canh (sentinael bleed) là một xuất huyết khởi đầu nhẹ hay rỉ từ một ph́nh mạch năo. Xuất huyết lính canh được cho là xuất huyết nhẹ bởi v́ mặc dầu nó gây nên một cơn đau đầu dữ dội, nhưng có thể không được nhận biết hay được chẩn đoán lắm (thí dụ như là đau đầu thống). Điều quan trọng là phải nhận biết các xuất huyết lính canh bởi v́ chúng thường là những dấu hiệu cảnh cáo về những biến cố tai họa tiếp theo sau đó. Sự nhận biết và điều trị thích đáng có thể ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong. Tỷ lệ tử vong do các ph́nh mạch không bị vỡ được nhận diện bởi các xuất huyết lính canh được báo cáo thấp hơn tỷ lệ tử vong do xuất huyết ph́nh mạch không được báo trước bởi dấu hiệu ṛ huyết cảnh cáo (28,9% so với 43,2%).

9/ XUẤT HUYẾT DƯỚI NHỆN ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO ?

Chụp cắt lớp vi tính năo, nếu được thực hiện trong ṿng 24 giờ sau khi vỡ, có một mức độ nhày cảm 90%. Chụp cắt lớp vi tính có thể cho những thông tin quư giá về lượng và vị trí của các khối máu tụ hay xuất huyết dưới nhện, sự hiện diện của máu trong năo thất, và kích thước của các năo thất. Nếu chụp cắt lớp vi tính âm tính đi với sự hiện diện của xuất huyết dưới nhện, th́ chọc ḍ dịch năo tủy được chỉ định. Có thể khó phân biệt giữa xuất huyết dưới nhện với chọc ḍ gây chấn thương (traumatic tap), và sự hiện diện của nhiễm sắc vàng (xanthochromia) lúc chọc ḍ dịch năo tủy là biện pháp phân biệt nhạy cảm nhất. Nhiễm sắc vàng có thể được phát hiện vào khoảng 4 giờ sau một xuất huyết dưới nhện và vẫn tồn tại đến 4 tuần sau đó.

10/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO ĐƯỢC LIÊN KẾT VỚI TIÊN LƯỢNG XẤU SAU KHI VỠ MỘT PH̀NH MẠCH NỘI SỌ ?

Lượng máu, tuổi tác cao, ph́nh mạch ở tuần hoàn sau, và phát triển sớm tràn dịch năo (hydrocephalus). Mức độ kích thích màng năo, mức độ tri giác, và sự hiện diện của những thiếu sót vận động khu trú có thể được sử dụng để nhận diện những bệnh nhân có nguy cơ gia tăng chết trước, trong và sau giải phẫu. Với những tiêu chuẩn này, các bệnh nhân được phân loại thành 5 mức độ.


BỆNH CẢNH LÂM SÀNG CỔ ĐIỂN VÀ TIÊN LƯỢNG ĐỐI VỚI VỠ PH̀NH MẠCH NĂO


MỨC ĐỘ

TIÊU CHUẨN

TỶ LỆ TỬ VONG CHU MỔ ( % )


I
Không triệu chứng hoặc nhức đầu nhẹ và cứng gáy nhẹ
0-5


II
Nhức đầu vừa đến nặng, không cứng gáy hoặc chỉ liệt một dăy thần kinh sọ.
2-10


III
Ngủ gà, lú lẫn, hay thiếu sót khu trú nhẹ .
10-15


IV
Sững sờ, liệt nhẹ nửa người từ trung b́nh đến nặng, có thể co cứng mất năo (decerebrate rigidity) sớm và rối loạn thần kinh thực vật.
60-70


V
Hôn mê sâu, co cứng mất năo, dạng vẻ hấp hối .
70-100




11/ NHỮNG BIẾN CHỨNG QUAN TRỌNG CỦA PH̀NH MẠCH TRONG SỌ BỊ VỠ ?

Thiếu máu cục bộ toàn bộ năo (global cerebral ischemia), tái xuất huyết (rebleeding), co thắt mạch (vasospasm), và hạ natri-huyết.

12/ ĐIỀU G̀ GÂY NÊN THIẾU MÁU CỤC BỘ NĂO TOÀN BỘ ?

Sự thông máu năo (cerebral perfusion) không thích đáng khi áp lực nội sọ vượt quá áp lực động mạch. Điều này thường xảy ra vào lúc bị xuất huyết dưới nhện và dẫn đến tỷ lệ tử vong cao vào lúc bệnh nhân đến pḥng cấp cứu. Điều này cũng là lư do tại sao nhiều bệnh nhân bị xuất huyết mức độ nặng không có thể cứu được mặc dầu khi đến bệnh viện c̣n sống.

13/ TỶ SUẤT BỆNH NHÂN BỊ TÁI XUẤT HUYẾT ? TIÊN LƯỢNG NHƯ THẾ NÀO ?

Đến 15% bệnh nhân tái xuất huyết vào ngày đầu tiên, và 35-40% tái xuất huyết trong 4 tuần đến nếu ph́nh động mạch vẫn không được phẫu thuật. Tái xuất huyết được liên kết với một tỷ lệ tử vong 50%.

14/ NHỮNG BIỆN PHÁP XÂM NHẬP VÀ KHÔNG XÂM NHẬP NÀO CÓ THỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ NGĂN NGỪA TÁI XUẤT HUYẾT ?

Một công tŕnh nghiên cứu lâm sàng đă chứng tỏ không có sự khác nhau về mặt tiên lượng toàn thể giữa can thiệp ngoại khoa sớm và muộn, với trường hợp ngoại lệ quan trọng là những bệnh nhân tỉnh táo lúc nhập viện nói chung diễn biến tốt hơn với can thiệp sớm. Trong hầu hết các trung tâm lớn can thiệp sớm giờ đây được ưa thích hơn. Không có những công tŕnh nào đă đánh giá điều trị nội mạch sớm voi kỹ thuật làm tắc túi ph́nh bằng thả cuộn kim loại (coiling). Những vấn đề xử trí ở pḥng hồi sức gồm có giữ bệnh nhân yên tỉnh và không đau, tránh cao huyết áp nặng trước khi thắt ph́nh mạch, và đảm bảo thông máu năo thích đáng.

15/ TRÀN DỊCH NĂO ĐƯỢC XỬ TRÍ NHƯ THẾ NÀO ?

Dẫn lưu năo thất cấp cứu. Trong 24 giờ đầu, bệnh nhân nên được monitoring sát để phát hiện sự suy giảm ư thức (obtundation) xảy ra từ từ, đáp ứng chậm của các đồng tử đối với ánh sáng, và các nhăn cầu bị lệch xuống dưới. Một dẫn lưu cấp cứu (EMD) nên được thiết đặt khẩn cấp ở những bệnh nhân có xuất huyết độ 3 hoặc hơn.

16/ KHI NÀO CO THẮT MẠCH NĂO (CEREBRAL VASOSPASM) PHÁT TRIỂN ?

Co thắt mạch năo có thể xảy ra ở 60-75% các bệnh nhân sau xuất huyết dưới nhện. Co thắt mạch xảy ra giữa ngày thứ 4 và 21 với tỷ lệ cao điểm giữa ngày thứ 5 và 9. Co thắt mạch hiếm khi bắt đầu sau ngày 12. Co thắt mạch có thể làm hủy hoại thêm thần kinh gây nên bởi các đột qụy do thiếu máu cục bộ (ischemic strokes).

17/ CO THẮT MẠCH ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN NHƯ THẾ NÀO ?

Co thắt mạch có thể được chẩn đoán trên lâm sàng do sự xuất hiện các bại liệt thần kinh không thể giải thích được bằng những nguyên nhân khác như tràn dịch năo, tái xuất huyết, hay những rối loạn chuyển hóa. Doppler xuyên sọ (transcranial Doppler) là một công cụ không xâm nhập hữu ích để chẩn đoán co thắt mạch. Co thắt được chỉ rơ bởi tốc độ lượng máu gia tăng trên doppler qua sọ. Với chụp mạch (angiography), co thắt mạch có thể được chứng tỏ bởi sự hẹp lại của cac động mạch lớn đi qua khoang dưới nhện. Khoảng 30% co thắt mạch thấy rơ trên phim chụp mạch có biểu hiện đáng kể trên phương diện lâm sàng.

18/ MÔ TẢ ĐIỀU TRỊ CO THẮT MẠCH NĂO (CEREBRAL VASOSPASM).

Điều trị gồm có ngăn ngừa hay làm hủy bỏ co thắt động mạch và làm giảm thiểu thiếu máu cục bộ do co thắt. Các chiến lược gồm có :
1.Calcium channel blockers (CCBs). Bởi v́ có tác dụng làm giăn cơ trơn, các CCBs đă được nghiên cứu như là một phương tiện ngăn ngừa co thắt mạch trong nhiều công tŕnh nghiên cứu lâm sàng. Nimodipine uống đă được chứng tỏ làm giảm tiên lượng xấu sau xuất huyết dưới nhện nhưng không ngăn ngừa thiếu máu cục bộ thứ phát. Phát hiện này hàm ư một tác dụng khác của thuốc : tiềm năng có tác dụng bảo vệ. Những CCBs khác đă chứng tỏ làm giảm thiếu máu cục bộ thứ phát, nhưng không thay đổi tiên lượng. Nimodipine (Nimotop) đă trở thành điều trị chuẩn ở nhiều trung tâm bởi v́ thuốc có tác dụng lên tiên lượng bệnh nhân.

2.Liệu pháp huyết động (hemodynamic therapy). Liệu pháp được gọi là 3 H (triple-H therapy) (tăng thể tích máu, loăng máu, và cao huyết áp) đă là cột trụ của điều trị co thắt mạch. Liệu pháp tăng thể tích máu (hypervolemic therapy) thường được sử dụng trong cố gắng làm gia tăng lưu lượng máu năo, nhưng những công tŕnh nghiên cứu mới đây đă t́m thấy ít bằng cớ để ủng hộ phương cách điều trị này. Cao huyết áp động mạch được cho là có tác dụng bằng cách làm tối đa hóa áp suất thông máu năo (cerebral perfusion pressure), do đó làm gia tăng lưu lượng máu đến năo.

3.Percutaneous transluminal angioplasty và liệu pháp papavérine.


Những chiến lược này được sử dụng nhằm mở các mạch máu bị hẹp lại. Mặc dầu tính hiệu quả của chúng đă không được chứng minh trong các thử nghiệm có kiểm tra, nhưng vài công tŕnh quan sát lớn đă cho thấy sự cải thiện lâm sàng rơ rệt cũng như sự giăn của những huyết quả năo sau khi chụp mạch máu. Tuy nhiên, baloon angioplasty chủ yếu có lợi trong việc làm giăn những vùng co thắt mạch máu gần hơn. Papaverine là một chất giăn mạch mạnh, cũng đă chứng tỏ lợi ích. Hạn chế chính của nó là hiệu quả của papavérine chỉ tạm thời ; điều trị có thể được lập lại mỗi 24 giờ.

19/ ĐIỀU G̀ GÂY NÊN HẠ NATRI-HUYẾT ? ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO ?

Trong quá khứ, hạ natri-huyết (hyponatremia) đă được gán cho SIADH ; tuy nhiên gần đây, giảm natri-huyết đă được liên kết với natri-niệu (natriuresis) và giảm thể tích máu (hypovolemia), được biết như là CSW (cerebral salt wasting). Nguyên nhân chính xác của CSW đă không được xác định, mặc dầu vài yếu tố natri-niệu (natriuretic factor) đă được nghiên cứu. Điều trị nhằm duy tŕ thể tích thích đáng và cho bổ sung sodium bằng đường miệng hay tĩnh mạch. Giảm natri-huyết thường nhẹ đến trung b́nh ; chỉ trong trường hợp hiếm hoi nồng độ sodium trụt xuống dưới 120 mmol/L.

20/ CSW ĐƯỢC PHÂN BIỆT VỚI SIADH NHƯ THỂ NÀO ?

Cả hai t́nh trạng đều có giảm natri-huyết, giảm osmolarity huyết thanh, và osmolarity nước tiểu tăng cao một cách không thích đáng. Các tính chất phân biệt là CSW là một t́nh trạng giảm thể tích máu động mạch hiệu quả (effective arterial blood volume), trong khi SIADH là một t́nh trạng thể tích máu động mạch hiệu quả b́nh thường. CSW được điều trị bằng bù thể tích và sodium c̣n SIADH bằng hạn chế dịch (fluid restriction).

21/ MÔ TẢ PHẪU THUẬT SỬA CHỮA CÁC PH̀NH ĐỘNG MẠCH.

Phương pháp ngoại khoa được sử dụng để sửa chữa các phinh mach nao :
1.Kẹp cổ túi ph́nh mạch (clipping) : Hiệu quả nhất trong tất cả các kỹ thuật ngoại khoa, clipping gồm có phẫu tích cổ của túi ph́nh mạch và đặt một clip ở gốc của cổ từ mạch máu nuôi dưỡng.

2.Trapping : Kỹ thuật này nhằm làm tắc vĩnh viễn mạch máu ở gần và xa ph́nh mạch và dựa trên sự hiện diện của luồng máu thích đáng của tuần hoàn bàng hệ đến vùng bị ảnh hưởng.

3.Proximal ligation : Kỹ thuật này nhằm buộc động mạch nuôi dưỡng để làm giảm luồng máu qua ph́nh mạch. Sự làm giảm lưu lượng máu và áp suất xuyên thành (transmural pressure) dẫn đến huyết khối và/hoặc bịt túi ph́nh mạch lại. Cũng như đối với trapping, kỹ thuật này được hạn chế vào những trường hợp đặc biệt, trong đó lưu lượng máu bàng hệ đủ để ngăn ngừa thương tổn do thiếu máu cục bộ.

4.Wrapping : Tăng cường thành ph́nh mạch với vật liệu tổng hợp (thí dụ Gelfoam) ngăn cản không cho túi lớn thêm.


22/ NHỮNG ĐIỀU TRỊ KHÔNG PHẪU THUẬT LÀ G̀ ?

Tại những trung tâm chọn lọc, một phương pháp thay thế cho phẫu thuật kẹp cổ túi ph́nh mạch (surgical clipping) là điều trị nội mạch làm tắc túi ph́nh bằng thả cuộn kim loại (endovascular coiling), được thực hiện bởi thầy thuốc quang tuyến can thiệp (interventional radiologist). Với sự sử dụng các cuộn kim loại được đặt trong ḷng ph́nh mạch, tần số huyết khối trong ḷng mạch lên đến 85% đă được báo cáo. Không có những công tŕnh nghiên cứu nào đă so sánh những kỹ thuật phẫu thuật và nội mạch (sugical ang endovascular techniques), nhưng nhiều công tŕnh quan sát đă chỉ rơ rằng điều trị nội mạch làm tắc túi ph́nh bằng thả cuộn kim loại (endovasculate coiling) có thể tương đương với những kỹ thuật ngoại khoa.

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(11/8/2011)

Reference : Critical Care Secrets
==================== ===========
Xem thêm các bài Cấp Cứu liên quan: Mục Lục "Cấp Cứu và Hồi Sức Tích Cực (Emergency and Critical Care)

florida80 04-18-2019 19:03

1 Attachment(s)
Chất Xơ - BS Nguyễn Ư Đức










Hỏi


Tôi cứ nghe nói rằng chất xơ rất tốt cho sức khỏe và có thể làm giảm chất béo trong máu. Tôi bị cao mỡ đă hơn năm nay và đang uống thuốc để hạ mà vẫn c̣n cao. Vậy tôi có nên ăn thêm chất xơ không và ăn những thức ăn nào để có chất xơ. Năm nay tôi đă hơn 60 tuổi rồi và đọc tuần báo Trẻ mỗi tuần.


- Nguyễn Thị Mai (Sachse)


Đáp


Thưa bà,


Chất xơ là một hỗn hợp chất tinh bột nằm trong màng tế bào của các loại thực vật.


Có 2 loại chất xơ:




- Loại không ḥa tan trong nước, có trong các loại hạt nguyên trạng, vỏ các loại hạt, rau, trái cây. Các chất này hút rất nhiều nước.


- Loại ḥa tan trong nước, có trong rau trái, gạo đỏ, yến mạch oats, lúa mạch (barley).


Nói chung, chất xơ có nhiều trong:


- Lá xanh của các loại rau. Cuống lá có nhiều xơ hơn rễ và củ;


- Thực vật tươi, không chế biến


- Vỏ các loại hột và vỏ rau trái cây;


- Hạt nẩy mầm (giá đậu).


Các chất này đều không được tiêu hóa và có rất ít giá trị dinh dưỡng. Tuy nhiên khi ăn vào th́ chất xơ có một số tác dụng tốt được nhiều người tin theo và khoa học thực nghiệm cũng phần nào đồng ư. Chúng tôi xin tóm lược như sau để bà cũng như độc giả tuần báo Trẻ đọc, cho vui.






1. Chất xơ với táo bón:


V́ không ḥa tan trong nước và khi được ăn với nhiều nước, chất xơ có thể là môn thuốc an toàn và hữu hiệu để pḥng tránh bệnh táo bón. Nó làm mềm và tăng lượng phân để bộ tiêu hóa dễ dàng thải ra khỏi cơ thể. Ngoài ra, khi vào đến ruột già, nó được vi sinh vật tranh nhau ăn, tạo ra nhiều hóa chất có hơi (gas). Các hơi này kích thích ruột già làm người ta mót “đi cầu”. Một nhận xét cụ thể là trâu ḅ ăn cỏ, rơm rất nhiều chất xơ nên phẩn rất to và mềm.






2. Chất xơ với bệnh viêm túi ruột già:


Trên vách ruột già thường nổi lên những túi nhỏ tư tẹo, mà theo bác sĩ Lauren V. Ackerman của đại học Nữu Ước th́ hầu như người lớn nào cũng có. Mỗi khi thức ăn bị ngưng đọng trong những túi đó th́ gây ra t́nh trạng viêm túi ruột già (diverticulosis).


V́ không ḥa tan trong nước, chất xơ có thể ngăn ngừa sự thành h́nh các túi nhỏ đó bằng cách giảm thiểu sự táo bón và giảm sự căng phồng của ruột già trong việc tống khứ chất phế thải.


Tại Western General Hospital bên Ái Nhĩ Lan, người ta có thể ngăn ngừa sự tái phát ở bệnh nhân mới giải phẫu bệnh viêm túi ruột bằng cách cho ăn nhiều chất xơ.






3. Chất xơ với ung thư ruột già:


Ung thư ruột già hiện giờ đứng hạng thứ nh́ trong các loại ung thư ở Mỹ và gây tử vong cho nhiều chục ngàn người mỗi năm. Dinh dưỡng đă được nhắc nhở đến như một cách để pḥng ngừa bệnh này.






Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ và nhiều tổ chức y tế công tư khác chủ trương và khuyến khích bằng cách giảm tiêu thụ chất béo và tăng thực phẩm có chất xơ. Các khuyến cáo này được kết quả của nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ.


Có hàng chục cuộc khảo sát đă chứng minh chất xơ có khả năng pḥng ngừa bệnh ung thư ruột già. Một cuộc nghiên cứu ở bệnh viện Nữu Ước năm 1989 cho thấy là chất xơ ngăn chận sự xuất hiện của các mụn thịt thừa (polyp) ở ruột già và hậu môn. Những mụn này có khuynh hướng phát triển thành bướu ung thư.


Viện Ung thư Quốc Gia Hoa Kỳ, Hội Ung Thư Hoa Kỳ khuyên nên dùng từ 25- 30 gr chất xơ mỗi ngày.






4. Chất xơ với bệnh tim mạch:


Bác sĩ James Anderson của Đại Học Y khoa Kentucky, Hoa Kỳ đă dành nhiều chục năm nghiên cứu công dụng chất xơ với bệnh tim mạch và tiểu đường. Theo ông ta, chất xơ nhất là từ lúa mạch, giảm cholesterol bằng cách làm gan bớt chế tạo mỡ béo LDL và tăng HDL.


Một nghiên cứu khác cho người t́nh nguyện ăn nhiều bơ th́ cholesterol lên rất cao, nhưng khi thêm chất xơ vào khẩu phần th́ cholesterol giảm xuống tới 20%. Cholesterol cao trong máu đă được coi như nguyên nhân gây một số bệnh tim mạch và là đề tài của nhiều nghiên cứu khoa học cũng như câu chuyện để nói khi mọi người gặp gỡ.






5. Chất xơ với bệnh tiểu đường:


Tiểu đường là một nhóm bệnh trong đó đường glucose ở máu lên cao. Bệnh này do hoặc thiếu Insulin hoặc giảm tác dụng của Insulin trong cơ thể. Bệnh rất phổ biến và đưa đến nhiều điều không tốt cho sức khỏe, khả năng làm việc, phẩm chất đời sống con người. Nó cũng ảnh hưởng tới nền kinh tế quốc gia v́ số bệnh ngày càng gia tăng, người bệnh hoạn nhiều, rất tốn kém cho sự chăm sóc lâu dài.


Theo kết quả các nghiên cứu của các bác sĩ James W. Anderson, thực phẩm có chất xơ có nhiều khả năng b́nh thường hóa đường trong máu, giảm đường sau bữa ăn, tăng công hiệu của Insulin. Theo ông ta, loại chất xơ ḥa tan trong nước rất công hiệu v́ nó tạo ra một lớp keo (gel) lỏng ngăn không cho đường hấp thụ vào ruột và có thể làm giảm đường trong máu tới 30%.


Người mắc bệnh tiểu đường cũng hay bị chứng vữa xơ động mạch v́ triglyceride lên cao. Bác sĩ Anderson cho hay chất xơ có thể làm giảm loại mỡ này và mỡ xấu LDL và làm tăng mỡ lành HDL.






6. Chất xơ với bệnh mập ph́:


Người bị ph́ mập thường v́ ăn nhiều, nhất là chất mỡ, mà lại không sử dụng, nên năng lượng dư thừa tích tụ trong cơ thể. Tiết chế ăn uống là điều cần thiết để giảm kư.


Phần nhiều thực phẩm giàu chất xơ đều nghèo chất béo, không có chất dinh dưỡng cho nên là món ăn lư tưởng cho những người muốn xuống cân.


Ngoài ra, thực phẩm giàu chất xơ cần thời gian lâu hơn để ăn nhai, không được tiêu hóa và hấp thụ ở bao tử, thường làm người ta no mau và no lâu, do đó giảm nhu cầu ăn nhiều, một điều kiện để khỏi mập ph́.


Chất xơ thiên nhiên có công hiệu hơn viên chất xơ.






7. Chất xơ với bệnh ung thư vú:


Một nghiên cứu mới đây của Hội Sức Khỏe Mỹ Quốc (American Health Foundation) ở thành phố Nữu Ước cho thấy là cám lúa ḿ (wheat bran) rất giàu chất xơ không ḥa tan trong nước, có khả năng giảm thiểu lượng estrogen trong máu. Từ đó người ta suy đoán rằng chất xơ trong cám lúa ḿ có thể giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Các khảo sát về vấn đề này đang c̣n tiếp diễn.


Coi như vậy th́ bà thấy chất xơ rất tốt cho cơ thể.


Riêng trường hợp của bà th́ chúng tôi đề nghị là bà vẫn phải tiếp tục dùng thuốc hạ chất béo do bác sĩ cho toa, đồng thời cũng giảm tiêu thụ chất béo từ động vật và năng vận động cơ thể. Làm được như vậy th́ cholesterol sẽ giảm và bà có thể tránh được một số bệnh. Bà nên dùng các loại thực phẩm có nhiều chất xơ mà tôi đă nêu ra ở đầu bài viết.


Kính chúc bà và gia đ́nh được mọi sự b́nh an.





BS Nguyễn Ư Đức

www.bsnguyenyduc.com


http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/video



at 5:31 PM

florida80 04-18-2019 19:07

Thiếu Vitamin D Dễ Tử Vong
 
1 Attachment(s)
Thiếu Vitamin D Dễ Tử Vong






Vitamin D có trong nhiều loại thực phẩm. Ảnh internet




Các nhà khoa học Trường ĐH California, San Diego (Mỹ) vừa cảnh báo trên Tạp chí American Journal of Public Health (Mỹ) rằng, những người có nồng độ vitamin D thấp tăng gấp đôi nguy cơ tử vong sớm so với những người có mức vitamin D cao trong máu.



Phát hiện này dựa trên cơ sở một cuộc phân tích có hệ thống của các nhà khoa học từ 32 nghiên cứu trước đây về mối liên quan giữa mức vitamin D trong máu và tỉ lệ tử vong ở con người.

Theo đó, các nhà khoa học Trường ĐH California, San Diego đă tiến hành kiểm tra và định lượng chất chuyển hóa 25-hydroxyvitamin D - một thể vitamin D trong máu và là thông số đáng tin cậy nhất để đánh giá mức vitamin D ở những người trong nghiên cứu.


Cedric Garland - giáo sư Khoa Gia đ́nh và Y tế Dự pḥng Trường ĐH California - người chủ tŕ nghiên cứu, phát biểu: “Ba năm trước, Viện Y khoa Mỹ (IOM) kết luận rằng những người có mức vitamin D thấp rất nguy hiểm cho sức khỏe”. Nghiên cứu mới này củng cố thêm kết luận trên, đồng thời cung cấp thêm những bằng chứng mới.


Theo báo cáo của IOM, những người có mức vitamin D 20 nanogram/1 ml máu, được cho là mức vitamin D thấp, có liên quan đến nguy cơ phát triển các bệnh về xương. Trong khi theo phát hiện của Giáo sư Garland: những người có mức vitamin D thấp c̣n liên quan đến nguy cơ tử vong sớm do tất cả vấn đề sức khỏe, chứ không chỉ mắc các bệnh về xương.




Các nhà nghiên cứu cho biết, một nửa các trường hợp tử vong sớm trong nghiên cứu có liên quan đến mức thấp vitamin D trong máu (khoảng 30 nanogram/1 ml máu). Và theo ước tính của IOM, hiện có khoảng 2/3 dân số Mỹ có mức vitamin D dưới 30 nanogram/1 ml máu.


Giáo sư Garland khuyến cáo, để tăng cường sức khỏe và giảm thiểu nguy cơ tử vong sớm, mỗi người cần cung cấp vào cơ thể khoảng 4.000 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn, bạn nên thường xuyên kiểm tra mức chất 25-hydroxyvitamin D trong máu định kỳ hàng năm, nhằm xác định cụ thể liều lượng vitamin D cần bổ sung vào cơ thể.


Để bổ sung vitamin D cho cơ thể, ngoải việc tắm nắng và uống nguồn thuốc viên bổ sung, bạn cũng có thể thường xuyên tiêu thụ các loại thực phẩm giàu vitamin D như gan động vật, sữa, ḷng đỏ trứng, cá hồi, cá trích, dầu gan cá, cá ṃi đóng hộp, nấm… trong chế độ ăn hàng ngày.




Theo Nguyễn Niệm (PNO)

florida80 04-18-2019 19:09

Ph́nh Bụng… Thở Vào! - Bs Đỗ Hồng Ngọc
 
1 Attachment(s)
Ph́nh Bụng… Thở Vào! - Bs Đỗ Hồng Ngọc







Lạ, phải nói phồng ngực… thở vào hay căng ngực thở vào mới đúng chứ, v́ phổi ở trong ngực kia mà, sao lại nói “ph́nh bụng… thở vào”? Nhưng không! Phổi ở trong ngực nhưng thở vào thở ra được chủ yếu là nhờ cơ hoành, một cơ vắt ngang giữa bụng và ngực, có nhiệm vụ thụt lên thụt xuống để “bơm hơi” vào phổi như cái piston trong ống xi-lanh (seringue) vậy. V́ thế, thở bụng mới là cách thở sinh lư, tự nhiên nhất, v́ cơ hoành chịu trách nhiệm đến 80% khối lượng khí vào ra ở phổi trong khi các cơ hô hấp khác chỉ chiếm 20% thôi. Cứ quan sát một bé đang ngủ th́ biết: Nó thở đều đều, nhẹ nhàng, và… thở bằng bụng! Chỉ có cái bụng nó là ph́nh lên xẹp xuống thôi chớ cái ngực vẫn im re. Thở bụng là cách thở tự nhiên không chỉ của người mà của…mọi loài. Thử quan sát con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương… th́ biết. Nó chỉ toàn thở bằng bụng. Chỉ có cái bụng nó là ph́nh lên xẹp xuống đều đều thôi. Chỉ cần cơ hoành nhích lên nhích xuống chút xíu là đă đủ cung cấp khí cho cơ thể rồi. Khi mệt, cần nhiều oxy hơn th́ cơ hoành sẽ “thụt” mạnh hơn, nhanh hơn thế thôi. Nhớ rằng thở là chuyện b́nh thường nhưng tối quan trọng. Nhịn ăn vài tuần chưa chết, nhịn uống vài ba ngày chưa chết, nhưng không thở 5 phút th́ đă chết v́ thiếu dưỡng khí. Ai cũng phải thở, lúc nào cũng phải thở và ở đâu cũng phải thở. Người già càng cần biết cách thở… nếu muốn sống lâu và ít bệnh tật, ít ốm đau vặt.


Gần đây phương pháp thở bụng, thở cơ hoành (abdominal breathing, diaphragmatic breathing) được các bác sĩ Dean Ornish, Deepak Chopra ở Mỹ quảng bá và áp dụng trong điều trị các bệnh tim mạch, các bệnh do hành vi lối sống gây ra có hiệu quả tốt. Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, ở phương Đông, đức Phật cũng đă hướng dẫn cách thở này gọi là Anapanasati (An ban thủ ư) cũng gọi là “quán niệm hơi thở” chẳng những mang lại sức khỏe dẻo dai mà c̣n giúp thân tâm an lạc.






Đặt tay lên bụng. Khi hít vào thấy bụng… ph́nh lên là đúng





Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phồi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Trouvet, Grenoble. Thời đó bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948 ông phải chịu mổ 7 lần, cắt bỏ 8 cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống chừng hai năm nữa thôi. Trong thời gian nằm chờ chết, ông đă t́m ra một phương pháp… thở bụng để tự chữa bệnh cho ḿnh sau khi tham khảo đông tây kim cổ, và kết quả là ông đă sống đến tuổi 85 mới chết (1997), nghĩa là sống thêm được 50 năm nữa, họat động tích cực, năng nổ trong nhiều lănh vực! Chuyện khó tin nhưng có thật!




Tôi may mắn quen biết ông trong nhiều năm. Với tôi, ông vừa là đồng nghiệp, là đàn anh mà cũng là người thầy. Ông thường trao đổi với tôi điều này điều khác, về công việc viết lách, giảng dạy, và về phương pháp thở “dưỡng sinh” của ông. Trao đổi không chỉ về cơ thể học, sinh lư học mà cả về tâm lư học, đạo học. Tôi phục ông ốm nhom mà làm việc thật dẻo dai, bền bĩ, gần như không biết mệt mỏi. Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc… thấy uể oải, hụt hơi, th́ một người chỉ c̣n hai phần ba lá phổi, chỉ c̣n gần một nửa “dung tích sống” như ông lại vẫn ung dung, thư thái. Ông nói với tôi sau này khi ông mất đi, điều quan trọng ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ mà chính là bài vè dạy thở chỉ với 12 câu của ông.

Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở bụng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:


Thót bụng thở ra
Ph́nh bụng thở vào
Hai vai bất động
Chân tay thả lỏng
Êm chậm sâu đều
Tập trung theo dơi
Luồng ra luồng vao

B́nh thường qua mũi

Khi gấp qua mồm

Đứng ngồi hay nằm

Ở đâu cũng được

Lúc nào cũng được!

(Nguyễn Khắc Viện)


Người già hay đau vặt, hay mệt mỏi, cảm thấy hụt hơi, đuối sức, có thể áp dụng phương pháp thở bụng này sẽ thấy có hiệu quả, tăng sức bền, tăng dẻo dai. Do tuổi cao, người già ít có dịp vận động toàn thân, chạy nhảy leo trèo như hồi trẻ, th́ nằm trên giường tập thở bụng –ph́nh lên xẹp xuống- cũng là cách tốt. Nếu biết vừa thở vừa quan sát nó – tức “quán niệm hơi thở” – nhớ nghĩ về nó… th́ dần dần tâm sẽ được thanh tịnh, bớt buồn phiền, lo âu.


Không cần phải ráng sức, gắng sức chi cả. Chỉ cần chuyên cần, kiên nhẫn để tạo thành thói quen thế thôi. Có người v́ muốn cho mau thành công, ráng sức quá th́ sẽ dẫn đến … choáng váng, chóng mặt, tê rần… Tại sao? Tại v́ đă ráng, cố ép, th́ sẽ gây rối loạn sự điều hoà tự nhiên của cơ thể. Cho nên người nào “ham hố” quá, ráng “luyện công” quá, thường dễ bị “tẩu hỏa nhập ma”! Người có bệnh mạn tính càng không nên ráng. Kiên tŕ, chừng vài ba tháng mới quen, mới thấy hiệu quả. Nếu đang chữa bệnh nào đó ( tăng huyết áp, tiểu đừơng…) th́ vẫn phải dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.




Bs Đỗ Hồng Ngọc

florida80 04-19-2019 18:10

Bạn biết ǵ về hội chứng thoát vị đĩa đệm?



Yoga có thể không c̣n xa lạ ǵ với bạn. Bạn vốn biết yoga có lợi việc kiểm soát cân nặng hay giữ vóc dáng cơ thể nhưng liệu bạn có biết rằng yoga cũng rất tốt cho hội chứng thoát vị đĩa đệm?

Bạn biết ǵ về hội chứng thoát vị đĩa đệm?

Hội chứng thoát vị đĩa đệm có thể xảy đến với bất cứ ai ở bất kỳ thời điểm nào trong đời, gây ảnh hưởng đến đĩa đệm cột sống của bạn. Đĩa đệm cột sống là một mô mềm nằm giữa hai xương cột sống. Cột sống được cấu thành bởi đĩa đệm cột sống và xương cột sống sẽ tạo nên cột sống.

Khi mắc hội chứng thoát vị đĩa đệm bạn có thể bị đau ở lưng, cổ, hoặc các bộ phận khác có liên quan đến các khu vực này như chân, vai, cánh tay, bàn tay. Cơn đau có thể đến từ các dây thần kinh bị kích thích hoặc do co thắt cơ bắp.

Tác dụng ưu việt của yoga

Yoga là dạng hoạt động thể chất cổ xưa đă được áp dụng và phát triển trong nhiều năm. Phương pháp này dạy cho bạn cách sử dụng chính cơ thể ḿnh để:
•Giảm đau;
•Cải thiện sự linh hoạt và sức khoẻ;
•Thư giăn;
•Biết được những giới hạn của bản thân.

Đối với hội chứng thoát vị đĩa đệm, yoga có thể hữu ích khi được áp dụng đúng cách. Yoga có thể giúp cải thiện hội chứng thoát vị đĩa đệm bằng cách tăng cường sức mạnh lên các cơ. Một số tư thế yêu cầu bạn phải giữ yên cơ thể trong vài giây hoặc lâu hơn, giúp cơ của bạn khỏe mạnh hơn. Cơ bắp khỏe mạnh sẽ tăng cường cho cột sống, do đó đĩa đệm bị tổn thương của bạn không phải chịu quá nhiều áp lực.

Yoga yêu cầu bạn phải giữ yên các tư thế trong một hai phút. Trong quá tŕnh đó, một số cơ được thư giăn và một số cơ sẽ được kéo căng. Cơ bắp được kéo căng có thể tăng giới hạn chuyển động, khiến bạn cảm thấy dễ dàng hơn trong việc di chuyển lưng và cổ của ḿnh.

Yoga có thể tăng cường việc bổ sung chất dinh dưỡng cho đĩa đệm, thúc đẩy quá tŕnh lành bệnh;

Yoga chỉ cho bạn cách bạn giữ cơ thể ở một tư thế đúng. Cơ thể bạn khi được giữ ở một tư thế đúng sẽ giúp giảm áp lực lên đĩa đệm.

Yoga nâng cao nhận thức của người tập về giới hạn của bản thân, giúp bạn biết những ǵ ḿnh có thể làm và những ǵ ḿnh không thể. Điều này có thể ngăn chặn đĩa điệm khỏi các t́nh trạng xấu hơn hoặc bị thương tổn một lần nữa.

Cuối cùng, yoga giúp bạn kiểm soát cân nặng. Trọng lượng dư thừa có thể gây áp lực nhiều hơn lên đĩa đệm.

Các bài tập yoga dành cho hội chứng thoát vị đĩa đệm

Có nhiều loại yoga. Tùy thuộc vào mục tiêu hoặc t́nh trạng sức khỏe, bạn có thể chọn một hoặc nhiều loại yoga thích hợp cho ḿnh. Tuy nhiên, bạn có thể thử các loại sau để cải thiện hội chứng đĩa đệm:

Iyengar yoga

Iyengar yoga là một loại yoga nhẹ nhàng, tập trung vào sự liên kết của cơ thể và giúp bạn linh hoạt hơn. Loại yoga này phù hợp cho những người có hội chứng đĩa đệm gây ra các vấn đề về cổ hoặc lưng bởi v́ nó giúp thay đổi các chuyển động.

Viniyoga

Viniyoga cũng là một dạng yoga nhẹ nhàng, tập trung vào sự linh hoạt và cho phép bạn kiểm soát hơi thở qua cơ thể của bạn. Nhờ tính dễ thích nghi mà loại yoga này có thể được sử dụng cho những người có hội chứng đĩa đệm.

T́nh trạng đĩa đệm như thế nào th́ tuyệt đối không nên tập yoga?

Mặc dù yoga an toàn đối với hầu hết mọi người, nhưng bạn nên cẩn thận nếu t́nh trạng của bạn rơi vào các trường hợp dưới đây:
•Nếu hội chứng thoát vị đĩa của bạn liên quan tới các vấn đề về cột sống khác như sự thu hẹp của ống sống, bạn không nên tập các tư thế đ̣i hỏi phải uốn lưng hoặc di chuyển cổ;
•Nếu bị thoát vị đĩa đệm vùng cổ th́ bạn không nên thực hiện những tư thế đ̣i hỏi phải trồng chuối hoặc tác động mạnh lên vai;
•Không nên tập những tư thế mà huấn luyện viên của bạn không cho phép.

Làm thế nào để t́m được một huấn luyện viên yoga tốt?

Bạn đang bị hội chứng thoát vị đĩa đệm có nghĩa là t́nh trạng sức khỏe của bạn khá đặc biệt, cần cẩn thận trong việc chọn huấn luyện viên phù hợp để giúp bạn cải thiện hội chứng mà không làm xấu đi t́nh trạng hoặc gây ra các tổn thương khác. Đây là một số mẹo có thể giúp bạn t́m được huấn luyện viên thích hợp:
•Yêu cầu các trung tâm yoga hoặc bác sĩ chọn cho bạn một giáo viên yoga đă từng làm việc với những người mắc hội chứng thoát vị đĩa đệm bởi trong trường hợp này, kinh nghiệm và tŕnh độ chuyên môn rất quan trọng;
•Yêu cầu giáo viên yoga có kinh nghiệm hoặc giấy phép hành nghề, đồng thời hỏi xem liệu người đó đă thực hiện bất kỳ lớp học hoặc chương tŕnh giảng dạy cho những người mặc hội chứng thoát vị đĩa đệm bao giờ chưa;
•Bạn nên quan sát hoặc học thử một buổi học của giáo viên này trước khi đưa ra quyết định. Hăy nhớ xem cách họ dạy cho cả lớp và từng cá nhân để có kết luận chính xác cho bản thân.

Những ǵ bạn cần chú ư?

Để các bài tập yoga có hiệu quả, bạn nên chú ư những điều sau:
•Giải thích t́nh trạng sức khỏe của bạn với huấn luyện viên yoga để họ có thể xác định chương tŕnh tập phù hợp cho bạn;
•Mặc quần áo thoải mái;
•Chuẩn bị một tấm thảm tập yoga để tránh bị trượt trong quá tŕnh tập, bóng tập yoga, khối yoga, hoặc dây đai để hỗ trợ các bài tập. Dụng cụ sẽ được dựa trên các bài tập yoga của bạn.
•Uống nước để tránh mất nước.

V́ cơ thể của bạn cần thời gian để thích nghi, hăy tập yoga vừa phải và đều đặn.

Yoga là một h́nh thức tập luyện thể chất tuyệt vời, không chỉ tốt cho vóc dáng cơ thể, hệ thống hô hấp và trái tim của bạn mà c̣n được biết đến như một phương pháp điều trị hội chứng thoát vị đĩa đệm. Tuy nhiên, giống như các hoạt động thể chất khác, bạn nên cẩn thận để t́nh trạng bệnh không tệ hơn

florida80 04-19-2019 18:12

Tăng cường hệ miễn dịch nhờ trị liệu thần kinh cột sống
 



Tăng cường hệ miễn dịch nhờ trị liệu thần kinh cột sống


Tác giả: Ban biên tập HelloBACSI

Tham vấn y khoa: Lê Thị Mỹ Duyên





Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Opens in new window)





Tăng cường hệ miễn dịch nhờ trị liệu thần kinh cột sống


Trị liệu thần kinh cột sống là một phương pháp trị liệu giúp giảm đau lưng và nhiều cơn đau khác. Nhưng bạn có biết rằng liệu pháp này cũng có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch? Đă có nhiều nghiên cứu về chủ đề này và các kết quả đă chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa trị liệu thần kinh cột sống và việc tăng cường hệ miễn dịch. Mặc dù cần phải có nhiều nghiên cứu sâu hơn nhưng đề tài này rất hứa hẹn sẽ mang lại một kết quả khả quan.

Trị liệu thần kinh cột sống là ǵ?

Trị liệu thần kinh cột sống chủ yếu được dùng để giảm đau ở cơ, xương, khớp và các mô liên kết. Những nhà trị liệu thần kinh cột sống sẽ sử dụng tay để điều chỉnh cơ thể thông qua việc nắn chỉnh cột sống. Với những kỹ thuật riêng, trị liệu thần kinh cột sống có thể điều trị nhiều loại rối loạn cơ xương. Mục đích của phương pháp này là để cải thiện các vấn đề về mô liên kết, giảm đau, và hỗ trợ khả năng tự lành của cơ thể mà không cần thuốc hoặc phẫu thuật.

Trị liệu thần kinh cột sống thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp trị liệu khác để điều trị các bệnh mạn tính. Trị liệu thần kinh cột sống không chỉ là nắn chỉnh cột sống mà nó c̣n hướng dẫn cho bạn các tư thế tập thể dục, một số cách để thích nghi với cuộc sống khi mang trong ḿnh căn bệnh măn tính (tư thế đi, đứng và ngồi để ngăn ngừa cơn đau trở lại), tư vấn dinh dưỡng, và thậm chí cả siêu âm và trị liệu bằng laser.

Trị liệu thần kinh cột sống tác động đến hệ miễn dịch thế nào?

Để trả lời câu hỏi này, bạn cần phải biết cơ chế hoạt động của cơ thể.

Trị liệu thần kinh cột sống giúp điều ḥa hệ thống thần kinh tự chủ, cụ thể là bộ năo, tủy và dây thần kinh cột sống của bạn. Nó c̣n tương tác với hệ nội tiết và hệ miễn dịch của bạn để điều chỉnh các phản ứng hóa học giúp giữ cho bạn khỏe mạnh. Nếu cột sống bị lệch có thể gây tắc nghẽn đường thần kinh và ảnh hưởng đến các cơ quan trong cơ thể của bạn do dây thần kinh đó chi phối. V́ hệ thống thần kinh của bạn được liên kết với các cơ quan thuộc hệ miễn dịch như lách, hạch bạch huyết và tủy xương. V́ vậy nó ảnh hưởng đến cơ chế phản ứng miễn dịch của cơ thể. Cột sống bị lệch không chỉ gây đau đớn mà c̣n có thể gây cản trở chức năng và hiệu quả của hệ miễn dịch.

Một nghiên cứu của tiến sĩ Ronald Pero, giám đốc pḥng nghiên cứu chống ung thư tại Viện Y tế dự pḥng New York và cũng là giáo sư ngành sức khỏe môi trường tại Đại học New York đă chứng minh rằng có một mối liên hệ giữa các loại chấn thương cột sống và ung thư. Những người bị chấn thương cột sống có tỷ lệ mắc u lympho và bệnh bạch cầu cấp rất cao. Thông qua nghiên cứu của ḿnh, ông đă nhận thấy rằng những bệnh nhân tiếp nhận chăm sóc trị liệu thần kinh cột sống dài hạn có chức năng hệ miễn dịch cao hơn 200% so với những người không được điều trị. Và chức năng hệ miễn dịch của những bệnh nhân bị ung thư hoặc các bệnh nghiêm trọng có thể tăng lên đến 400%.

Hiện nay vẫn chưa kết luận được rằng trị liệu thần kinh cột sống có thể chữa rối loạn hệ miễn dịch. Nhưng nó có thể giúp cải thiện hệ miễn dịch tuy vẫn c̣n cần nhiều nghiên cứu sâu hơn. Trị liệu thần kinh cột sống không thể thay thế được bất kỳ phương pháp điều trị ung thư hay các loại thuốc bác sĩ kê đơn. Bạn nên hỏi ư kiến bác sĩ xem liệu trị liệu thần kinh cột sống có lợi với t́nh h́nh hiện tại của bạn không.

Trị liệu thần kinh cột sống có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch của bạn, nhưng hiện tại th́ tác dụng chính của phương pháp này vẫn là giảm đau và điều chỉnh cột sống. V́ vậy, liệu pháp trị liệu thần kinh cột sống vẫn là phương pháp tối ưu nhất khi bạn gặp phải các vấn đề về cột sống và bên cạnh đó, bạn c̣n có thể tăng cường hệ miễn dịch của bản thân.

florida80 04-19-2019 18:15

Giảm đau đầu gối từ 5 bí quyết của nhà vật lư trị liệu
 
Giảm đau đầu gối từ 5 bí quyết của nhà vật lư trị liệu

Đây là một bài viết được tài trợ. Để biết thêm thông tin về chính sách Quảng cáo và Tài trợ của chúng tôi, vui ḷng đọc thêm tại đây.


Tác giả: Huệ Trang

Tham vấn y khoa: Lê Thị Mỹ Duyên











Giảm đau đầu gối từ 5 bí quyết của nhà vật lư trị liệu


Thông thường, cơn đau đầu gối không cần can thiệp bằng biện pháp phẫu thuật mà chúng thường dịu đi sau những bài vận động phù hợp.

Đau đầu gối là trở ngại lớn đối với những hoạt động thường ngày của người bệnh. Để giảm đau hiệu quả, bạn có thể áp dụng một số mẹo giảm đau được đúc kết từ kinh nghiệm của các nhà vật lư trị liệu dưới đây nhé!

Đừng nghỉ ngơi quá nhiều

Bạn thường cảm thấy rằng đầu gối đỡ đau hơn khi nằm thư giăn trên giường và không hoạt động. Tuy nhiên, nghỉ ngơi quá nhiều làm cơ xương yếu dần, khiến đầu gối của bạn chịu nhiều áp lực hơn, từ đó cơn đau trở nên tệ hơn. V́ vậy, bạn hăy t́m bài tập thể dục phù hợp và duy tŕ thói quen tập luyện hằng ngày. Nếu bạn không biết đâu là bài tập phù hợp và hiệu quả với chứng đau đầu gối của ḿnh, bạn có thể tham khảo ư kiến bác sĩ.

Đồng hành cùng những bài tập phù hợp

Tập thể dục và vận động thích hợp rất quan trọng. Những bài tập thể dục dành cho đầu gối bao gồm bài tập tăng sức mạnh cơ, bài tập kéo giăn, bài tập giảm đau và những bài tập nhẹ nhàng, ít đặt quá nhiều áp lực lên gối. Những bài thể dục này sẽ gia tăng sức mạnh, tính linh hoạt của cơ và tăng khả năng vận động của khớp. Duy tŕ tập thể dục c̣n giúp bạn pḥng ngừa những chấn thương và rối loạn trong tương lai.

Tùy thuộc vào trường hợp bệnh của bạn mà bác sĩ chuyên khoa sẽ sử dụng phương pháp điều trị phù hợp. Đi bộ, bơi lội là những hoạt động phù hợp. Chạy có thể không mang lại hiệu quả v́ chúng khiến đầu gối bạn chịu nhiều áp lực. Ngoài ra, bạn nên áp dụng những bài tập thể dục riêng cho đầu gối. Chuyên gia y khoa sẽ hướng dẫn bạn thực hiện những bài tập đó.

Kiểm tra giày

Giày của bạn có khả năng đàn hồi, nhờ đó giúp hạn chế những chấn thương trong quá tŕnh tập luyện. Bạn nên chọn loại giày phù hợp với ḿnh. Chẳng hạn, bạn không nên sử dụng giày dùng cho bộ môn quần vợt để đi bộ. Nếu bạn mắc chứng thoái hóa khớp, bạn nên mang loại giày phù hợp và thoải mái nhất.

Lắng nghe cơ thể

Tập thể dục đúng cách không làm xuất hiện những cơn đau trong quá tŕnh luyện tập. Tuy nhiên, bạn có thể cảm thấy đau nhẹ và không thoải mái ngay khi mới bắt đầu. Đây hoàn toàn là dấu hiệu b́nh thường. Cơn đau thường sẽ xuất hiện khi những cơ bắp trong cơ thể bạn bắt đầu phải hoạt động mạnh hơn b́nh thường. Đây là hiện tượng tự nhiên và bạn không cần phải dừng luyện tập v́ nó.

Nếu bạn cảm thấy quá đau hay cơn đau ngày càng tệ hơn, hăy trao đổi vấn đề này với bác sĩ chuyên khoa. Đầu gối của bạn có nguy cơ mắc phải nhiều vấn đề hay bài tập đó không phù hợp với bạn. Đừng cố gắng gượng ép cơ thể quá mức.

Sử dụng thuốc khi cần

Bạn không nên tự ư dùng thuốc giảm đau mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ. Nếu đây là lần đầu tiên bạn đau đầu gối, bạn nên t́m đến bác sĩ chuyên khoa trị liệu thần kinh để t́m ra nguyên nhân chính xác và điều trị tận gốc. Bác sĩ sẽ khám bệnh và chụp một số h́nh ảnh đầu gối của bạn. Nếu bạn đang tiến hành vật lư trị liệu, bác sĩ sẽ đưa ra những bài tập an toàn và hiệu quả cho bạn. Bạn cần phải nói với bác sĩ nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào xuất hiện. Đừng nên tŕ hoăn v́ điều này có thể khiến t́nh trạng của bạn thêm nghiêm trọng.

Chuyên khoa trị liệu thần kinh cột sống được xem là nơi an toàn để bạn nhận được sự tư vấn về các bài tập và phương pháp điều trị phù hợp với ḿnh khi bị đau đầu gối. Bạn có thể tham khảo những lời khuyên trên để giúp quá tŕnh điều trị trở nên hiệu quả hơn nhé.

florida80 04-19-2019 18:17

Bài Tập Yoga Chữa Bệnh Đau Lưng Đơn Giản Hiệu Quả
 
Bài Tập Yoga Chữa Bệnh Đau Lưng Đơn Giản Hiệu Quả





Phương pháp chữa đau lưng bằng yoga không phải là phương pháp mới nhưng cũng rất ít người biết đến phương pháp này. Với yoga bạn không những có thể khỏe mạnh với cột sống lưng mà c̣n giúp cơ thể trở nên dẻo dai hơn, yoga cũng giúp tinh thần bạn thoải mái hơn.






Bài viết này hướng dẫn bạn một số động tác yoga mà có tác dụng đẩy lùi chứng đau lưng hiệu quả. Bạn có thể vừa đọc bài vừa áp dụng theo.






Động tác 1 : Động tác với tư thế rắn hổ mang (cobra pose)





Tư thế rắn hổ mang là tư thế tốt và hiệu quả nhất đối với người mắc bệnh đau lưng. Nó kéo dài cột sống của bạn về sau đem lại thoải mái cho người tập. Với động tác này nên mở duỗi thẳng hai chân, tay chống xuống sàn, mở rộng vai và mặt nh́n lên trên. Giữ động tác và thở nhịp nhàng nó sẽ giúp bạn giảm căng thăng ở phần lưng.











02. Tư thế đứa trẻ (child’s pose)



Động tác này làm giảm đau cổ và lưng tốt. Động tác này yêu cầu hai tay để ra sau, gập chân và đầu chạm đất, đồng thời nên giữ thẳng lưng.










03. Kỹ thuật thở con mèo (cat breathing)




Với tư thế này, nó sẽ giúp bạn làm căng và thư giăn phần lưng. Khi thực hiện động tác này nên hít thở nhịp nhàng theo từng cử động.











04. Tư thế nằm yên thư giăn vùng lưng (corpse pose).




Động tác này chỉ cần nằm yên trên một mặt phẳng và thả lỏng cơ thể, bạn đă có thể giảm thiểu những cơn đau. Với những người mắc chứng đau lưng, tránh việc nằm gập người trên ghế, hay bất cứ đâu. Nếu nằm trong thời gian dài, chắc chắn bạn sẽ phải trả giá.










05. Tư thế gập người về phía trước (forward bend)




Các bạn thực hiện động tác này chính xác và thường xuyên, th́ bạn có thể làm giảm những cơn đau ở phía thắt lưng. Khi mới tập, cơ và chân tay vẫn c̣n cứng khiến bạn khó gập người. Tuy nhiên, hăy duy tŕ đều đặn bạn sẽ thực hiện chính xác giống động tác trong h́nh.










06. Tư thế con lạc đà (camel pose).


Động tác này giúp lưng bạn được thư giăn sau những giờ làm việc căng thẳng trong ngày. Khi thực hiện tư thế này, đừng quên hít thở đều đặn.




Dù bạn có bệnh đau lưng hay không th́ yoga cũng là một phương pháp tập luyện mà bạn nên tập giúp cho sức khỏe dẻo dai, đặc biệt với phụ nữ sẽ có một thân h́nh cân đối.







florida80 04-19-2019 18:20

Ruột Quá Nhạy Cảm (Irritable Bowel Syndrome) Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
 
Ruột Quá Nhạy Cảm (Irritable Bowel Syndrome) Bác sĩ Nguyễn Văn Đức











Kể ra, có một cô người yêu nhạy cảm quá cũng khó ḷng. Đầu năm, mới lỡ lời một chút, nàng đă ngúng nguẩy, nước mắt như mưa. Đến ngày Valentine, hơi chậm mua quà t́nh yêu cho nàng, nàng phụng phịu, mặt mũi đăm đăm. Ôi, cuộc đời đau khổ.




Trong vườn ḷng mỗi người chúng ta, cũng có một cô nàng. Nàng “Ruột”. Nàng dễ chịu, ta nhờ. Nàng nhạy cảm quá, cuộc đời ta khổ sở: cho nàng ăn chút thức lạ, nàng tiêu chảy, không cho nàng ăn đủ chất bă, nàng bón, rồi nàng kêu rên, làm ta đau.

10-15% người lớn chúng ta lụy v́ chứng ruột quá nhạy cảm. Ruột quá nhạy cảm xảy ra nhiều ở người trẻ và người tuổi trung niên (middle-aged). Phụ nữ bị chứng này gấp 2 lần nam giới. Trong các bệnh của đường tiêu hóa, chứng ruột quá nhạy cảm xảy ra nhiều nhất, số người nghỉ làm việc v́ nó chỉ sau có cảm, tốn kém hàng năm lên đến 30 tỉ đô-la.

Triệu chứng

Triệu chứng của bệnh rất nhiều, gồm những triệu chứng tiêu hóa và những triệu chứng ngoài đường tiêu hóa. Bệnh gây đau bụng và thay đổi thói quen đi cầu, tiêu chảy hoặc bón.




- Bụng đau, hoặc khó chịu kinh niên:

Người bệnh hay đau quặn vùng bụng dưới, thường phía bên trái. Cơn đau dịu đi sau khi đi cầu hay đánh hơi. Đau cũng có thể xảy ra ở bất cứ vùng nào khác của bụng, khiến dễ lầm với các bệnh khác của đường tiêu hóa. Chẳng hạn, nếu đau ở vùng bụng trên, bác sĩ dễ định sai là bệnh bao tử. Hoặc nếu đau ở vùng túi mật bụng trên bên phải, bác sĩ có thể nghi nhầm người bệnh đau v́ có sạn túi mật.




- Tiêu chảy:

Tiêu chảy hay xảy ra vào buổi sáng lúc mới tỉnh giấc, hoặc sau khi ăn sáng. Phân lỏng và như có đàm. Thường, khi đă trả nợ tiêu hóa 3, 4 lần vào mỗi sáng, người bệnh mới cảm thấy dễ chịu và yên tâm làm việc. Cũng có người tiêu chảy lai rai cả ngày. Tiêu chảy hiếm khi xảy ra vào ban đêm.

Có người diễn tả phân không lỏng, nhưng nát, không thành khuôn, hoặc rất dính và mảnh như “cây bút ch́” (pencil-like). Người bệnh hay có cảm giác đi cầu không đă, đi chưa hết phân, bụng lúc nào cũng như đầy hơi, ph́nh to. Có vị mót cầu là phải đi ngay, không thể nín nhịn chờ lúc khác thuận tiện hơn. Nhiều người không dám đi đâu, hoặc chỉ rời nhà khi biết chắc có pḥng vệ sinh nào gần đấy trên lộ tŕnh.

Tiêu chảy xảy ra lai rai nhiều tuần, nhiều tháng, rồi tự nhiên biến mất. Sau một thời gian dài ngắn khó biết, nó xuất hiện trở lại làm khổ người bệnh.




- Bón:

Nhiều người thay v́ tiêu chảy, lại bón, cả tuần đi cầu chỉ 1, 2 lần. Phân cứng quá, hoặc thành những cục nhỏ như phân dê.



Một số vị nuôi cả thỏ lẫn rùa trong… vườn ḷng: lúc thỏ chạy, tiêu chảy liên tiếp nhiều tuần lễ, khi rùa ḅ, bón ơi là bón. Cũng có lúc thỏ và rùa cùng đi nghỉ mát, các vị nhẹ nhơm, thoải mái được một thời gian.




Người mang chứng ruột quá nhạy cảm cũng hay than đầy hơi, nóng ngực (heartburn), khó nuốt, buồn nôn, đau ngực, và những triệu chứng ngoài đường tiêu hóa: đau lưng, yếu mệt, chóng mặt, hồi hộp, đau nhức toàn thân, rối loạn t́nh dục, đau lúc giao hợp, đi tiểu nhiều lần, khó nín tiểu, …




Người mang chứng ruột quá nhạy cảm đi khám bác sĩ thường hơn, đ̣i hỏi bác sĩ làm nhiều trắc nghiệm hơn, dùng nhiều thuốc hơn, nghỉ việc nhiều hơn, năng suất làm việc kém hơn, hay vào nhà thương hơn, tiêu tốn nhiều chi phí y tế hơn so với người mang những bệnh khác.




Tuy triệu chứng hoặc liên tục, hoặc cứ tái đi tái lại nhiều tháng năm như vậy, nhưng người bệnh không xuống cân, không nóng sốt, không đi cầu ra máu, về đêm vẫn ngủ ngon, không bị phiền v́ các triệu chứng (những điểm quan trọng để phân biệt với các bệnh khác như ung thư ruột già, cường tuyến giáp trạng, …). Triệu chứng hay xảy ra hơn vào những khoảng thời gian người bệnh căng thẳng về tinh thần.




Người ta cho rằng “nàng Ruột” trong vườn ḷng chúng ta, nếu nhạy cảm, lúc hoạt động quá mức, lúc lại ỳ ra không làm việc, là do sự xáo trộn cơ năng vận chuyển (motility disorder) của hệ thống tiêu hóa. B́nh thường, hoạt động điều ḥa từ trên xuống dưới của hệ tiêu hóa do những co bóp nhịp nhàng, phối hợp của bao tử và các khúc ruột nối liền nhau. Sự xáo trộn cơ năng trong chứng ruột quá nhạy cảm khiến sự co bóp, chuyển động của bao tử và ruột rối loạn. Chuyển động của ruột hoặc giảm đi (gây bón), hoặc tăng lên (gây tiêu chảy). Các nhà “ruột học” nhận thấy nhu động của ruột tăng lên vào những lúc tinh thần ta căng thẳng. C̣n tại sao người có chứng ruột quá nhạy cảm hay đau bụng? Có lẽ v́ người bệnh có những cảm nhận bất thường với những hoạt động của các cơ quan bên trong cơ thể, trong khi người thường, cũng với những hoạt động của ruột như vậy, không cảm thấy đau.

Định bệnh

Theo tiêu chuẩn định bệnh gọi là “Rome criteria III”, do một nhóm các nhà nghiên cứu đưa ra, một người mang chứng ruột quá nhạy cảm, khi đau hoặc khó chịu bụng, liên tục hoặc tái phát, ít nhất 3 ngày một tháng đă 3 tháng qua, và có thêm 2 hay nhiều hơn các triệu chứng kể sau:

- Đi cầu xong bớt đau, khó chịu bụng.

- Số lần đi cầu bất thường.

- Phân không b́nh thường: hoặc lỏng, như nước, hoặc cứng quá, thành từng cục nhỏ.

Ruột quá nhạy cảm và một số bệnh khác gây triệu chứng giống nhau. Đi khám bệnh, giúp bác sĩ, bạn kể bệnh rơ ràng, rành mạch, chúng ta khỏi đi sai đường. Bạn kể rơ bạn ăn có ngon miệng, có xuống cân, có nóng sốt, đi cầu ra máu không.




Tùy triệu chứng, thời gian bạn có triệu chứng, và hạn tuổi của bạn, sau khi thăm khám, bác sĩ có thể sẽ cho bạn thử máu, thử phân, chụp phim hoặc soi đường tiêu hóa. Chẳng hạn, với người trên 50 tuổi, v́ dễ có ung thư ruột già, nên bác sĩ thường cho soi ruột già để t́m ung thư. Ngược lại, ở người trẻ tuổi, ung thư ruột già rất hiếm, nếu không có những chỉ dấu báo động như thiếu máu, xuống cân, không có người thân trong gia đ́nh bị ung thư ruột già, soi ruột già thường không cần thiết.




Các thử máu C-reactive protein, IgA antibody to tissue transglutaminase cần làm để t́m một số bệnh đường tiêu hóa khác gây triệu chứng tương tự bệnh ruột quá nhạy cảm. Bệnh cường tuyến giáp trạng (hyperthyroidism) cũng cho những rối loạn tiêu hóa khó phân biệt với chứng ruột quá nhạy cảm. Thử máu, có thể chẩn đoán bệnh cường tuyến giáp trạng dễ dàng.




Với những người bệnh có triệu chứng tiêu chảy thời gian gần đây mới đi du lịch một quốc gia c̣n đang phát triển, ta cần thử phân để t́m kư sinh trùng. Nhiều bệnh kư sinh trùng (chúng ta hay gọi nôm na là bệnh sán lăi) cho các triệu chứng giống chứng ruột quá nhạy cảm.




Trong chứng ruột quá nhạy cảm, kết quả các thử nghiệm đều b́nh thường. Chúng ta yên tâm các triệu chứng không phải do một bệnh nguy hiểm nào khác, và có thể tiến hành chữa trị.

Chữa trị

Sự chữa trị chứng ruột quá nhạy cảm cần sự kiên nhẫn và hiểu biết, của cả bác sĩ lẫn người bệnh, để người bệnh khỏi sợ hăi, và không đặt ra những kỳ vọng khó thể đáp ứng. Nếu không, người bệnh, vừa tốn công, vừa tốn của, sẽ tiếp tục đi t́m măi một Hoa Đà, Biển Thước không bao giờ gặp, với hy vọng sẽ có người chữa khỏi chứng này.

Sự chữa trị nhắm mục đích làm giảm triệu chứng, và bác sĩ nên quan tâm đến sự lo âu của người, t́m hiểu tại sao người bệnh t́m đến chữa trị vào lúc này: triệu chứng nặng hơn (do mới dùng một thuốc nào đó, do thay đổi thực phẩm ăn uống hàng ngày), sợ bị ung thư, người bệnh có thêm vấn đề về tâm thần, vân vân.

Chứng ruột quá nhạy cảm có 3 mức độ: nhẹ (mild), vừa (moderate), và nặng (severe).




Mức độ nhẹ

70% số người bị chứng ruột quá nhạy cảm có triệu chứng nhẹ thôi: các triệu chứng không hay xảy ra, họ vẫn sinh hoạt như thường mỗi ngày, với tinh thần b́nh thường, lành mạnh. Nhiều người cũng chẳng đi khám bác sĩ.




Sau khi định bệnh đă rơ rệt, người bệnh được trấn an là chứng ruột quá nhạy cảm không đưa đến ung thư hay các bệnh nguy hiểm khác. Và bác sĩ giải thích: chứng này, như đa số các trường hợp nhức đầu, tuy lành, nhưng là chứng kinh niên, và với tŕnh độ y học hiện tại của nhân loại, chưa có phương cách chữa khỏi. Dẫu vậy, sự chữa trị sẽ giúp các triệu chứng thuyên giảm. Người bệnh được khuyên đừng nên quá bận tâm, và coi các triệu chứng đau bụng, tiêu chảy, táo bón, đi phân không b́nh thường, … của ḿnh như… pha, đừng để chúng ám ảnh nhiều, ảnh hưởng đến công việc và hạnh phúc hàng ngày.




Có sự tương quan mật thiết giữa những căng thẳng tinh thần với sự xuất hiện, cũng như mức độ nặng nhẹ của các triệu chứng. Bạn nên ngủ đủ, 7-8 tiếng mỗi đêm, đúng giờ giấc. Những hoạt động làm giảm căng thẳng tinh thần, như thể thao, các thú vui lành mạnh, hoặc thường xuyên vận động, cũng giúp vào sự chữa trị rất nhiều. Đi bộ khoảng 20, 30 phút, 3-4 lần mỗi tuần là vận động nhẹ nhàng và tối thiểu nhất ai cũng có thể làm.




Đồng thời, với những phương cách sau, nhiều người có chứng ruột quá nhạy cảm nhẹ không cần đến những chữa trị tốn kém:

- Bạn chú ư tới thói quen ăn uống mỗi ngày, để ư xem thói quen hay thực phẩm nào khiến triệu chứng của bạn tăng thêm. Nên ăn uống đúng giờ giấc. Nếu bụng hay đầy hơi, bạn thử tránh ăn đậu, hành, cà rốt, chuối, mận, cần (celery), nho, apricots, mận (prunes), brussels sprouts, wheat germ, pretzels, và bagels, những thực phẩm dễ gây đầy hơi.

- Thực hiện câu: “Ăn để sống, chứ không sống để ăn”. Không nên ăn uống quá độ. Cũng đừng ăn uống vội vàng. V́, những cơn tiêu chảy do sự chuyển động quá nhanh của ruột. Theo một phản xạ gọi là “gastro-colic reflex” (phản xạ bao tử-ruột già), ruột chuyển động nhanh khi có nhiều thức ăn vào bao tử, bao tử ph́nh to. Phản xạ càng mạnh nếu thực phẩm ăn vào càng bề thế, nhiều năng lượng, đầy mỡ màng. Thế nên, vào những lúc tinh thần căng thẳng, bạn ăn bớt những chất mỡ màng, ăn ít một, ăn làm nhiều bữa, có khi lại hay.




Cảm giác giục giă, phải đi tiêu ngay, nếu không th́… cũng hay xảy ra sau một bữa ăn linh đ́nh. Nếu bạn không muốn phải tạt vào đâu đó để giải quyết gấp bầu tâm sự, bạn đừng ra khỏi nhà ngay sau bữa nhậu no say với bạn bè.




- Nếu bạn hay bị bón, bạn nên uống nhiều nước và thêm chất bă (fiber) vào thực phẩm. Các nhà chuyên môn nhận thấy trong thức ăn hàng ngày của những người bị chứng ruột quá nhạy cảm gây bón, thường không đủ chất bă. Chất bă có trong các loại rau, trái cây, bran, ngũ cốc nguyên hạt (whole grains), đậu (beans). Thực phẩm có chất bă có thể làm đầy hơi, nên khi mới dùng, bạn nên dùng từ từ, tăng dần lên. Nếu táo bón không bớt, bạn dùng thêm các loại thuốc cung cấp chất bă như Metamucil, Konsyl. Nhớ đừng trốn làm bổn phận với “cô nàng Ruột” của bạn. Mỗi ngày, bạn nên chọn một lúc nào đó, dành đủ th́ giờ để đi cầu.




- Ngược lại, nếu bạn hay tiêu chảy, ngoài những thức ăn mỡ màng, bạn cũng nên tránh những chất có thể kích thích ruột như thuốc lá, rượu, cà-phê, thức ăn nhiều gia vị (spicy foods). Đừng uống nhiều nước trái cây (fruit juice), hoặc ăn rau trái sống (raw fruits or vegetables). Bạn nên bớt dùng những thực phẩm có sữa (dairy products). Sữa cũng có thể gây đau bụng, đầy hơi và tiêu chảy, nhất là nếu bạn có thêm bệnh thiếu chất lactase trong ruột (lactase deficiency), một chất cần thiết để tiêu hóa chất lactose trong sữa. Bạn cũng nên thử tránh những chất ngọt giả đường (dietetic sweeteners), chẳng hạn như chất sorbitol hoặc mannitol, thường có trong kẹo, chewing-gum, các thực phẩm không có đường (sugar-free) dùng cho những người muốn xuống cân, v́ những chất này dễ gây tiêu chảy. Tuy nhiên, mỗi người một ư, mỗi bộ tiêu hóa cũng… mỗi ư. Dựa vào kinh nghiệm sau nhiều lần thử thách, bạn có thể chọn dùng những thực phẩm nào bạn thấy thích hợp nhất với cô nàng ruột khó tính của bạn.




Mức độ vừa

25% số người bị chứng ruột quá nhạy cảm có triệu chứng xảy ra thường hơn và nặng hơn trường hợp nhẹ kể trên, ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của họ.




Ngoài những phương cách vừa bàn, những trường hợp bệnh ở mức độ vừa nên dùng thêm thuốc để kiểm soát các triệu chứng. Lúc đau bụng hoặc đầy hơi, các thuốc có tác dụng chống co thắt (antispasmodic) như Donnatal, Levsin, Bentyl, … có thể giúp ta bớt đau bụng, đầy hơi. Khi tiêu chảy, các thuốc như Imodium (mua được bên ngoài không cần toa), Lomotil, … làm bớt tiêu chảy. Những lúc bón, lại cần nhờ đến các thuốc như Metamucil, Konsyl, Citrucel, … (mua không cần toa bác sĩ); nếu bón nặng quá, ta thử thuốc mới (và rất đắt) Amitiza.






Đồng thời, người có chứng ruột quá nhạy cảm mức độ vừa được khuyên nên giữ một quyển “nhật kư”, theo dơi những lúc buồn vui của cô nàng ruột, xem lúc nào cô hay đau, lúc nào cô hay bón, lúc nào cô thích tiêu chảy, để c̣n liệu định, sửa đổi thực phẩm, cuộc sống hàng ngày cho vừa ḷng cô. Triệu chứng hay xảy ra lúc ta lo âu, buồn phiền ư? Vậy hăy “quẳng gánh lo đi mà vui sống”, tập những kỹ thuật giúp ta quên bớt đời sống căng thẳng hàng ngày (relaxation techniques).




Mức độ nặng

Khoảng 5% số người mang chứng ruột quá nhạy cảm bị nặng quá: chẳng làm ăn ǵ, đi khám bác sĩ luôn, lúc nào cũng bị ám ảnh bởi các triệu chứng tiêu hóa của ḿnh. Nhiều người có thêm các bệnh tâm thần, như bệnh buồn sầu (depression).




Ngoài những phương cách chữa trị kể trên trong phần mức độ nhẹ và mức độ vừa, người ở mức độ nặng thường cần được chữa thêm với các thuốc chống buồn sầu (antidepressants), như các thuốc Elavil, Pamelor, Imipramine, Desipramine, … Có vị cần đến bác sĩ tâm thần, hoặc các trung tâm chuyên trị đau (pain treatment center) để xoa dịu các triệu chứng.




Trong nhờ, đục chịu. Ruột ta dễ thương, ta nhờ, ruột ta nhạy cảm quá, ta đành chịu. Với những hiểu biết về chứng ruột quá nhạy cảm, tùy trường hợp bệnh nhẹ, vừa, hay nặng, với chút thay đổi trong cách sống, và dùng thuốc khi cần, nhiều người chúng ta có chứng ruột quá nhạy cảm vẫn vui sống.




Bs Nguyễn Văn Đức

florida80 04-19-2019 18:22

Cao Niên Mà Phong Độ - Bs Nguyễn Ư Đức
 








Bác sĩ E. F. Schmerl, chuyên khoa bệnh tâm thần người cao tuổi, đă nêu ra nhận xét rằng:

“Có cả ngàn cửa ngơ đưa tới sự già trước tuổi và chết yểu. Một trong những cửa ngơ đó là dáng điệu (posture) xấu của con người”.


Các nhân vật Dần, Tỵ, Hợi trong tác phẩm “Nhà Quê Ra Tỉnh” của nhà biên khảo Đoàn Thêm, khi nói về lớp người lớn tuổi mấy chục năm về trước, th́ “đều phàn nàn rằng các cụ gắng uốn nắn con cháu, mà chính ḿnh lại có những thái độ hoặc cử động không ngoạn mục chút nào. Đi, đứng, ngồi th́ bệ vệ như quan to, hoặc co ro khúm núm, hoặc nghiêm trang trịnh trọng quá đến nỗi thành cụ non từ khi ba bốn mươi tuổi. Nhiều ông mới chừng 50 đă c̣ng lưng, bước đi th́ lê gót với đôi giầy ta lẹp kẹp”.


Xin hăy cùng t́m hiểu thêm về vấn đề này.

Dáng điệu con người.




H́nh dáng con người là tặng phẩm của tạo hóa, nhưng tư thế, điệu bộ là do ḿnh tạo ra. Ta có thể thay đổi nó, kiểm soát nó.




Từ Hải với “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” mà nếu dáng điệu so vai rụt cổ như đệ tử Nàng Tiên Nâu th́ đâu có thể “đường đường một đấng anh hào” được.




Những người mẫu thời trang đâu có phải đẻ ra là đă có dáng điệu nhẹ nhàng, thanh thoát, vững chắc. Họ phải dầy công tập luyện cũng như kiên nhẫn ǵn giữ cơ thể.




Người về già, dưới sữ dầy dạn của cuộc đời, cộng thêm lực kéo của trái đất, nếu không để ư th́ sẽ có dáng điệu không đẹp. Mỗi ngày lưng sẽ c̣ng thêm như chiếc sừng trâu, mắt dán xuống đất như đang đi t́m lại tuổi thanh xuân hay nh́n về ngôi mộ, đầu gối khum khum như sắp quỵ. Nom vừa không phong độ mà c̣n ảnh hưởng tới sức khoẻ chung của con người.




Một dáng điệu tốt là khi cơ thể ngay ngắn, ít nhất cũng như dấu chấm than ( ! ), người vươn cao lên, mắt nh́n thẳng ra chân trời.




Khi đi, mỗi bước đều dài, gọn, cả bàn chân chạm đất, hai tay vung vẩy nhịp nhàng, hai vai lui tới dẻo dai.




Khi ngồi th́ lưng thẳng, ngực ưỡn, bụng hơi thót vào.




Ôn lại bài học về môn cơ thể, ta thấy bộ xương sống là cái đà dọc chính giữa để toàn thân treo vào đó: các bộ phận, mô, ngực, bụng...




Bẩy đốt xương cổ, 12 đốt xương ngực, 5 đốt xương lưng, 9 đốt xương hông xếp chồng chất lên nhau qua những đĩa đệm, và được giữ trong vị trí ngay thẳng bằng hệ thống cơ thịt, giây chằng và gân bền chắc, dẻo dai.




Hai bên cạnh đốt xương, có một cái nghạnh rỗng ở giữa, tất cả tạo thành một cái ống trong đó nằm dây thần kinh tuỷ sống. Từ đó, mệnh lệnh cho toàn thân được phát ra và mang cảm giác, kích thích ngoại cảnh được đưa về năo.




Bẩy đốt xương cổ c̣n thêm nhiệm vụ che chở cho sự lưu thông của máu lên nuôi năo bộ qua hai động mạch cảnh và hai động mạch xương sống.




Lợi ích của dáng điệu tốt




Khi cổ ngay thẳng, những động mạch nuôi năo bộ không bị cong queo hay thu hẹp, khiến máu lưu thông không trở ngại.




Ta biết là năo bộ dùng một khối khá quan trọng máu để có đủ năng lượng hoàn tất nhiệm vụ chỉ huy, phối hợp tất cả chức năng con người. Quan sát bệnh lư cho thấy khi máu lên năo giảm, người ta có thể ngất xỉu hoặc bị tai biến mạch máu năo nhẹ. Nhiều người thường hay bị nhức đầu, tê ngón tay, chóng mặt chỉ v́ cái cổ không ngay thẳng.




Xương sống lưng và ngực ngay ngắn th́ dưỡng khí ra vào phổi dễ dàng, tim mạch tuần hoàn lưu thông, tiêu hóa dạ dầy, đường ruột không co rúm gây trở ngại ăn uống, bài tiết. Tư thế xấu cũng gây đau nhức lưng, hông, rất thường thấy ở quư vị lăo niên.




Vài nhà khoa học c̣n cho là tư thế ngay thẳng có thêm ảnh hưởng tốt tới khả năng trí tuệ, giúp ta kiểm soát, thích nghi trạng thái tinh thần hoàn hảo cho tới khi về già.




Quan sát những bệnh nhân cao niên của ḿnh tại bệnh viện Fairmond, San Leandro, bác sĩ Schmerl thấy quư vị khoẻ mạnh đều có một tư thế tốt, c̣n các vị có rối loạn về thần kinh năo bộ th́ dáng điệu xiêu vẹo. Ông ta kết luận là dáng điệu có ảnh hưởng tới tuổi già và ngược lại.




Nguyên do sự thay đổi dáng điệu




Câu hỏi thường được nêu lên, là tại sao khi về già, tư thế, dáng điệu người ta thay đổi?




Sức hút của trái đất trên cơ thể là một yếu tố.




Rồi đến hao ṃn, thoái hóa theo thời gian của hệ thống hỗ trợ giữ thăng bằng xương sống. Các mô liên kết hư hao, cơ thịt teo mềm, chất collagen của đĩa đệm mất tính đàn hồi, dẻo dai, làm xương sống lệch lạc, mặt xương mài xát vào nhau, xệ xuống.




Ngồi lâu ở cùng vị thế khiến gân thịt co lại, làm lệch người.




Sống trong tâm trạng buồn chán, dưới đe doạ thường trực của căng thẳng khiến cơ thịt ở cổ lúc nào cũng co thắt, vai xịu xuống, mắt đăm chiêu nh́n đất.




Hoặc do trời trao cho như trường hợp gù lưng của nhân vật Quasimodo trong tác phẩm The Hunchback of Notre Dame do Victor Hugo viết.Tội nghiệp anh này v́ lưng quá c̣ng nên hơi thở khó khăn, dung tích phổi giảm, tim bị nhồi ép hoạt động kém, di động một lúc đă thở hổn hển, mệt mỏi.




Để có dáng điệu tốt




Giữ cho có một dáng điệu tốt đă là niềm ưu tư của con người từ thuở xa xưa.




Người Trung Hoa với tục dùng vải bó chân từ bé cho con gái khuê các để bàn chân đừng nở lớn như chân đàn ông. Và để khi bước đi th́ uyển chuyển, nhẹ nhàng.




Dân chúng bộ lạc Mayan cho là xương sọ dẹp nom đẹp hơn v́ vậy họ ép xương đầu với hai mảnh ván mỏng.




Dân Padung ở Miến Điện làm dài cổ với những chiếc ṿng kim loại chồng lên nhau, đè vai thấp xuống cho cổ vươn lên như cổ hươu.




C̣n ta ngày nay nếu có quan tâm giữ cho có tư thế cơ thể tốt là nhắm mục đích cải thiện sức khoẻ, duy tŕ biểu tượng của con người tích cực hoạt động, yêu đời.




Sau đây là một vài thế để điều chỉnh dáng điệu:




1- Dáng người khi đi, đứng.




Để có dáng ngay thẳng, ta đứng dựa lưng vào tường, làm sao cho hông, vai và đầu đụng sát lên tường. Như vậy, lồng ngực và bụng không gây trở ngại cho vai tṛ của các bộ phận ở trong.




Giữ dáng này cho mọi động tác đi đứng.




Nên nhớ là không đứng ngay đơ như kiểu đứng của “mấy thầy lính tập” ngày xưa với cổ ngửa nh́n trời, cản trở máu lưu thông lên năo bộ.




2- Khi ngồi.




Ngồi hết mông vào mặt ghế cho thoải mái, vai và hông dựa sát thành ghế, đầu gối thư dăn di động tự do.




Trước khi ngồi, đứng quay lưng về ghế, hai chân hơi dạng ra và để gần gầm ghế, đầu gối hơi cong, ngả thân về phía trước, mông đưa về sau và đặt từ từ xuống ghế.




Ngoài ra cũng cần đều đặn luyện tập vài cử động có tích cách làm thư dăn gân cốt, cơ thịt ở cổ, lưng, hông,vai, ngực và tứ chi. Nhiều người đă có lư khi nói: lưng yếu làm lưng đau.




Nguyên nhân gây rối loạn cuả dáng đi.




Sau đây là một số nguyên nhân đưa đến sự thay đổi dáng đi:




1- Biến chứng của bệnh tiểu đường, ghiền rượu, thiếu sinh tố B12.




2- Chấn thương cột tủy sống, năo bộ.




3- Người bị bệnh Parkinson, như vơ sĩ Mohamed Ali.




4- Phong thấp khớp.




5- Do tác dụng phụ của một số dược phẩm.




6- Khiếm khuyết thị giác và giảm cảm giác ngoài da.




7- Biến chứng của tai biến mạch máu năo.




8- Không nguyên nhân: Đây là diễn tiến tự nhiên nhưng quá mức của người già khi đi đứng, với tốc độ di chuyển giảm, mất thăng bằng cơ thể, cử động kém nhịp nhàng. Khi đi, chân họ dạng ra, bước ngắn, thân ngả về phía sau nên dễ ngă, mặc dù chân không yếu, không có dấu hiệu nào chứng tỏ có sự rối loạn về thần kinh vận động.




Dáng đi của người bị những bệnh kể trên diễn ra theo một số kiểu, đôi khi đặc thù cho từng bệnh.




Có người khi di chuyển, các khớp xương hông, đầu gối và cổ chân duỗi thẳng, bước chân dang ra ngoài, đi khó khăn, chậm chạp, yếu, móng chân đôi khi quệt xuống đất. Đây là dáng đi thường thấy ở người bị tai biến mạch máu năo.




Bệnh nhân bị Parkinson có những bước đi ngắn, cứng nhắc, kéo lê chân trên mặt đất. Họ cất bước khó khăn, bước đi nhanh, chậm bất thường khiến dễ ngă. Ở người này, khớp hông, đầu gối, cổ chân và khuỷu tay co lại, cánh tay gh́m sát vào thân, thân ngả về phía trước.




Trong bệnh tiểu đường, các biến chứng thần kinh khiến bệnh nhân đi không vững, thân ngả về phía trước, chân dạng ra, bước đi không mềm mại, ngắn dài khác nhau, bàn chân nhấc cao rồi đập mạnh xuống đất.




Nhiều người sau khi mổ mắt cườm, hoặc đổi kính hai tṛng (bifocal ) cũng có dáng đi không vững này trong một thời gian ngắn.




Người bị bệnh phong thấp, nhất là ở hạ chi, khớp xương cứng, hao ṃn, giảm mức độ cử động, cơ thịt teo yếu. Họ đi không vững, thân ngả về phía b́nh thường để bớt đau.




Dáng đi bắt đầu thay đổi từ tuổi ngoài 30. Khi tới tuổi cao, bước đi sẽ ngắn, bàn chân không nhấc cao lại giữ lâu trên mặt đất, nhịp đi lạch bạch, cánh tay ít đu đưa, vung vẩy, khớp vai ít nhúc nhích, thân ngả về phía trước để giữ thế thăng bằng.




Người cao tuổi thường đứng không vững khi muốn xỏ một chân vào ống quần, và v́ sợ ngă, nên phải kiếm vật ǵ để vịn.




Hậu quả thay đổi dáng đi.




Rối loạn dáng đi là một trong những nguy cơ khiến người cao tuổi hay bị ngă, tạo ra thương tích như gẫy xương chân tay, chấn thương năo bộ, đưa đến tàn tật.




Ngoài việc điều trị căn nguyên bệnh, sự phục hồi khả năng di động của bệnh nhân rất quan trọng. Có những chương tŕnh y khoa phục hồi, làm tăng khẩu độ cử động các khớp, cũng như huấn luyện điều chỉnh dáng đi cho thăng bằng trở lại, hướng dẫn cách xử dụng xe lăn, gậy, nạng.




Ngoài ra cũng cần khuyến khích, nâng cao tinh thần của người cao tuổi hay sợ ngă, để họ tự tin hơn và đè nén sự sợ ngă khi di chuyển. Bác sĩ Nguyễn Ư-ĐỨC.




www.bsnguyenyduc.com

florida80 04-19-2019 19:01

Bảy Triệu Chứng Bị Đau Tim Mà Bạn Không Nên Lơ Là Bỏ Qua - Theo Healthy Living









Hàng năm có khoảng 38 ngàn phụ nữ tuổi dưới 50 bị đau tim, heart attack. V́ thế đừng tưởng c̣n trẻ mà không bị heart attack.. sau đây là những dấu hiệu báo trước là cơn đau tim sẽ đến




1. Hụt hơi: hơi thở ngắn, bạn phải thở nhiều để lấy hơi vào phổi




2. Chân tay bị tê, nhất là ở các đầu ngón tay, ngón chân




3. Chóng mặt không nguyên do.. có nghĩa là tim không nhận đủ máu


4. Đau hàm: dây thần kinh dẫn từ hàm xuống tim.. nếu bạn đau hàm liên tục, th́ đó là đau răng..


C̣n nếu thỉnh thoảng đau bất chợt th́ đó là đau tim




5. Cảm thấy áp lực đè nặng lên ngực hay lưng, lúc có lúc không và kéo dài cả tuần lễ. Nếu bạn cảm thấy áp lực đè nặng trên ngực, và kèm theo những triệu chứng như nôn mửa, th́ hăy đến ngay pḥng cấp cứu bệnh viện.




6. Nôn mửa




7. Hết sức mệt mỏi: nếu bạn đi một block đường là phải nghỉ, hay đang làm việc phải ngồi nghỉ mệt.. đây là những dấu hiệu cho thấy là máu không vào tim đủ.


Căng thẳng tinh thần cũng là nguyên nhân gây bệnh đau tim, đột quỵ


(Theo AFP Relaxnews)

Theo bản khảo cứu của bác sĩ Matthias Nahrendorf của trường đại học y khoa Havard th́ một khi tinh thần của bạn căng thẳng(stress), số bạch huyết cầu được tạo ra nhiều hơn hoặc những bạch huyết cầu này ở sai chỗ, sẽ gây nguy hiểm.

Các bạch huyết cầu được tạo ra nhiều hơn, bám vào thành các mạch máu, ngắn cản sự lưu thông của luồng máu, khiến mạch máu bị tắc gây stroke hay heart attack.



florida80 04-19-2019 19:03

Những Loại Gia Vị Giàu Chất Chống Oxy Hóa
 

florida80 04-19-2019 19:05

ài Vấn Đề Ưu Tiên Cho Sức Khỏe Tuổi Vàng - Lê Quang Thọ
 
Tuesday, May 19, 2015




Vài Vấn Đề Ưu Tiên Cho Sức Khỏe Tuổi Vàng - Lê Quang Thọ








“When grace is joined with wrinkles, it is adorable;
There is an unspeakable dawn in happy old age.”


Victor Hugo.

Tuổi Vàng là thời gian mà ta sẽ trải qua khi đă đóng góp nhiều công sức, tâm năo cho xă hội cũng như cho gia đ́nh con cháu. Tại nhiều quốc gia, tuổi đó được coi như từ 65 trở lên. Tuổi mà xă hội cho ḿnh cái quyền vui thú điền viên với những khoản trợ cấp theo luật định hoặc tiền hưu, tiền để dành sau nhiều năm lao động.

Với tuổi này, sức khỏe con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Có những yếu tố ngoài tầm kiểm soát của mỗi cá nhân như chủng tộc, đặc tính di truyền, phái tính.

Ngược lại, cũng có một số yếu tố mà khi muốn duy tŕ một sức khỏe tốt, ta có nhiều khả năng ảnh hưởng tới. Đó là thói quen tốt xấu trong nếp sống hàng ngày; mức độ quan tâm tới việc chăm lo sức khỏe; sự lượng định chính xác các điều kiện y tế trong môi trường chung quanh; thái độ thích ứng với tiến tŕnh lăo hóa; dinh dưỡng ẩm thực và phương pháp vận động cơ thể.

Xin hăy cùng phân tích một số yếu tố vừa đan cử, rút tỉa ra những đường hướng, những quy luật cần theo để có một tuổi vàng an lạc.




MỐI QUAN TÂM VỀ Y-TẾ

Sự quan tâm, chăm sóc này là điều ta cần thực hiện liên tục trong suốt cuộc đời. Tới tuổi vàng, nó sẽ trở thành ưu tiên số một.

Ở tuổi này, cơ thể con người sẽ trải qua nhiều đổi thay về thể xác lẫn tâm hồn. Các đổi thay đều làm suy yếu một số chức năng cũng như hệ thống pḥng chống bệnh tật của cơ thể. Người cao tuổi cần chủ động, tích cực trong việc chăm sóc sức khỏe của ḿnh; cần hiểu rơ những vấn đề ḿnh phải đối phó, v́ các nhu cầu về y tế bây giờ không giống như mấy chục năm về trước.




Hiểu biết những thay đổi đó rất cần thiết để ứng phó, thích nghi.


1-Theo thời gian, tế bào thần kinh bị hủy diệt dần dần mà không được thay thế; lượng máy nuôi dưỡng óc giảm, sự suy nghĩ bắt đầu chậm chạp, rối loạn, nhầm lẫn.




2-Thủy tinh thể của mắt trở nên cứng đục, vơng mạc kém nhạy cảm với ánh sáng, thị giác giảm khi sự vật ở gần hay trong bóng tối.




3-Tai nghe nghễnh ngăng, khó bắt được các âm thanh có tần số cao và tiếng nói b́nh thường.




4-Ăn uống mất ngon. Thức ăn như đắng chát v́ tế bào vị giác trên lưỡi ngày một ít đi; miệng khô v́ hiệu năng sản xuất của hạch nước miếng giảm tới mức đáng ngại.




5-Khứu giác kém, mũi không phân biệt và tiếp nhận được mùi của hóa chất, thực phẩm.




6-Nhịp tim chậm, lượng máu xuất tim giảm, cơ tim xơ cứng, dễ bị suy tim, gây ngất xỉu, khiến ta không cáng đáng được những công việc thường làm khi c̣n trẻ.




7-Hơi thở ngắn, nhanh, lượng dưỡng khí trong máu giảm. Tất cả đưa đến khó thở, dễ thấm mệt khi làm việc chân tay.




8-Gan teo. Lượng máy lưu thông qua gan giảm; chức năng thanh lọc độc chất kém hữu hiệu. Thuốc uống vào được giữ trong cơ thể lâu hơn và ở mức độ cao hơn.




9-Thận cũng nhỏ đi. Máu đi qua thận giảm, nước tiểu loăng. Khả năng tống xuất chất muối kém, dễ gây sự khô nước trong người và kéo dài tác dụng của nhiều loại dược phẩm. Bàng quang co bóp yếu, gây chứng khó tiểu và chứng không nín đái được. Nhiếp hộ tuyến sưng, gây bí tiểu, đôi khi phải thông cho dễ chịu.




10-Lớp mỡ dưới da teo, tuyến mồ hôi và tuyến nhờn kém hoạt động. Hậu quả là da khô, nhăn nheo, dễ bị tổn thương, ít chịu đựng được nhiệt độ lạnh giá.




11-Hệ thống miễn nhiễm yếu, sự sản xuất kháng thể bị tŕ trệ, cơ thể dễ bị nhiễm trùng, bệnh tật sẽ trầm trọng hơn.




12-Đời sống tính dục cũng có nhiều thay đổi, nhưng nói chung th́ khả năng t́nh ái nam nữ giới tồn tại tới tuổi 80,90.




13-Về tâm trí, khả năng thâu nhận kiến thức bằng suy luận, trực giác hay giác quan có nhiều rối loạn.

Trí nhớ ngắn hạn kém dần.




Tri thức lỏng, gồm khả năng thích nghi với hoàn cảnh mới và giải quyết cấp bách các vấn đề, đều giảm đi với tuổi già.




Tri thức kết tính lại tăng lên. Tri thức này bao gồm khả năng thu nhập, tích lũy những hiểu biết về vũ trụ, ngôn ngữ, sự việc, ngày tháng, tên tuổi, nghề nghiệp. Thành ra khi ngồi hầu chuyện với một trưởng lăo, ta cứ được nghe các vị kể vanh vách những sự việc xảy ra xưa rất xưa.




Cũng trong phạm vi tâm thần, nhiều người già có một số phản ứng tâm lư tiêu cực.




Họ thường trầm mặc bi quan, hạ giá khả năng bản thân, thích cô đơn, giảm quan hệ qua lại, hay than thân trách phận hoặc oán trách người khác. Có người đang năng động, đột nhiên thu ḿnh: bạn bè mời sinh hoạt, ăn uống đều từ chối, lại c̣n dẹp bỏ những hoạt động mà trước đây họ say mê. Lư lẽ chính được nêu ra là: "Tôi già rồi, đâu c̣n khỏe mạnh như trước". Con cái nhiều khi thắc mắc là bố tôi không c̣n là bố tôi của mấy năm về trước hoặc tôi không thể nào hiểu được mẹ tôi nữa.




Biết được những thay đổi trong cơ thể và những bệnh thường có của ḿnh chưa đủ, ta c̣n cần hợp tác chân thành với người thầy thuốc gia đ́nh. Cũng phải lựa chọn một thầy thuốc có lương tâm chức nghiệp, sẵn sàng dành th́ giờ cho bệnh nhân, chăm sóc, giải thích kỹ càng bệnh tật và nhu cầu trị liệu. Không được "Lương Y như từ mẫu" th́ cũng với tinh thần nhiều phục vụ hơn là thương mại.




Ngoài ra, cũng nên gây mối giao hảo tốt với cô y tá của ông bác sĩ, v́ "quan xa, nha gần". Cô ta sẽ là người mà ta tiếp xúc nhiều hơn như lấy hẹn, hỏi thuốc, hỏi kết quả thử nghiệm hoặc xin mua thêm thuốc.




Hăy tích cực trong việc tự săn sóc sức khỏe.




Đề pḥng bệnh bằng sự chích ngừa như cúm, viêm phổi, viêm gan...




Tham dự chương tŕnh sớm phát hiện bệnh như chụp h́nh nhũ hoa t́m kiếm ung thư vú, khám t́m ung thư nhiếp hộ tuyến, làm Pap Smear cho ung thư cổ tử cung...




Khám sức khỏe tổng quá hàng năm dù không có bệnh. Sự khám tổng quát này nhằm mục đích là t́m ra những dấu hiệu của bệnh trước khi bệnh lan rộng. Trong dịp này, thầy thuốc sẽ có cơ hội giải đáp những thắc mắc ta nêu ra, kiểm soát toàn bộ sức khỏe của ḿnh. Đây cũng là dịp để thầy thuốc thực hiện một số thử nghiệm về máu để coi mức độ đường, cholesterol, hồng cầu, bạch cầu; thử nghiệm nước tiểu để coi t́nh trạng chức năng của thận, bàng quan. Khám ngực nhũ hoa, khám hậu môn nhiếp hộ tuyến, làm Pap Smear tử cung quư bà cũng nằm trong chương tŕnh khám sức khỏe tổng quát hàng năm.




Sau cùng là ta cần sử dụng thuốc men đúng lời chỉ dẫn, giữ hẹn tái khám, kiêng khem trong việc ẩm thực, ngủ nghỉ đầy đủ để ǵn giữ tuổi vàng.




THÁI ĐỘ TÍCH CỰC TRƯỚC SỰ HÓA GIÀ

Đă sống tới tuổi 65 th́ sẽ có nhiều triển vọng là ta sẽ sống tới ngoài 80-90. Thành ra giai đoạn tuổi già có thể là khoảng thời gian lâu hơn tuổi trung niên hay thiếu niên. Để an hưởng tuổi vàng, ta cần có một thái độ ứng xử tích cực.




Nhà hùng biện Ciceron đă nói: "Ai cũng mong sống lâu, nhưng khi tới tuổi đó th́ lại than phiền. Người khôn ngoan sẽ đối diện với sự già một cách nhẫn nhục, v́ chống cự lại với thiên nhiên th́ cũng vô ích, khác chi cuộc chiến của những người khổng lồ chống lại các thần linh".

Đối diện với tiến tŕnh lăo suy, con người có thể hoặc phe lờ không để ư tới nó; bực bội với nó; sợ hăi khi thấy nó từ từ tiến tới hoặc là b́nh tĩnh chờ đón nó v́ nghĩ là không tránh được nó. Một thái độ ứng xử tích cực, xây dựng, là cần. Vạn sự khởi đầu nan.Cuộc hành tŕnh đi vào tuổi vàng không phải bắt đầu bằng bước chân đầu tiên, mà bằng cái ư định là sẽ nhập cuộc.




Rồi từ đó, tùy theo chương tŕnh, kế hoạch, tuổi vàng của ta sẽ hoặc hào hứng, đầy sinh động, nhiều sáng tạo, ích lợi cho gia đ́nh cũng như cho bản thân. Hoặc buồn tẻ, vô vị. Kinh nghiệm cho hay, quan niệm của ta về tuổi già có nhiều ảnh hưởng tới tiến tŕnh của sự lăo hóa, chẳng khác chi cái liên hệ chặt chẽ giữa tâm thần và thể xác, cảm xúc và sức khỏe, bệnh tật.




Quan niệm "tâm bất lăo, trường thọ", ḷng trẻ sống lâu, hay "Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yếu", vui vẻ lạc quan sống lâu, ưu tư phiền năo chết sớm, chắc c̣n giá trị muôn đời. Hăy luôn luôn lạc quan. Albert Eistein đă có nhận xét: "Người lạc quan suốt ngày thấy ánh sáng màu xanh, người bi quan chỉ thấy màu đỏ". C̣n nhận xét của Abraham Lincoln th́ đúng cho cả trẻ lẫn già: "Nhiều người sống sung sướng, hạnh phúc theo đúng như quyết định là họ muốn sung sướng".




1-Hăy trở thành cần thiết cho mọi người. Sẵn sàng làm những việc lớn, nhỏ, cho tha nhân. Làm cho người khác cảm thấy sung sướng là họ được chăm sóc, ưu ái.




2-Giữ phần chủ động cuộc đời ḿnh. Tỏ ra ḿnh c̣n hữu dụng, c̣n khả năng, không cần phụ thuộc vào ai. Chủ động giúp ta khắc phục được những chông gai trên đoạn đường c̣n lại của cuộc đời.




3-Tiếp tục học hỏi. Các cụ ta thường nói ông bẩy mươi học ông bẩy mốt. Đừng để khả năng học hỏi cùn dần với thời gian. Có người đă ví bộ óc như một trương mục đầu tư. Càng dùng th́ nó càng sinh lợi cho ta, ta càng giầu thêm kiến thức mới.




4-Luôn luôn giữ bề ngoài cho tươm tất, chải chuốt. Nữ giới thọ hơn nam giới, một phần có lẽ v́ lúc nào cũng mặc đẹp đẽ, trang điểm như sắp đi dự dạ hội. Chả bù với nhiều vị nam th́ mặc sao cũng được, lơ là chăm sóc cả cái răng cái tóc là góc con người. Nom nó GIÀ con người đi.




5- Đừng để ḿnh bị cô đơn, lẻ loi. Trong sinh hoạt hàng ngày, hăy ráng gần gũi với người này người khác. Bớt tư dục, kiềm chế phẫn nộ, gạt bỏ tâm tư xấu, ngăn ngừa căng thẳng thần kinh, tránh tranh chấp mà nên nhượng bộ. Hăy cố gắng suy nghĩ như Ciceron: "Tuổi già chỉ được kính nể khi nó tự tranh đấu, duy tŕ cái tư cách của ḿnh, tránh bị lệ thuộc, và quyết tâm lănh quyền kiểm soát cái vị trí ḿnh trong xă hội cho tới phút chót của cuộc đời. Bởi v́ cũng như tôi thích ở người trẻ có phảng phất một vài nét già dặn, th́ tôi đồng ư ở người già cũng nên mang một chút trẻ trung."




ĐIỀU H̉A ĂN UỐNG

Nói về điều ḥa ăn uống th́ ta thấy có ở cả trăm ngàn pho sách trong thư viện. V́ phép ăn uống với thực phẩm dinh dưỡng là mối quan tâm lớn của con người. Nhất là ở các nước có nền kinh tế kỹ nghệ cao. Hỏi rằng có một công thức nấu ăn nào toàn hảo cho tuổi thọ trường sinh, th́ câu trả lời là không có. Nhưng những lời khuyên thực tế sẽ là: thực phẩm phải đa dạng, phẩm chất dinh dưỡng cao và cân bằng. Con người, nói chung, không giống các sinh vật khác ở chỗ là ta không phải di chuyển để lùng kiếm thức ăn hay lo không kiếm đủ thức ăn. Mà ta lại có mối lo là làm sao không chỉ ngồi đó mà ăn hoặc ăn quá nhiều. Tại nhiều quốc gia, thực phẩm quá dư, chỉ cần muốn ăn ǵ và có tiền là xong. Nhưng ăn nhiều mà không vận động, tiêu dùng th́ thật là nguy hiểm.




1- Biết lựa chọn thức ăn thích hợp.

Tại Hoa Kỳ, năm 1990 một đạo luật liên hệ với việc liệt kê phẩm chất, thành phần của thức ăn đă được ban hành, mục đích là để giới tiêu thụ dễ chọn lựa thức ăn hợp với nhu cầu của ḿnh. Các quốc gia khác cũng đă làm theo. Những nhăn hiệu (Food Label) đó không hoàn toàn đáng tin cậy, nhưng ít nhất nó cũng có giá trị hướng dẫn. Ta nên coi kỹ nhăn hiệu phân tích này để lựa thức ăn thích hợp với cơ thể ḿnh.

2-Khi nào th́ ăn?

Tất nhiên sẽ có câu trả lời: Thấy đói là tôi ăn. Vậy khi nào th́ đói, đói bụng hay đói con mắt? Lại nữa: ăn để sống hay sống để ăn? Á Đông quan niệm để sống lâu chỉ nên ăn "ba phần đói, bảy phần no", để c̣n hơi tḥm thèm, sau này muốn ăn nữa. Nhiều người Phương Tây có thói quen: bữa sáng bữa trưa nhẹ, bữa tối thịnh soạn. Tiện đấy, v́ sáng dậy vội vă đi làm, chỉ đủ th́ giờ để chiêu một ly cà phê. Trưa ngồi ở sở vừa làm việc vừa nhai miếng bánh ḿ kẹp chả. Tối về rảnh rang, ta làm một bữa cơm rượu no nê, rồi lên giường ngủ. Thế là cholesterol trong máu tăng cao, những tảng mỡ không mời mà ngang nhiên xâm lấn vùng bụng, vùng hông. Từ hơn ba chục năm trước, tại viện Đại học Chicago, Clarence Cohln đă chứng minh rằng những người ăn một bữa no mỗi ngày th́ cholesterol sẽ cao hơn ở những người nhâm nhi nhiều lần trong ngày. Và đây cũng là lư do mà cholesterol ở nữ giới, lúc thiếu thời, thấp hơn ở nam giới, v́ quư bà hay ăn quà vặt. C̣n quư ông th́ nhồi nhét một bữa cho xong. Ăn một bữa no cũng bắt buộc sự biến hóa thực phẩm phải làm việc quá sức, vị tố tiêu hóa, nhất là Insulin, phải tiết ra nhiều trong một thời gian quá ngắn, đôi khi có khuyết điểm. Tốt hơn hết là tuổi già ta nên cứ nhâm nhi, ăn lai rai chút một, nhiều lần trong ngày



3-Tránh thực phẩm có nhiều chất mỡ, nhất là mỡ động vật có vú. Mỡ băo ḥa làm tăng cholesterol. Mỡ thực vật, bất băo ḥa, làm giảm cholesterol. Giản dị nhất là ăn thịt nạc, thịt gà, vịt bỏ lớp da đầy mỡ; hấp hay nướng nhiều hơn là chiên; thay thịt bằng cá, rau trái cây, uống sữa có ít chất béo.




4- Ăn thực phẩm có nhiều chất Carbohydrates như rau , trái cây, hạt ngũ cốc, vừa rẻ lại tốt lành và cũng có nhiều năng lượng. Cơ quan Natural Research Council khuyên nên dùng 5 servings trái cây và rau mỗi ngày, 6 tới 11 servings hạt ngũ cốc. Mỗi serving là một đơn vị thức ăn mà ta thường dùng như là một bát cơm, một quả táo cỡ trung. Nên nhớ là trên thế giới có cả hàng trăm triệu người ăn chay mà họ vẫn sống lâu. Như vậy ăn chay chắc phải có một giá trị dinh dưỡng nào đó. Lại nữa: khẩu phần ăn của các lực sĩ vô địch trước khi tranh giải đều có nhiều carbohydrates, là một lư do để ta tăng số lượng rau và trái cây trong bếp và trên bàn ăn của chúng ta.




5- Một vài ư kiến về chất đạm protein. Con người được dựng lên bằng chất đạm. Chất này có nhiều nhất trong thịt động vật nhưng cũng có trong thảo mộc, nhất là các cây thuộc họ đậu(legumes): đậu ḥa lan, đậu cô ve, đậu nành. Khoa học đă chứng minh là một khẩu phần có nhiều chất thịt súc vật làm tăng hiểm họa bệnh tim. Với tuổi cao, chúng ta nên theo chế độ thực phẩm với thịt nạc, sữa ít chất béo, nhiều rau, trái cây.




6- Nước và muối cũng cần được lưu ư. Trong cơ thể, tỷ lệ nước lên đến 60%, mỗi ngày trái thận lọc gần 200 lít máu và thải ra 1% dung dịch nước. Như vậy cơ thể đỏi hỏi một số nước tối thiểu để sống. Trung b́nh ta cần uống 1 lít rưỡi nước mỗi ngày, và uống thêm khi nào thấy cần để tránh t́nh trạng khô nước hay loăng tiểu. Nước không có calories, không có khoáng chất, đôi khi không mất tiền mua lại c̣n là chất bôi trơn(lubricant) tốt cho cơ thể. C̣n muối th́ chỉ cần một phần tư th́a cà phê mỗi ngày là đủ. Dân chúng dùng nhiều muối, như người Nhật, thường có nhiều nguy cơ cao huyết áp.




7- Gần đây, chất xơ(fiber) trong rau và trái cây được nhắc nhở tới nhiều v́ nó có công dụng trong việc hạ thấp lượng cholesterol trong máu, tăng tốc độ di chuyển của thức ăn trong ruột, tránh được táo bón và viêm ruột. Chất xơ không có giá trị dinh dưỡng mà chỉ làm đầy bao tử, nên có tác dụng giúp ta giảm béo mập.



8- Sinh tố và khoáng chất có tác dụng xúc tác trong việc chuyển hóa thức ăn và có nhiều trong các loại thực phẩm. Tuy nhiên, ở người cao tuổi, khẩu phần nhiều khi không được cân bằng và có thể thiếu một vài loại sinh tố nào đó. V́ vậy, cũng nên dùng thêm một phân lượng sinh tố phụ trội. Tiện đây, xin nói qua về các chất chống oxy-hóa(anti-oxidant) và về gốc tự do (free radicals).




Ai cũng biết là dưỡng khí là một nhu yếu phẩm cho toàn bộ cơ thể. Thiếu dưỡng khí trong ít phút, năo bộ bị tê liệt. Chẳng hạn chỉ nín thở dăm phút là mặt trở nên xanh rờn. Vậy mà cũng chính cái Oxygene này lại gây ra một hiện tượng làm rỉ sét trong cơ thể, như là một chiếc xe hơi bỏ trong mưa gió, không dùng đến.




Số là, để có năng lượng điều hành, tế bào dùng dưỡng khí để đốt hóa chất, như đường trong máu. Trong khi làm công tác này, một vài đơn vị Oxygene mất đi một số điện tử, và trở thành những gốc tự do. Để bổ túc điện tử bị mất, gốc-tự-do bèn cướp điện tử của các phân tử khác, gây thiệt hại cho cơ thể về hóa tính cũng như chức năng. Đây có thể là một trong những nguyên nhân đưa tới hóa già với da nhăn, thịt teo, xương mềm và một số bệnh như ung thư, xơ cứng động mạch. Để chống lại phản ứng tai hại này, người ta dùng những antioxidant, mà 3 chất chính là sinh tố C, sinh tố E và Beta-Caroten.




VẬN ĐỘNG CƠ THỂ

Ciceron có phát biểu: "Sự tập luyện và sự tự chủ giúp con người duy tŕ được một phần lớn sức bền bĩ đă có dù rằng người ta đă vào tuổi lăo suy."




Ngày nay, nhiều người, nhất là các vị trọng tuổi, cứ cho là ḿnh phải giữ ǵn và duy tŕ tiềm năng của cơ thể bằng cách thư thả về thể xác. Chúng ta quá nhấn mạnh vào sự nghỉ ngơi, dưỡng sức. Tập luyện làm ǵ cho phí sinh lực, mất calories, hao ṃn cơ thể. Thực tế ra th́, cơ thể ta rỉ sét v́ không được dùng tới, nhiều hơn là, hao ṃn v́ được dùng tới. Một đời sống tĩnh tại, có hại cho cả sức khỏe cũng như sự trường thọ và đưa tới sự sớm hủy hoại về tâm thần, thể xác.




Các cơ thịt và khối xương teo lại, yếu đi. Tế bào mỡ to lên, chiếm chỗ của bắp thịt, con người mập phệ ra. Tim đập yếu. Khả năng sử dụng dưỡng khí giảm, nuôi dưỡng kém, làm ta dễ mỏi mệt, uể oải chán nản. Con người trở nên kém linh động, di chuyển chậm chập, buông xuôi mọi việc, NOM GIÀ ĐI, một sự già trước tuổi.




Sinh học đă chứng minh ngưng trệ đưa tới sự thoái hóa. Nước chẳng lưu thông, nước thành thối, bẩn. Ao tù th́ nước đọng. Mà cơ thể ta gồm 60% là chất lỏng. Cho nên vào tuổi già mà tự cho phép ḿnh sống một đời sống tĩnh tại, không vận động, th́ chắc là bệnh hoạn cũng như tử vong sẽ đến rất mau.




Sự sung sức của người c̣n trẻ là một tự do lựa chọn, nhưng với người cao niên, nó là một cái ǵ thiết yếu. Hăy nghĩ tới cái đồng hồ chạy bằng giây thiều xưa kia. Nó ngưng chạy không phải v́ hư ṃn hay bể vỡ, mà nó cần lên dây thiều. Ta cũng vậy: Cũng cần tự lên dây thiều.




Ích lợi của sự vận động cơ thể th́ vô biên. Chỉ xin tóm lược là nó tăng sự nhịp nhàng của toàn thân; tim phổi tăng hiệu năng; giảm cao huyết áp và cao cholesterol; khớp xương co duỗi trơn tru, thịt xương cứng cáp; trí óc sáng suốt, nhạy cảm hơn, tâm thần thoải mái, yêu đời và làm t́nh cũng tốt hơn. Tuổi thọ sẽ cao hơn, để chiêm ngưỡng những thành quả mà con cháu đạt được với sự đóng góp công sức của ḿnh.




Hăy sắp đặt một chương tŕnh tập luyện thích hợp với tuổi, sức khỏe, hoàn cảnh, điều kiện của ḿnh. Dành cho sự vận động một th́ giờ ưu tiên và cố định trong ngày, coi sự vận động như một nhu cầu chứ không phải để giải trí. Hăy tự lấy hẹn để vận động, rồi giữ hẹn đó như hẹn đi bác sĩ, đi vay tiền ngân hàng và kiên nhẫn tiếp tục chương tŕnh. Đừng sợ hăi sự tập dượt. Hăy làm sao để sự tập dượt trở thành người bạn đồng hành, đồng chí của các cơ năng trong người ḿnh. Sự bỏ đi không được dùng đến, sự xao lăng không chăm sóc, sự biếng nhác không vận động là những nguyên nhân đưa tới hao ṃn, bệnh tật của cơ thể. Câu nói "Use it or lose it" đáng để ta ghi nhớ.




NHỮNG THÓI QUEN TỐT

Đă leo lến đến tuổi sáu nhăm một cách b́nh an th́ ta đă có nhiều đóng góp tốt cho cơ thể trong lúc thiếu niên,trung niên. Ta đă có nhiều thói quen tốt hơn là những tật xấu. Giờ đây ta cứ tiếp tục như vậy mà đi, giữ vững lập trường.




Tứ đổ tường th́ cũng cứ tránh, để tâm thân an lạc, gia đạo b́nh an, tài chánh ổn định. Tứ khoái th́ giữ cho hài ḥa, hợp luật trời và luật sinh hóa, chẳng nên thái quá mà hao tổn tâm can, sức khỏe, nhất là với đệ tam khoái. Có phải dùng đến Viagra, Levita th́ cũng nên lựa phân lượng nhỏ thôi mà tăng sự mơn trớn, nỉ non...




Kết Luận

Trên đây là một số ư kiến đóng góp vào việc bảo tŕ và vận hành bộ máy tuy đă cũ, nhưng c̣n nhiều công dụng cho gia đ́nh và xă hội. Xin hăy đồng ư với Maria W. Chapman là "Đừng kéo lê cái đầu máy xe lửa như một tên khờ khạo mà hăy tiếp tế củi, nước và lửa như một tay lành nghề." Để xe tự động một cách hào hùng.





Lê Quang Thọ



at 4:23 PM







1 comment:







Kim anh NguyenthiMay 29, 2015 at 7:17 PM

Bài hữu ích! Cảm ơn chị Tố Kim.
Reply
























Newer Post Older Post Home

florida80 04-19-2019 19:07

Magnesium Là Khoáng Chất Quan Trọng Nhất Trong Cơ Thể
 





“Transdermal Magnesium Therapy”

Written by Mark Sircus, AC., OMD

NỘI DUNG:

Mọi bệnh đều có liên quan đến sự thiếu hụt magnesium
Các triệu chứng do thiếu Magnesium
Dấu hiệu cảnh báo giai đoạn đầu
Biểu hiện có khả năng thiếu magnesium
Dấu hiệu của t́nh trạng thiếu magnesium nghiêm trọngChứng từ Magnesium


********

Magnesium là một chất khoáng cần thiết được cơ thể sử dụng cho hàng trăm phản ứng sinh hóa, nên rất quan trọng cho sức khỏe. Sự thiếu hụt magnesium rộng lớn trong dân số nói chung đă dẫn đến một làn sóng các ca tử vong đột ngột của bệnh tim mạch, tiểu đường, đột quỵ và ung thư. Ngay cả chỉ thiếu hụt một lượng nhỏ magnesium có thể tăng cường sự nhạy cảm với tiếng ồn, căng thẳng, khó chịu, trầm cảm, yếu thần kinh, co giật, run rẩy, lo âu, và mất ngủ.


Chế độ ăn uống hiện đại, với lượng dư thừa các loại ngũ cốc tinh chế, thực phẩm chế biến và đường, có rất ít magnesium. Ngay cả những magnesium trong gạo lứt và các loại rau tươi đă giảm chất lượng trong những năm gần đây do sự giảm thiểu các khoáng chất trong đất, làm cho việc bổ sung magnesium trở nên cần thiết cho hầu hết mọi người. Tiến sĩ Sircus đề nghị việc sử dụng thẩm thấu magnesium chloride qua da là cách hiệu quả nhất để cải thiện mức độ magnesium một cách nhanh chóng.



Mọi bệnh đều có liên quan đến sự thiếu hụt magnesium

Thiếu magnesium thường bị chẩn đoán lầm bởi v́ nó không biểu lộ trong các xét nghiệm máu – do chỉ có 1% magnesium của cơ thể được lưu trữ trong máu.


Hầu hết các bác sĩ và các pḥng thí nghiệm không bao gồm magnesium vào trong bản xét nghiệm máu định kỳ. V́ vậy họ không biết bệnh nhân của họ có bị thiếu magnesium hay không, mặc dù nghiên cứu cho thấy đa số người Mỹ bị thiếu magnesium.


Tiến sĩ Norman Shealy nói: “Mọi bệnh đều có liên quan đến sự thiếu hụt magnesium” và ” magnesium là khoáng chất quan trọng nhất cần thiết cho sự ổn định điện từ của từng tế bào trong cơ thể. Bệnh do thiếu magnesium xảy ra nhiều hơn là do thiếu các chất dinh dưỡng khác.” V́ sự thiếu magnesium bị bỏ qua nên hàng triệu người đáng lẽ không mắc bệnh lại phải trả gía đắt cho những loại thuốc điều trị trong khi họ có thể được chữa lành qua việc bổ sung magnesium.


Rất ít người nhận thức được vai tṛ lớn lao của magnesium trong cơ thể. Magnesium là khoáng chất quan trọng nhất trong cơ thể. Sau oxy, nước và lương thực cơ bản, magnesium có thể là yếu tố quan trọng nhất cần thiết cho cơ thể chúng ta, cực kỳ quan trọng nhưng ít được biết đến. Nó quan trọng hơn canxi, potassium hay sodium và điều tiết cả ba chất khoáng này. Hàng triệu người hàng ngày bị đau bệnh v́ thiếu magnesium mà không biết.


Các triệu chứng do thiếu Magnesium

Phần lớn magnesium được dự trữ trong các mô, nên các triệu chứng như chuột rút ở chân, đau chân, hay trẹo chân có thể là dấu hiệu đầu tiên. Các dấu hiệu sớm sủa khác bao gồm biếng ăn, buồn nôn, nôn mửa, mệt mỏi và suy nhược. Khi sự thiếu magnesium xấu đi th́ các triệu chứng như tê, cảm giác kiến ḅ ở tay chân, co giật, thay đổi tính t́nh, nhịp tim bất thường, và co thắt mạch vành có thể xảy ra.


Dr. Sidney Baker viết trong một bài báo: Thiếu magnesium có thể ảnh hưởng đến hầu hết các cơ quan trong cơ thể. Liên quan đến xương và cơ bắp, người ta có thể gặp các vấn đề như trặc chân, chuột rút, căng cơ, đau nhức cơ bắp, đau lưng, đau cổ, đau đầu và trẹo hàm. Ngoài ra, có thể bị tức ngực hoặc cảm giác không thể hít một hơi thở sâu. Có khi hay thở dài.


Các triệu chứng liên quan đến co thắt của cơ trơn bao gồm táo bón, co thắt đường tiết niệu; đau bụng kinh nguyệt, khó nuốt hoặc có khối u trong cổ họng, đặc biệt là bị kích động khi ăn đường; sợ ánh sáng, đặc biệt là sợ ánh đèn pha sáng của xe chạy ngược chiều cho dù không có các bệnh về mắt, sợ tiếng ồn.


Thiếu magnesium, hệ thần kinh trung ương chịu ảnh hưởng rơ rệt. Các triệu chứng bao gồm mất ngủ, lo âu, hiếu động thái quá và bồn chồn với chuyển động liên tục, hoảng sợ, sợ khoảng trống, và rối loạn tiền kinh nguyệt. Triệu chứng liên quan đến hệ thần kinh ngoại biên bao gồm tê, và cảm giác bất thường khác, chẳng hạn như tiếng xe chạy vút qua, tiếng gió hú, và những rung động khác.


Các triệu chứng của hệ tim mạch bao gồm tim đập nhanh, loạn nhịp tim, đau thắt ngực và do co thắt động mạch vành, huyết áp cao và hở van tim. Hăy chú ư rằng không phải tất cả các triệu chứng cần phải xảy ra để nhận biết sự thiếu hụt magnesium, nhưng cũng có nhiều triệu chứng xuất hiện đồng thời. Ví dụ, những người bị hở van tim thường có tim đập nhanh, hồi hộp, hoảng sợ và có các triệu chứng tiền kinh nguyệt, căng thẳng, thèm ăn mặn, thèm các loại bánh ngọt, đặc biệt sô cô la, và đau ở vú.


Magnesium thật cần thiết cho mọi tế bào trong cơ thể kể cả ở năo và là một trong những khoáng chất cần quan tâm nhất để bổ sung v́ vai tṛ quan trọng của nó trong hàng trăm hệ thống enzyme và các chức năng liên quan đến phản ứng trao đổi chất trong tế bào, cũng như cho quá tŕnh tổng hợp protein, cho việc sử dụng các chất béo và tinh bột. Magnesium cần thiết cho việc sản xuất các enzyme giải độc. Sự thiếu magnesium có thể ảnh hưởng đến hầu như tất cả hệ thống của cơ thể.



Chúng ta cần magnesium như cần nước hàng ngày.

Măi măi chúng ta cần magnesium như cần nước và khi magnesiumhiện diện trong nước th́ sức khỏe và sự sống gia tăng.


Một trong những lư do chính các bác sĩ viết hàng triệu toa cho thuốc an thần mỗi năm là để đối phó vấn đề căng thẳng, khó chịu, bồn chồn mà phần lớn do chế độ ăn uống thiếu magnesium của bệnh nhân. Người ta chỉ cần hơi thiếu magnesium một chút là trở nên cáu kỉnh, dễ bị kích động mạnh, và nhạy cảm với tiếng ồn, dễ hồi hộp, sợ hăi và hiếu chiến. Nếu thiếu nhiều hơn hoặc thiếu trong một thời gian dài, họ có thể phát triển chứng co giật, run rẩy, nhịp mạch không đều, mất ngủ, yếu cơ, giật chân tay và chuột rút ở chân.


Nếu thiếu magnesium nghiêm trọng, năo bộ bị ảnh hưởng. Khó suy nghĩ, hoang mang, mất định hướng, trầm cảm, và cả những ảo giác đáng sợ. Các vấn đề này biến mất khi được bổ sung magnesium. V́ một lượng lớn canxi bị mất trong nước tiểu khi thiếu magnesium, nên gây ra vấn đề sâu răng, xương chậm phát triển, loăng xương và xương gẫy hay nứt xương chậm lành. Cùng với vitamin B6 ( pyridoxine ), magnesium giúp giảm thiểu và làm tan sỏi canxi ở thận.


Thiếu magnesium có thể là một yếu tố phổ biến liên quan đến đề kháng insulin. Các triệu chứng của bệnh đa xơ cứng cũng do thiếu magnesium bao gồm co thắt cơ, yếu cơ, co giật, teo cơ, không có khả năng kiểm soát bàng quang, rung giật nhăn cầu (chuyển động mắt nhanh), lăng tai, và loăng xương. Những người bị đa xơ cứng có tỷ lệ bị chứng động kinh cao. Động kinh cũng có liên hệ với sự thiếu magnesium.


Các triệu chứng thiếu magnesium khác bao gồm:

Dấu hiệu cảnh báo giai đoạn đầu:
•Mệt mỏi thể chất và tinh thần
•Cơ dưới mắt co giật thường xuyên
•Căng thẳng ở phần lưng trên, vai và cổ
•Nhức đầu
•Giữ nước trước kỳ kinh nguyệt và / hoặc đau ngực

Biểu hiện có khả năng thiếu magnesium bao gồm:
•Năng lượng thấp
•Mệt mỏi
•Yếu nhược
•Nhầm lẫn
•Căng thẳng
•Lo sợ
•Khó chịu
•Co giật (và giận dữ)
•Tiêu hóa kém
•Tiền kinh nguyệt và sự mất cân bằng nội tiết tố
•Mất ngủ
•Cơ căng thẳng, co thắt và đau
•Vôi hóa của các cơ quan
•Sự suy yếu của xương
•Nhịp tim bất thường

Thiếu magnesium nghiêm trọng có thể dẫn đến giảm calci máu, giảm potassium máu. Mức magnesium thấp vào ban đêm, dẫn đến rung giật nhăn cầu, mất ngủ.


Dấu hiệu của t́nh trạng thiếu magnesium nghiêm trọng bao gồm:
•Khát nước nhiều
•Đói lă
•Đi tiểu thường xuyên
•Vết loét hoặc vết bầm tím chậm lành
•Khô, ngứa da
•Giảm cân không giải thích được
•Nhiễm trùng thường xuyên hoặc tái định kỳ ở da, nướu răng, bàng quang hoặc nấm âm đạo.
•Cảm giác kiến ḅ hoặc tê ở bàn tay hoặc bàn chân
•Mệt mỏi bất thường hoặc buồn ngủ
•Mắt nh́n mờ đi, thay đổi từ ngày này sang ngày khác.

Chứng từ Magnesium

William bị bệnh Parkingson (run rẩy tay chân) hơn 20 năm. Ngày đầu tiên thoa và massage dầu magnesium cho cậu, tôi hy vọng William sẽ được phục hồi chức năng nhưng không dám đặt kỳ vọng cao v́ t́nh trạng nghiêm trọng trong một thời gian dài của cậu. Các triệu chứng trước đó là:

- Không thể nói được ǵ cả

- Không thể phát âm rơ

- Chỉ làm vừa đủ cơ năng và không làm ǵ t́nh nguyện cả

- Không tập thể dục

- Không thể cố gắng để ngăn chận việc chảy nước dăi được.

- Nước dăi chảy liên tục và nhiều đến nỗi tôi bắt đầu đưa William vào pḥng riêng của cậu để cậu ngả ḿnh trên chiếc ghế dựa nằm lớn v́ thảm nhà mới thay và nước dăi làm thôi màu thảm không tẩy đi được. T́nh trạng này càng ngày càng tệ.

-William cũng bắt đầu hung bạo với tôi. Nếu tôi đẩy cậu mạnh tay, cậu sẽ nổi cơn giận dữ và đánh tôi với bất cứ thứ ǵ cậu có thể nắm lấy được.

Ngày đầu tiên tôi thoa dầu magnesium cho William hai lần th́ ngay sáng hôm sau khi thức dậy cậu đă:

– Tự ḿnh rửa mặt, đánh răng và mặc áo mà không cần ai nhắc nhở. Điều này đă chưa từng thấy trong hai năm qua.

– Thêm vào đó nước dăi của William không c̣n chảy ra nữa. Năm rồi ước dăi trở nên quá nhiều đến không kiểm soát được.

– William nuốt thức ăn thức uống cách dễ dàng như uống nước dinh dưỡng, càphê, thuốc cho năo bộ, ăn rau tươi sống, ăn trứng mà không c̣n chảy nước dăi nữa.

V́ vậy, hy vọng của tôi dâng cao.

- Điều thú vị đáng kể là chỉ ba ngày sau William đă nói được kha khá.

Tôi cứ tiếp tục thoa dầu magnesium và để thời gian giải thích sự kiện. Tôi rất phấn khởi về tiến triển ngôn ngữ. Thú thực là tôi đă không mong đợi những kết qủa này:

- Đôi mắt của William sáng hơn

- Sự tập trung lâu hơn, tốt hơn

- Nói năng càng ngày càng tiến bộ. William có thể nói chuỗi hai, ba tiếng liền không vấp váp.

- William cũng không c̣n bạo lực như trước nữa. Ví dụ có lần cậu dùng muôi nhựa múc canh phang vào đầu tôi cách nhanh lẹ 6-7 cái trước khi tôi giật lại được trên tay cậu. Nhưng từ khi bắt đầu thoa dầu magnesium, cậu không c̣n cáu kỉnh nữa, không bướng bỉnh từ chối ăn uống hay làm những ǵ tôi yêu cầu.

Từ sau 3 tuần trở đi, khả năng nói chuyện cứ tiếp tục tiến triển và vững vàng, William có thể giao tiếp và cho biết điều cậu muốn hay cần, đó là việc trước khi điều trị bằng magnesium cậu không thể làm được.




Nancy English Vinal


LM Hoàng Minh Thắng và Nhóm Tông Đồ Mục Vụ Sức Khỏe



at 5:33 PM







No comments:





Post a Comment

florida80 04-19-2019 19:09

Cách Đơn Giản Loại Bỏ Cảm Giác Thèm Ăn Và T́nh Trạng Béo Ph́
 






Để khắc phục cảm giác thèm ăn và có một thân h́nh thon gọn, bạn nên tham khảo những thông tin liên quan đến thèm ăn. Ảnh minh họa

Để khắc phục cảm giác thèm ăn và có một thân h́nh thon gọn, bạn nên tham khảo những thông tin dưới đây.


Có những người chỉ có cảm giác đói khi tới bữa ăn trong khi số khác lại luôn luôn thấy thèm ăn và tăng cân vùn vụt. Chắc chắn, bạn sẽ không bao giờ muốn ḿnh là người rơi vào trường hợp thứ hai. Vậy làm thế nào để khắc phục t́nh h́nh và có một thân h́nh thon gọn?




Trước tiên ta cần hiểu đâu là cảm giác đói thật?

Đói và thèm ăn không phải là một. Việc phân biệt chúng sẽ giúp bạn khắc phục một số ngộ nhận nguy hiểm.

Đói là một hiện tượng sinh lư: nó xảy ra khi cơ thể của bạn c̣n ít năng lượng, đặc biệt là khi thiếu tinh bột - chất chính tạo ra năng lượng cho cơ thể.




Sau đó bạn có một cảm giác dạ dày trống rỗng, và kêu ùng ục. Khi đó đầu bạn không thể tập trung được và bạn c̣n trở nên cáu kỉnh.




Đói là hiện tượng hoàn toàn b́nh thường trước các bữa ăn (bữa ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn tối). Khi ăn, bạn sẽ cảm thấy khỏe hơn ngay.




Sự thèm ăn là ǵ?

Đó là một mong muốn được ăn, ngay cả khi bạn chưa đói hoặc đă ăn đủ no.


Bạn muốn ăn hai món tráng miệng vào cuối bữa ăn tối, ăn thêm những chiếc bánh quy vào buổi chiều, và một bữa trưa thịnh soạn. Thực tế là, bạn thường muốn ăn ngay cả khi bạn không thực sự đói.




Nếu bạn đặt câu hỏi "Tôi có thực sự đói? " trước khi thưởng thức gói bánh quy, và nếu bạn uống một ly nước trước khi đầu hàng trước cám dỗ đó, th́ vẫn có cơ hội giúp bạn vượt qua được cảm giác đó!




Làm thế nào để kiểm soát sự thèm ăn của bạn?

Đơn giản chỉ cần bằng cách ăn chậm.

Thật vậy, bộ năo có một trung khu thần kinh ghi lại tất cả mọi thứ bạn ăn: calo, chất đạm, chất béo, tinh bột. Đây là trung tâm điểu khiển cảm giác no của bạn kể từ khi bạn được sinh ra.




Dần dần, khi bạn nạp thức ăn gần đến đến định mức, trung tâm điều khiển cảm giác no của bạn sẽ gửi đi những tín hiệu khiến bạn bớt thèm ăn. Và khi bạn đă đạt đến định mức này, bạn không c̣n chút cảm giác thèm ăn nào nữa.




Để đạt được điều đó, bạn phải ăn chậm, nhai kỹ cho đến khi thức ăn đều mềm nát ra.




Tại sao? Bởi v́ trung tâm cảm điều khiển giác no của bạn chỉ hoạt động thực sự sau khi bạn đă ăn được 15 phút. Nếu bạn nuốt quanh, trung tâm không ghi nhận chính xác những ǵ bạn đă ăn.

Từ việc ăn nhanh, bạn sẽ ăn quá nhiều. Hăy nhai từ từ để ăn ít hơn!




Làm thế nào để đánh lừa cảm giác thèm ăn của bạn?

Câu trả lời là kích hoạt trung tâm cảm giác no của bạn trước giờ ăn chính.

Ăn một miếng bánh ḿ trước khi bạn vào bàn ăn. Các tín hiệu về "tinh bột" sẽ được trung tâm ghi nhận và làm nó hoạt động. Sau đó, bạn sẽ ăn ít hơn một cách hoàn toàn tự nhiên.

Uống nước ép cà chua, hoặc ăn một quả táo, cũng có hiệu quả tương tự. Và nó mang lại cho bạn những chất chống oxy hóa có lợi cho sức khỏe.




Tiếp đó, hăy luôn luôn bắt đầu bữa ăn với rau tươi. Bạn cần nhai kỹ chúng trước khi nuốt. Lượng rau sẽ làm đầy đáng kể dạ dày bạn và giúp bạn nhanh có cảm giác no.


Đây là lư do tại sao sẽ là khôn ngoan hơn khi ăn một món salad xanh trước bữa ăn thay v́ là sau bữa ăn như thông lệ.




Các cách khác để đánh lừa cảm giác thèm ăn

Bánh ḿ, nước ép cà chua, rau rất hữu dụng cho việc lấp đầy dạ dày của bạn.




Ngoài ra, những chất rất tốt khác như: gôm, pectin, tảo cũng có thể khiến cơ thể hấp thụ một lượng lớn nước làm tăng trọng lượng thật cơ thể (khi đó nước chiếm 80-100% trọng lượng cơ thể). Các chất này tồn tại ở dạng bột hoặc dạng viên. Do đó, chúng ta sẽ hấp thụ rất nhiều nước khi ăn những đồ ăn có chứa những chất này để giảm cảm giác thèm ăn.




(Nguồn: E-sante)


Theo Ánh Phượng / Trí Thức Trẻ







at 1:30 PM

florida80 04-20-2019 19:02

NHỮNG ĐIỀU BẠN NÊN BIẾT VỀ
HỘI CHỨNG BUỒNG TRỨNG ĐA NANG
(THINGS YOU SHOULD KNOW ABOUT
POLYCYSTIC OVARY SYNDROME)

Lynn Ly phỏng dịch


Hội Chứng Buồng Trứng Đa Nang là ǵ ? (What is The Polycystic Ovary Syndrome(PCOS) )?
• PCOS là một rối loạn nội tiết ( hormone ) phổ biến mà ảnh hưởng từ 5% đến 10% trong tổng số phụ nữ

•Nhiều phụ nữ không phát hiện ra họ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) cho dến khi họ có khó khăn trong việc thụ thai.

•Những phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)thường có mức độ cao về nội tiết (hormone) mà được gọi là nội tiết tố nam (androgens), điều này có thể làm mất ổn định của sự rụng trứng một cách b́nh thường

•Sự gián đoạn , bất thường trong những chu kỳ kinh nguyệt là một triệu chứng về hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)

•Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)có thể khiến cho những u nang nho nhỏ h́nh thành bên trong buồng trứng. Những u nang này có thể được phát hiện bởi sự chuẩn đoán dựa trên h́nh ảnh siêu âm (ultrasonography), một loại xét nghiệm h́nh ảnh mà cho nh́n thấy cơ quan nội tạng.



Ai bị Hội Chứng Buồng Trứng Đa Nang (PCOS) ? (Who Gets PCOS ?)
• Hội Chứng Buồng Trứng Đa Nang (PCOS) thể xảy ra ở phụ nữ một khi họ qua tuổi dậy th́ .

•Những triệu chứng thường phát triển trong suốt năm đầu tiên mà người con gái bắt đầu có kinh nguyệt.

•Các bác sĩ vẫn chưa biết được nguyên nhân gây ra Hội Chứng Buồng Trứng Đa Nang (PCOS). Dường như hội chứng này có tính cách di truyền, nhưng những nhân tố khác dường như cũng đóng 1 vai tṛ thí dụ như là trọng lượng cơ thể .

•Hội Chứng Buồng Trứng Đa Nang (PCOS) thường phổ biến ở phụ nữ có trọng lượng cơ thể quá tải .



Những triệu chứng ǵ thuộc về Hội Chứng Buồng Trứng Đa Năng (PCOS)? (What are the symptoms of PCOS?)
• Chu kỳ kinh nguyệt bất thường hoặc hoàn toàn không có kinh nguyệt .

•Vô Sinh ( Không thể thụ thai.)

•Nhiều lông mọc ở mặt, ngực và lưng.

•Bị nổI mụn trứng cá ở mức tệ hại, những mụn trứng cá nổi lên ở tuổi thành niên , ở tuổi đă trưởng thành, hoặc các mụn trứng cá không thuyên giảm khi được điều trị

•Trong một số trường hợp nghiêm trọng, những trường hợp nặng th́ bị rụng tóc sói đầu như đàn ông

•Sự dổi mầu da trở nên sậm mầu hơn và gia tăng ở gáy, dưới nách, các đốt ngón tay, và cùi chỏ



Điều Trị ra sao ? (How is it treated ?)
• Việc giảm 1 lượng nhỏ trọng lượng cơ thể có thể giảm những triệu chứng và trợ giúp sự rụng trứng trong cơ thể bạn trở nên b́nh thường hơn .

•Việc dùng loại thuốc uống có thể điều trị những triệu chứng về vật lư (những triệu trứng biểu hiện trong cơ thể )như là sự mọc râu tóc quá mức và khiến kinh nguyệt b́nh thường hơn . Việc dùng thuốc uống có thể phối hợp với 1 loại thuốc gọi là "antiandrogen" (thuốc ngăn chận nội tiết tố nam), mà ngăn ngừa hay chống lại hoặc chận đứng những ảnh hưởng thái quá của nội tiết tố nam .

•Các loại thuốc gây rụng trứng, như là clomiphene, có thể cải thiện khả năng sinh sản và trợ giúp bạn thụ thai .



Bạn có thể có thai không nếu bạn bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)? (Can you get pregnant if you have PCOS ?)

• Hầu hết các phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) có thẻ có thai

• Bác sĩ của bạn có thể khai toa thuốc gọi là clomiphene để trợ giúp sự rụng trứng và sản xuất trứng trong cơ thể bạn

• Sự thay đổi lối sống, bao gồm giảm cân, cai thuốc lá / ngừng hút thuốc lá , và luyện tập thể dục, có thể cải thiện khẳ năng sinh sản và gia tăng cơ hội thụ thai

• Hăy nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) và sự mong muốn thụ thai . Bạn có thể có được cơ hội gập chuyên gia về sinh sản / chuyên gia về thụ tinh



Lynn Ly phỏng dịch (02-02-2011)

florida80 04-20-2019 19:04

GỌI B̀NH YÊN QUAY VỀ
 
GỌI B̀NH YÊN QUAY VỀ
TỰ TRUYỆN CỦA BÁC SĨ CHUYÊN KHOA TÂM THẦN - LÊ QUỐC NAM


LỜI GIỚI THIỆU

“Trong mạch sống đă tiềm ẩn cái chết, trong gặp gỡ đă tiềm ẩn những chia xa, trong gắn kết đă tiềm ẩn hạt mầm của sự rời bỏ, trong say đắm đă tiềm ẩn sẵn những chán chường”

Trong mỗi con người dù là thông thái và tỉnh táo nhất cũng từng có những khoảnh khắc bế tắc và khủng hoảng. Nhịp sống diễn ra quá nhanh, xă hội tạo áp lực lên con người và một số người không thể căng ḿnh lên chịu đựng hơn được nữa, khi họ mắc bệnh tâm thần, xă hội lại ḱ thị và có nhiều định kiến với họ.

Bệnh tâm thần (Psychiatric stigma) đă xuất hiện từ rất lâu, nhưng không bao giờ có một quy tắc chung trong quy tŕnh chữa bệnh. Bởi lẽ mỗi người bệnh là cả một câu chuyện, bác sĩ chữa bệnh không chỉ bằng những viên thuốc mà c̣n bằng những liệu pháp tâm lư để chữa lành căn bệnh trong tâm hồn họ.

Đọc tự truyện “GỌI B̀NH YÊN QUAY VỀ” của bác sĩ chuyên khoa tâm thần Lê Quốc Nam với những câu chuyện xoay quanh căn bệnh tâm thần, chúng ta mới thấy được những khoảng dừng của con người, những vấn đề của xă hội, từ đó mới có thể cảm thông và chia sẻ hơn với những con người thiệt tḥi bởi tạo hoá.

Cuộc sống ngày càng số hoá, mối quan hệ dễ dàng mở rộng, nhưng cũng có thể khiến con người ngày càng trở nên nhỏ lại và khép kín ḷng ḿnh, khó có thể hoà nhập cộng đồng và làm việc b́nh thường. Bác sĩ Lê Quốc Nam giúp chúng ta hiểu hơn về trầm cảm và những người mắc bệnh trầm cảm - một dạng của bệnh tâm thần.

Những câu chuyện thực sự xúc động, những người bệnh khao khát ánh nh́n thiện cảm của cộng đồng, trái tim và t́nh yêu thương của người mẹ trước đứa con mắc bệnh. T́nh thương của người mẹ biểu hiện rơ nét nhất ở thái độ kiên nhẫn, kiên nhẫn lắng nghe, kiên nhẫn chăm sóc và kiễn nhẫn chịu đựng. Nếu không có một t́nh yêu thương sâu sắc sẽ chẳng ai có thể giữ măi được sự kiên nhẫn nhất là trước một đối tượng hết sức đặc biệt - bệnh nhân mắc bệnh tâm thần…

Mấy mươi năm công tác chữa bệnh, “GỌI B̀NH YÊN QUAY VỀ” với cuộc sống của mấy trăm con người, bác sĩ Lê Quốc Nam viết cũng với mục đích để những người b́nh thường trong xă hội có thể có cách nh́n thiện cảm và chia sẻ hơn với những người tâm thần , để chúng ta không xa lánh và miệt thị họ - hành động độc ác mà tôi đă từng vô t́nh phạm phải khi c̣n thơ dại, đến nay mới hiểu được mức độ nguy hại của những ǵ ḿnh gây ra đối với tâm lư người bệnh.

Bác sĩ Lê Quốc Nam là một người ít nói về ḿnh, trong cuốn tự truyện, những người thầy, những người thân và những người bệnh hiện lên trong những chuyến đi, những nỗi đau.

Với góc nh́n có độ chuyên môn cao và trái tim thầy thuốc, tác giả viết những trở trăn về những vấn đề xă hội, những bạo lực và lệch lạc về vấn đề t́nh dục, những bệnh nhân tâm thần thời thượng để từ đó ta biết sống như thế nào, để chúng ta không chỉ biết vệ sinh thân thể mà c̣n biết vệ sinh tâm hồn, bởi lẽ một người khoẻ mạnh khi có tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể cường tráng
Con người sống thành xă hội nên ngoài những nhu cầu cơ bản như ăn, uống, ngủ, c̣n có những nhu cầu khác như nhu cầu được tôn trọng và khẳng định ḿnh. Gọi b́nh yên quay về bên cuộc sống để từ đó ta biết thương yêu và tôn trọng bản thân và những người sống bên ḿnh.

HOÀNG ANH

florida80 04-20-2019 19:06

Bài Tường Thuật Trải Nghiệm về MỘT CƠN ĐAU TIM (Heart Attack)
 
Bài Tường Thuật Trải Nghiệm về
MỘT CƠN ĐAU TIM (Heart Attack)


Tối thứ ba tuần trước, sau khi gửi ư kiến về Lá Diêu Bông vào D Đ, tôi đi ngủ rất ngon đến hơn 6 giờ sang, dậy đi tắm và sửa soạn đi làm, cảm thấy thoải mái b́nh thường, không có triệu chứng ǵ khác lạ. Khoảng 7 giờ hơn, khi với tay tắt ngọn đèn trên đầu tủ (hơi cao), tôi bỗng thấy mặt nóng bừng, mồ hôi toát ra, hai cánh tay ră rời như vừa khiêng vác vật nặng quá sức. Khi đó, tôi hơi nghi là bị stroke (đứt hoặc nghẽn mạch máu dẫn vào óc), liền lấy máy đo huyết áp, thấy rất cao, khoảng 180/100. Tôi vội lấy 2 viên thuốc chống cao máu uống liền một lúc. (Tiếc rằng nhà không có sẵn aspirin). Ngay sau đó, tôi xuống cầu thang th́ bắt đầu thấy tức ngực, đau khoảng giữa lồng ngực, nửa như đau bao tử (xót bao tử khi đói), nửa như bị ai đấm vào chấn thủy. Nh́n vào gương, cười, nói, dơ tay lên xuống th́ không thấy có ǵ biến đổi hay khó khăn, không nhức đầu chóng mặt, hát thử vài câu vẫn thấy dở như thường, nghĩa là không có những triệu chứng của stroke. Tôi liền nghĩ ngay đến heart attack (cơn đau tim), chứ không phải stroke. Không chần chờ nữa, tôi gọi số cấp cứu 911 ngay. Lúc đó vào khoảng 7 giờ 20, chỉ chừng 10 phút sau khi tôi nhận thấy triệu chứng khó chịu đầu tiên.

Qua điện thoại, nhân viên cấp cứu bảo tôi ngồi hoặc nằm ở tư thế nào thấy thoải mái nhất, nhờ người nhà lấy tất cả những thứ thuốc tôi đang uống để sẵn, và để ngỏ cửa vào nhà. Khi đó tôi vẫn tỉnh táo, đọc tên từng loại thuốc và liều lượng đang uống cho họ, nhưng rất khó thở và hai cánh tay rất mỏi. Vẫn không thấy nhức đầu và không nói líu lưỡi (không phải stroke). Chừng 5 phút sau, xe cấp cứu tới. Người paramedic (chuyên viên cấp cứu) cho tôi nhai ngay chừng 5 hay 6 viên baby aspirin (loại 81 mg), nhai rồi nuốt trửng chứ không chiêu với nước để cho thuốc thấm theo nước miếng vào các mạch máu nhỏ dưới lưỡi, mục đích là làm cho máu loăng ra. Đồng thời họ xịt Nitroglycerin lỏng vào dưới lưỡi tôi ba lần, mỗi lần cách nhau chừng 5 phút, để cho các mạch máu giăn nở (không được dùng quá 3 lần, kẻo sự giăn nở mạch máu quá đáng, có thể gây stroke). Tôi thấy bớt tức ngực, thở dễ hơn, nhưng hai cánh tay vẫn ră rời. Trái lại, đầu óc tỉnh táo, không nhức đầu, và chân đi vẫn vững vàng (không stroke).

Chừng 5 phút sau, xe cứu thương tới. Tôi đă cảm thấy dễ thở hơn và có thể tự đi ra trèo lên băng-ca cấp cứu. Trên đường vào vào bệnh viện, tôi để ư thấy xe không hụ c̣i - có nghĩa là không có ǵ khẩn cấp lắm. Trên xe, người paramedic hỏi chuyện tôi liên tục, mục đích là coi tôi có tỉnh táo, có bị stroke khiến nói ngọng không. Có người vừa bị heart attack vừa bị stroke, rất nguy hiểm.

Khoảng 15 phút sau đến bệnh viện, họ đưa tôi vào khu cấp cứu, có bác sĩ chăm sóc ngay lập tức. Họ tiếp "nước biển" ḥa thuốc làm loăng máu và làm tan máu đông (blood clots), morphine làm bớt đau, chụp quang tuyến X lồng ngực để t́m dấu vết sưng phổi nếu có (pneumonia), đo tâm động đồ (EKG). Đồng thời họ cho thử máu để t́m chỉ số enzyme định bệnh tim. Khi tim bị thiếu máu, tim sẽ tiết ra loại enzyme này. Nếu chỉ số enzyme cao tức là bệnh nhân đă bị heart attack. Lần đầu, có lẽ v́ thử nghiệm quá sớm, nên chỉ số không cao. Họ chờ 2 tiếng sau thử lại, th́ mới rơ ràng là bị heart attack. V́ nhịp tim của tôi đập không quá nguy cấp, nên bác sĩ không mổ ngay. Trong thời gian đó, tuy vẫn nằm ở khu cấp cứu, nhưng tôi rất tỉnh táo, bớt đau ngực và tay, và c̣n có thể lấy smart phone ra trả lời ngắn gọn một hai emails.

Lạ một điều là tâm động đồ làm mấy lần đều không có dấu hiệu heart attack rơ ràng. Sau này bác sĩ giải thích rằng bắp thịt tim tôi chưa bị hư hại và c̣n hoạt động mạnh dù bị attacked, có lẽ nhờ vào việc tôi bơi lội thường xuyên (tôi thường bơi 40 đến 60 chiều dài hồ bơi trong một giờ, một hai lần mỗi tuần - nhưng từ sáu tháng nay bận nhiều việc quá nên chuồn, không bơi, không tập thể dục ǵ hết!).

Khoảng 3 giờ chiều th́ bác sĩ chuyên khoa tim quyết định làm phẫu thuật thông mạch máu tim (angioplasty). Theo kỹ thuật này, bác sĩ cắt một lỗ rất nhỏ ở mạch máu gần háng hay cổ tay - trường hợp của tôi bác sĩ cắt ở cổ tay - rồi luồn một camera cực nhỏ ở đầu một catheter (ống mềm rất mảnh) đưa vào đến động mạch tim. Camera sẽ chiếu lên màn ảnh computer lớn như TV cỡ 60" để cho thấy chỗ bị tắc nghẽn. Khi đó tôi vẫn tỉnh, chỉ hơi mơ mơ buồn ngủ do được chích thuốc an thần, không làm mê hoàn toàn, và không cảm thấy đau đớn ǵ hết. Khi t́m ra chổ mạch máu nghẽn, bác sĩ sẽ "bắn" cho cục máu đông (blood clot) tan ra, rồi đẩy một "bong bóng" (balloon) vào chỗ đó, xong bơm cho bong bóng căng lên, làm phồng khúc mạch máu nghẹt khiến cho máu thông dễ dàng, trước khi x́ hơi bong bóng, c̣n để lại một "giàn lưới" (stent) h́nh ống, nằm lót bên trong nhằm căng khúc mạch máu đó ra. Lưới sẽ nằm vĩnh viễn trong mạch máu tim, nên bệnh nhân sẽ phải uống thuốc làm loăng máu dài dài, nếu không, máu đông có thể kẹt vào đó làm heart attack nữa!

Cuộc giải phẫu, ban đầu dự tính chừng 45 phút, đúng hai giờ mới xong! Mà vẫn c̣n hai mạch máu nữa chưa được thông, nên vài tuần nữa tôi sẽ phải vào bệnh viện làm tiếp. Tuy nhiên, lần sau sẽ dễ dàng hơn nhiều, có thể làm xong trong ngày, trừ khi tôi để cho bị heart attack nữa. Sau khi mạch máu tim được thông, tôi cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Hai cánh tay hết mỏi ră rời, ngực hết tức, nhịp thở gần b́nh thường trở lại.

Bác sĩ đă mổ từ mạch máu ở cổ tay tôi, luồn vào tim, nên tôi mau hồi phục hơn là mổ từ dưới háng. Sau ba ngày, mở băng ra, cổ tay tôi chỉ c̣n vết đóng vảy cỡ như bị con kiến lửa cắn rồi ḿnh găi ra mà thôi! Tuy nhiên, dọc theo cánh tay có vết bầm phía bên trong, chắc là do đường ống luồn qua gây nên. Không đau đớn ǵ cả. Tim không có cảm giác ǵ mới lạ, vẫn yêu, thương, hờn, giận... như thường! Đặc biệt là sau khi được thông mạch máu tim, huyết áp của tôi xuống và nằm ở mức rất tốt, rất ổn định. Bác sĩ giải thích là do mạch máu được thông nên tim đỡ phải làm việc nhiều, không cần bơm máu mạnh như trước nữa, nên áp suất nén vào thành mạch máu cũng giảm đi. Thật là một công đôi việc!

Qua tai biến này, tôi rút ra được vài kinh nghiệm quư báu như sau, xin được chia sẻ cùng Diễn Đàn:

Thứ nhất: B̀NH TĨNH MÀ RUN! Đúng vậy, ai mà không run khi nghĩ đùng một cái ḿnh đang bị một trong hai chứng bệnh giết người nhiều nhất và nhanh chóng nhất: Heart attack đứng đầu, stroke thứ ba, chỉ sau ung thư. Nhưng phải thật b́nh tĩnh và tỉnh táo để không lăng phí từng giây phút và làm bệnh thêm trầm trọng.

Thứ hai: NGƯNG MỌI HOẠT ĐỘNG VÀ ĐỂ Ư NGAY KHI CÓ TRIỆU CHỨNG LẠ THỨ NHẤT (trường hợp tôi là toát mồ hôi dù buổi sáng khá lạnh). Nếu đang lái xe, cần phải t́m chỗ an toàn đậu lại ngay. Chú ư: Nếu có cell phone, luôn luôn mang bên ḿnh, không để trong cặp hay giỏ đàng sau cóp xe.

Thứ ba: GỌI CẤP CỨU NGAY KHI CÓ NHIỀU HƠN MỘT TRIỆU CHỨNG LẠ CỦA STROKE HAY HEART ATTACK (thí dụ: cánh tay mỏi ră, tức ngực, ngay sau khi toát mồ hôi). Ở Mỹ: Không nên nhờ người nhà chở vô nhà thương, mà phải gọi 911. Lư do: bệnh viện có bổn phận phải cấp cứu ngay lập tức khi tiếp nhận một bệnh nhân do 911 đưa tới. Người paramedic đưa ḿnh tới phải chờ cho đến khi thấy ḿnh được chăm sóc bởi bác sĩ, rồi mới đi được. Nếu ḿnh tự tới xin cấp cứu, trừ khi bị thương máu me đầm đ́a như bị đụng xe, c̣n không sẽ phải làm nhiều thủ tục và chờ đợi trước khi được cấp cứu. Nếu bị
stroke hay heart attack mà mất chừng 15 phút là nguy lắm rồi.

Thứ tư: CỐ GẮNG PHÂN BIỆT CÁC TRIỆU CHỨNG GIỮA STROKE VÀ HEART ATTACK. Khi chuyên viên cấp cứu đến nhà, cố gắng trả lời rơ ràng sao cho họ có thể hướng sự cấp cứu về một loại tai biến: Stroke hay Heart Attack. Lư do: những giây phút cấp cứu đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Nếu không phải stroke v́ máu nghẽn, mà v́ đứt mạch máu, nhức đầu mạnh, mạch máu chính trên đầu bị bể, mà nhân viên cấp cứu cho thêm aspirin làm loăng máu, nitroglycerin làm giăn mạch... th́ tiêu luôn tại chỗ! Theo các bác sĩ, khi thiếu máu vào nuôi, tế bào óc sẽ chết mau hơn tế bào tim nhiều. Do đó, nếu nhân viên cấp cứu tin là bệnh nhân bị stroke do đứt, bể mạch máu th́ nhiều phần là họ sẽ lo chở bệnh nhân vào bệnh viện thật sớm (bây giờ ở Mỹ và các nước tiên tiến có thuốc chích có thể hồi phục stroke, nếu được chích trong ṿng một, hai giờ kể từ khi có triệu chứng đầu tiên, càng sớm càng tốt.) Nếu tin là heart attack th́ họ sẽ thử làm cho máu loăng và mạch nở tại chỗ, mất chừng 10 phút trước khi họ chở đi. Mười phút phù du đầu tiên đó quư giá bằng 10 năm hay có thể bằng cả quăng đời c̣n lại!

Thứ năm: Trong bệnh viện, cần TỈNH TÁO (khi c̣n có thể), NÓI CHUYỆN NH̀ỀU với y tá, bác sĩ (không hiểu th́ yêu cầu người thông dịch). Đặt câu hỏi mỗi khi nhân viên y tế làm bất cứ thủ thuật nào trên cơ thể ḿnh. Thí dụ: Chích thuốc này làm ǵ? Tại sao cần chụp X-ray ngực hai lần trong ṿng vài giờ khi t́nh trạng không có ǵ thay đổi? - Nhờ hỏi mà tôi tránh được 1 lần X-ray vô ích do lỗi của y tá, người ca trước đă làm, người ca sau lại định làm nữa!

Thứ sáu: Khi đă lên bàn phẫu thuật mà không bị đánh thuốc mê th́ hăy quên hết mọi sự, mà chỉ NGHĨ VỀ CHUYỆN VUI, như chuyện trên Diễn Đàn THTĐ, mặc kệ họ làm ǵ th́ làm! Chẳng có ǵ phải lo lắng nữa!

Vài hàng chia sẻ cùng thầy cô và anh chị em.

Kính chúc thầy cô và thân chúc ACE không ai đau ốm, mà có đau ốm (con người ai tránh được?) th́ cũng sẽ mau lành.

Kính mến,
Nguyễn Hưng (K7)

florida80 04-20-2019 19:07

Kính sát tṛng thông minh
 
1 Attachment(s)
Kính sát tṛng thông minh kiểm tra lượng đường của Google

UserPostedImage
Những con chip và các bộ cảm biến tí hon, cùng với ăngten mỏng hơn một sợi tóc của con người, có thể được lồng vào trong vật liệu của kính sát tṛng


VOA - 17.01.2014
Người bị bệnh tiểu đường mỗi ngày phải vất vả theo dơi và kiểm soát lượng đường trong máu mà nếu không kiểm soát có thể dẫn đến thương tổn dài hạn về mắt, thận và tim.

Hầu hết các xét nghiệm lượng đường được thực hiện bằng cách lấy một giọt máu, tuy nhiên các nhà khoa học đang nỗ lực t́m những cách thức dễ dàng hơn để thực hiện bằng cách thử nghiệm chất lỏng trong cơ thể, chẳng hạn như nước mắt.

Công ty mạng khổng lồ Google cho biết họ hiện thử nghiệm xem liệu có thể chế tạo ra kính sát tṛng “thông minh” có thể cảnh báo bệnh nhân khi lượng đường trong máu của họ tuột xuống hay không.

Viết trên blog của ḿnh, công ty này cho biết những con chip và các bộ cảm biến tí hon, cùng với ăngten mỏng hơn một sợi tóc của con người, có thể được lồng vào trong vật liệu của kính sát tṛng mềm. Đeo kính này vào mắt, nó sẽ giám sát lượng đường thường xuyên mỗi giây một lần.

Google cho biết các nhà khoa học của họ đă hoàn tất nhiều nghiên cứu lâm sàng và bây giờ đang thử nghiệm nguyên mẫu với các đèn LED nhỏ xíu nhấp nháy khi lượng đường tuột xuống. Các nhà nghiên cứu cũng h́nh dung ra một ứng dụng mới sẽ giúp đưa thông tin lên mạng để cả bệnh nhân và cả bác sĩ của họ có thể t́m thấy dễ dàng.

Google nói công nghệ này hiện vẫn đang c̣n được thử nghiệm nhưng công ty này tin rằng một ngày nào đó, nó sẽ dẫn đến việc kiểm soát bệnh tiểu đường một cách tốt hơn và dễ dàng hơn.

Back to top

florida80 04-20-2019 19:11

Tim nhân tạo – 100% Made in France
 




Tim nhân tạo – 100% Made in France

UserPostedImage
Tim nhân tạo tự vận hành do công ty Carmat sáng chế (© Carmat)

Anh Vũ - RFI - 21.12.2013
Ngày hôm qua (20/12/2013) các nhà khoa học Pháp thông báo lần đầu tiên cấy ghép thành công quả tim nhân tạo cho một người bệnh tại bệnh viên Georges – Pompidou , Paris. Các báo Pháp ra ngày hôm nay đồng loạt thông tin về sự thành tựu y học lớn này một cách hoan hỉ.

Lần đầu tiên trên thế giới, một quả tim nhân tạo hoàn toàn đă đập trong lồng ngực của con người. Báo Le Figaro không khỏi vui mừng nhận xét với thành công này, không chỉ « giấc mơ của tất cả các bác sĩ tim mạch » thành hiện thực mà trái tim nhân tạo sẽ mang lại sự sống cho rất nhiều bệnh nhân đang chờ ghép tim. Niềm vui này xen lẫn tự hào v́ đây là thành tựu của y học Pháp, của các nhà khoa học Pháp.

Ca ghép tim nhân tạo "tự vận hành" này thay thế hoàn toàn tim người đă diễn ra thành công tại bệnh viện George-Pompidou, Paris và do công ty Carmat chế tạo bằng những công nghệ hiện đại nhất thế giới. Quả t́m nhân tạo có khả năng thích nghi được với hoạt động thể chất của con người quan những chi tiết công nghệ mới cực kỳ tinh vi.

Với Giáo sư Yves Jullières, Phó chủ tịch Hội tim mạch Pháp th́ việc sử dụng tim nhân tạo trong tương lai sẽ là tất yếu. Nhưng tim nhân tạo c̣n phải chứng minh được hiệu quả. Theo ông, ca ghép tim nhân tạo thành công vừa rồi chưa nói lên hết được kết quả.

Cần phải đợi thêm ít nhất một tháng nữa để đánh giá liệu mọi chức năng của tim có hoạt động tốt hay không. Nhưng theo giáo sư Jullières th́ việc hai ngày sau phẫu thuật cấy ghép, bệnh nhân đă thở được không cần hỗ trợ và đă nói chuyện được là một tín hiệu rất tích cực về hiệu quả của tim nhân tạo.

Đối với Libération, đây không chỉ là thành tựu đột phá của y học và công nghệ Pháp mà c̣n là một cuộc phiêu lưu tuyệt vời của một con người, bác sĩ Alain Carpentier, nhà phẫu thuật tim mạch hàng đầu của Pháp. Ông đă theo đuổi giấc mơ này từ hơn 10 năm qua và năm nay ông đă bước vào tuổi 80.

Theo Libération, làm thế nào để có được một quả tim nhân tạo để cấy ghép vào cơ thể và hoạt động độc lập không cần nguồn điện ở ngoài là một thách thức khoa học vô cùng lớn. V́ tim người là một cơ quan vô cùng quan trọng và phức tạp trong duy tŕ sự sống. Để giải quyết hàng ngh́n vấn đề đặt ra của cơ chế sinh học tim nhân tạo, các nhà tim mạch và công ty Carmet đă phải nhờ cậy đến các kỹ sư của tổ hợp hàng không vũ trụ châu Âu EADS và Airbus.

Dự án của các nhà tim mạch và công nghệ Pháp đă tới đích đầu tiên. Ngay ngày hôm qua, Bộ trưởng Y tế Pháp, bà Marisol Touraine đă ca ngợi thành tựu « đầu tiên trên thế giới này là niềm tự hào lớn của nước Pháp, niềm tự hào đó của chúng ta có được là nhờ vào tài năng sáng tạo của các bác sĩ, các nhà nghiên cứu, các bệnh viện và của các nhà công nghiệp Pháp ».

florida80 04-20-2019 19:13

những bệnh nghiêm trọng và những bệnh thông thường
 
Hoàng Thy Mai Thảo


Rank: Advanced Member



Groups: Registered
Joined: 3/26/2011(UTC)
Posts: 13,827



Thanks: 6504 times
Was thanked: 2710 time(s) in 1909 post(s)





Bướu xơ tử cung

Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của bà Thu ở Saigon về bướu xơ tử cung.

VOA - Bác sĩ Hồ văn Hiền Thứ Ba, 17 tháng 5 2011


Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.

Bà Thu ở Saigon có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:
Leiomyoma of the uterus (fibroids) - Bướu xơ tử cung:

Bịnh nhân hỏi về cách chữa trị bướu xơ tử cung. Đúng ra, đây mà một loại u bướu gồm những tế bào cơ trơn (leiomyoma), xuất phát từ một tế bào duy nhất của tử cung (tử cung là một cái cơ trơn h́nh túi rỗng). Do đó bướu xơ tử cung là một bướu lành, không phải là ung thư, và cũng không trở thành ung thư, dù có tăng thể tích nhanh đi nữa. Chúng ta không rơ nguyên nhân gây ra bướu, tuy nhiên yếu tố di truyền quyết định một phần, và đàn bà có con hoặc dùng thuốc ngừa thai th́ có phần nào ít bị bướu xơ hơn.

Đáng để ư là nếu chúng ta dùng MRI trên phụ nữ b́nh thường khỏe mạnh, th́ đến 75% phụ nữ có bướu to hoặc nhỏ; nếu khám phụ khoa bằng ngón tay (pelvic exam) các phụ nữ b́nh thường có thể t́m thấy bướu xơ trong 30 % các trường hợp. Nếu dùng siêu âm các phụ nữ tuổi 35, hết 60% người da đen có bướu, người da trắng th́ ít hơn (40%). Đến 50 tuổi, chừng 70-80% phụ nữ có bướu xơ có thể phát hiện bằng siêu âm (theo Bs William Parker). Những con số này cho thấy bướu xơ TC rất phổ biến, và tin vui là trên 80% của các phụ nữ mang bướu xơ tử cung không bao giờ có triệu chứng ǵ cả, và do đó không cần chữa trị ǵ cả. Bướu xơ TC xuất hiện thường ở lứa tuổi 25-35 và sự tăng trưởng của nó tùy thuộc vào sự hiện diện của các hormone tính dục nữ (estrogen và progesteron) do buồng trứng tiết ra. Do đó sau khi người đàn bà nghỉ kinh (menopause), là lúc buồng trứng không hoạt động nữa, th́ bướu sẽ dần dần teo nhỏ lại.

Các triệu chứng do bướu gây ra:

Đa số bướu xơ không gây ra triệu chứng ǵ cả, như trường hợp thính giả ở đây đi khám sức khỏe tổng quát và là siêu âm mới biết ḿnh có bướu. Những bướu nằm trong vách của tử cung (intramural fibroids) thường không gây khó chịu gi.

Trong ḷng tử cung có lót một lớp niêm mạc (mucosa), nếu bướu xơ nằm ngay dưới lớp niêm mạc đó (submucosal fibroid), sẽ làm rối loạn kinh nguyệt của người đàn bà, như chảy máu thất thường, quá nhiều (metrorrhagia) hoặc quá lâu (menorrhagia) lúc có kinh, làm cho bịnh nhân mất máu kinh niên, thiếu chất sắt (iron deficiency) cần thiết để tạo máu mới, và do đó mang bịnh thiếu máu (anemia) mản tính, gây ra mệt mơi, có thể suy nhược, suy tim. Người đàn bà cũng có thể khó thụ thai hơn chút ít.

Nếu bướu nằm dưới màng thanh mạc (subserosal fibroid), tức nhiên là nằm phía bên ngoài của tử cung và mọc lớn lên về phía trước, đè lên bàng quang (bọng đái) gây triệu chứng đường tiểu như mắc tiểu thường xuyên, khó tiểu, nhiễm trùng đường tiểu; bướu mọc lên về phía sau th́ đè lên ruột già (gây bón), hoặc đè lên các dây thần kinh từ xương sống đi ra (spinal nerve) làm đau lưng. Ngoài ra có thể làm đau vùng xương chậu, đau lúc giao hợp. Ngoài ra, bướu có thể đè lên ống dẫn trứng và làm cho tinh trùng đi qua ống dẫn trứng khó khăn hơn và thụ thai khó hơn.

Một số ít bướu có cái cuống (pedunculated fibroid) và có thể bị xoắn lại, đau bụng dưới cấp tính, có thể cần giải phẫu lấy bươu ra.

Tuy nhiên theo tài liệu của Mayo Clinic: “Thông thường, bướu xơ không can thiệp với thụ tinh hoặc thai nghén”. Trước đây, người ta tưởng lúc thai nghén, bướu xơ sẽ lớn nhanh lên, nhưng những khảo cứu gần đây cho thấy chuyện này không xảy ra. Trường hợp bướu quá lớn, gây vấn đề, bs có thể cắt bớt nếu thấy cần. Lúc sanh, có thể phải sanh mổ nếu bướu làm nghẹt đường sanh âm đạo.

Trị liệu:

Chỉ cần trị bịnh nếu bướu xơ gây ra biến chứng. Thuốc thường dùng:

1) Gonadotropin releasing hormone (Gn-RH) agonist:
Bướu cần đến sự hiện diện của hormone tính dục nữ estrogen và progesteron do buồng trứng sản xuất mới tồn tại và phát triển được.

[2 hormon này do buồng trứng (ovary) tiết ra, mà buồng trứng lại cần một hormone gọi là gonadotropin từ tuyến yên (bằng hạt đậu, nằm dưới năo, hypophysis or pituitary gland) kích thích mới làm việc. Ngược lại, sự sản xuất của gonadotropin lại tùy thuộc vào một bộ phận của óc gọi là hypothalamus. Hypothalamus tiết ra chất Gn-RH để kích thích tuyến yên.]

Sự sản xuất estrogen và progesterone tùy thuộc gián tiếp vào một hormone tên Gn-RH của hypothalamus nằm trong năo bộ.

Một số thuốc có cấu trúc na ná như Gn-RH tự nhiên gọi là Gn-RH agonist. Các chất này vào dành chỗ của chất Gn-RH tự nhiên, và gây tác dụng ngược lại, làm sản xuất estrogen và progesterone giảm xuống do đó bướu xơ teo lại.

Trong loại này, goserelin (tên thương măi Zoladex), thuốc rất đắt tiền (theo bịnh nhân 2 triệu một ống, trên internet trên 1200 dollars cho 3 ống) chích dưới da, mỗi tháng một lần trong ba tháng (thuốc được thính giả dùng). Thuốc thường chỉ dùng ngắn hạn, thường là trước khi mổ để làm bướu nhỏ lại, giải phẩu dễ dàng hơn, ít chảy máu hơn, hoặc bịnh nhân sắp đến tuổi nghỉ kinh. Thuốc không dùng dài hạn được, v́ nội chừng sáu tháng, bướu sẽ tăng trưởng (rebound growth) bộc phát lại, và bịnh nhân dễ bị xốp xương (bone loss) khó hồi phục nếu trên 35 tuổi (FDA, Merck Manual). Đúng như bịnh nhân nói, thuốc này cũng được dùng để trị ung thư tuyến tiền liệt (cancer of the prostate) v́ thuốc làm giảm chất testosterone của đàn ông, theo cơ chế tương tự trên hypothalamus.

2) Danazol là một thuốc uống tổng hợp tương tự như testosterone (kích tố tính dục phái nam) có thể được dùng để ngưng kinh nguyệt, làm cho tử cung và bướu xơ teo lại, nhưng lại gây nhiều biến chứng như khó chịu (dysphoria) (trầm cảm, lo lắng, nhức đầu), mụn trứng cá, giọng nói trầm giống đàn ông, làm nhiều phụ nữ không muốn dùng thuốc này.

Tóm lại, theo hướng dẫn chung hiện nay, nếu bướu xơ tử cung được khám phá t́nh cờ bằng siêu âm, mà người bịnh không có triệu chứng ǵ liên hệ tới bướu đó th́ nói chung không cần chữa thuốc men ǵ cả. Nếu có biến chứng như chảy máu, triệu chứng đường tiểu, tiêu hóa, thần kinh do chèn ép th́ dùng thuốc men để trị thiếu máu, điều hoà kinh nguyệt, và dùng thuốc làm teo bướu trước khi mổ nếu cần.

Biện pháp cuối cùng là cắt bỏ bướu bằng phẩu thuật (myomectomy) hoặc bằng cách bơm vào mạch máu nuôi dưỡng bướu một chất làm tắc nghẽn mạch mạch máu đó (embolization) để bướu thiếu máu mà tiêu đi. Nếu không muốn giữ tử cung nữa, người ta sẽ cắt bỏ tử cung. (hysterectomy). Ở Mỹ, hết 30% đàn bà sớm muộn cũng sẽ cắt bỏ tử cung. Một số bác sĩ cho rằng một số giải phẩu cắt tử cung hiện nay ở Mỹ không cần thiết.

Về câu hỏi về các cục nhỏ sờ thấy dưới da, có thể là những bướu mỡ (lipoma) nhỏ. Tuy nhiên không thấy nên không thể có ư kiến chính xác. nếu bịnh nhân có những măng da mầu như cà fẹ sữa (6 hoặc nhiều hơn) và nếu trong gia đ́nh có trường hợp tương tư, cần loại bỏ khả năng bịnh xơ thần kinh (neurofibromatosis). Bịnh nhân nên theo dơi với bs chuyên về da ḿnh từng khám bịnh. Đa số lipoma không cần chữa trị nếu không có biến chứng, hoặc không lớn quá nhanh, hoặc ảnh hưởng đến ngoại h́nh.

Xin nhắc lại là trên đây chỉ là những thông tin tổng quát căn cứ trên y văn mới đây, bịnh nhân cần tham khảo bác sĩ chuyên khoa về phụ khoa để điều trị thích hợp.

Chúc bịnh nhân may mắn.
Cảm ơn bác sĩ Hồ văn Hiền.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đă tham gia chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học này.

Chúng tôi vẫn dành đường dây điện thoại miễn phí để tiếp nhận các thắc mắc khác của quư thính giả về sức khỏe và y học thường thức. Số điện thoại miễn phí dành cho mục Hỏi Đáp Y Học là 202-205-7890, xin nhắc lại, 202-205-7890, ngày giờ nhận câu hỏi là thứ ba và thứ năm mỗi tuần, từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 30 tối, giờ Việt Nam. Chúng tôi sẽ chuyển các thắc mắc của quư vị cho các bác sĩ chuyên khoa phân tích và giải thích và sẽ thông báo ngày giờ giải đáp để quư vị tiện theo dơi.

florida80 04-20-2019 19:14

Mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật tuyến tiền liệt
 
Mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật tuyến tiền liệt


Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Năm ở Australia về vấn đề mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật tuyến tiền liệt.
Bác sĩ Hồ văn Hiền - VOA - Thứ Sáu, 22 tháng 4 2011


Bác sĩ Hồ văn Hiền
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.

Ông Năm ở Bạc Liêu có tŕnh bầy vấn đề về sức khỏe và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:

Post prostatectomy urinary incontinence.

Mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt.

Bịnh nhân nam 68 tuổi, từng được mổ cắt bỏ tuyến tiền liệt, hỏi về những phương pháp trị chứng nước tiểu bị ḍ rĩ, đi tiểu không kiềm chế được.

Tuyến tiền liệt (prostate) là một tuyến ngoại tiết của bộ phận sinh dục nam, tuy nhiên gần đây người ta cũng đăt tên lại cho một số tuyến tương tự ở phái nữ là tuyến tiền liệt nữ (female prostate).

Ở phái nam, tuyến nằm dưới và nằm ngay trước ngơ nước tiểu đi ra của bàng quang (bọng đái, bladder), từ đó được đặt tên khoa học là prostate, có nghĩa là “đứng [pro] trước [stat], giữ cửa”, từ tiếng Việt tiền liệt cũng theo nghĩa đó. Trước đây, chúng ta c̣n gọi là “nhiếp hộ tuyến”. Tuyến tiết vào tinh dịch một số thành phần giúp nuôi dưỡng các tinh trùng.

Tuyến tiền liệt bao quanh, ôm lấy niệu đạo (urethra) là ống dẫn nước tiểu thóat ra từ bọng đái, Nếu tuyến lớn quá (ph́ đại, hypertrophy), hoặc có ung bướu, tuyến có thể bóp nghẽn đường đi ra của nước tiểu và làm khó tiểu hoặc bí tiểu.

Sau khi giải phẩu cắt bỏ tuyến tiền liệt (prostatectomy), có đến 65% bịnh nhân không ít th́ nhiều mất kiểm soát đường tiểu (urinary incontinence) của ḿnh, không nín được tiểu theo giờ giấc, ư muốn của ḿnh.

Hai nguyên nhân chính của sự mất kiểm soát này: Một số trường hợp gồm cả hai nguyên nhân. Bác sĩ niệu khoa đo áp suất trong đường tiểu bịnh nhân (urodynamics=niệu động học) để xác định nguyên nhân.

1) Bọng đái (là một loại cơ) co thắt (spasm) quá nhiều, quá nhạy cảm, tạo áp suất cao trong bọng đái, thúc dục đẩy nước tiểu ra quá sớm.

2) Cơ ṿng (urinary sphincter) bao quanh cổ bọng đái bị hư hại trong khi mỗ, và không c̣n giữ nổi nước tiểu lúc áp suất dâng cao như lúc bịnh nhân ho, rặn, cười, làm việc nặng.

Nếu nguyên nhân chính là bọng đái co thắt quá nhiều, bs có thể:

1) Dùng thuốc làm bọng đái “relax”, "thư giăn" bớt.Thuốc thường dùng là Ditropan XL, Detrol LA, là những thuốc bào chế đặc biệt, để chỉ cần uống một lần mỗi ngày. V́ thuốc chống hệ thần kinh đối giao cảm (chống cholin, anticholinergic) nên có thể gây khô miệng, bón, mờ mắt; đặc biệt những người bị cườm nước (glaucoma) không được dùng. Oxytrol patch (thuốc dán) có tác dụng tương tự, thuốc đi qua da, vào máu, mỗi tuần thay 2 lần, ít phản ứng phụ hơn thuốc uống.

2) InterStim “bladder pace maker” chạy bằng pin gắn dưới da mông, máy gởi ḍng điện vào dây thần kinh điều khiển bọng đái, kích thích bọng đái và làm cho nó ‘thư giăn”.

Nếu nguyên nhân là cơ ṿng cỗ bọng đái bị thương tổn, bs niệu khoa có thể dùng:

Dùng cơ ṿng nhân tạo (artificial urinary sphincter, AUS) bọc chung quanh niệu đạo, nếu muốn tiểu bịnh nhân điều khiển AUS bằng cách bóp một cái bơm để trong b́u dái (scrotum), cái bơm này làm AUS mở ra.

Male sling procedure: bs lấy một giải làm bằng mô kết của xác chết (cadaveric connective sling), gắn từ phải qua trái, đè lên phía dưới niệu đạo bịnh nhân, sling được gắn vào hai bên xương chậu.

Gần đây, một công bố mới trong tạp chí y khoa JAMA của Hội Y Khoa Mỹ (Patricia Goode, University of Alabama-Birmingham, Jan 12, 2011 issue)(*), tường tŕnh về kết quả khả quan của những phương pháp trị liệu tập tính (behavioral therapy) kéo dài 8 tuần ở 208 người đàn ông bị chứng mất kiểm soát tiểu tiện sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt. Bịnh nhân được dạy cách tập các bắp cơ ở sàn xương chậu, tập nín tiểu, không uống cà fê (cà fê làm tiểu nhiều) và phân phối nước uống thành nhiều phần nhỏ trong ngày (để nước tiểu được taọ ra điều hoà trong ngày), không uống quá nhiều nước.Sau tám tuần tập luyện, và ngay cả lúc theo dơi sau một năm, kết quả cho thấy những lần són tiểu giảm đi chừng 50%.

Tập cơ sàn chậu: đây là những cơ được vận dụng, ‘nhíu” lại lúc người bịnh cố nín tiểu và nín trung tiện, không nên lầm lẫn với cơ bụng và cơ mông. Có thể tập ở tư thế nào cũng được.

Hai loại động tác: co nhanh (quick contraction) và co chậm (giữ lâu, nín 10 giây đồng hồ, slow contraction). Bắt đầu: 10 co nhanh x 3 sets, 10 co chậm x3 sets, hai lần/ ngày, tăng dần đến 15 co nhanh x 3 sets + 15 co chậm x 3 sets, làm 3 lần/ngày.

Tóm lại, bịnh nhân có thể tham khảo với bs để t́m hiểu thêm về những biện pháp đơn giản có thể giúp ích ít nhiều, nhất là tập các bắp cơ sàn xương chậu, và về những thuốc làm thư giăn cơ bàng quang nếu bs thấy có thể có ích trong trường hợp của ḿnh.

Chúc bịnh nhân may mắn.

*Behavioral Therapy With or Without Biofeedback and Pelvic Floor Electrical Stimulation for Persistent Postprostatectomy Incontinence, A Randomized Controlled Trial
Cảm ơn bác sĩ Hồ văn Hiền.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đă tham gia chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học này.

Chúng tôi vẫn dành đường dây điện thoại miễn phí để tiếp nhận các thắc mắc khác của quư thính giả về sức khỏe và y học thường thức. Số điện thoại miễn phí dành cho mục Hỏi Đáp Y Học là 202-205-7890, xin nhắc lại, 202-205-7890, ngày giờ nhận câu hỏi là thứ ba và thứ năm mỗi tuần, từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 30 tối, giờ Việt Nam. Chúng tôi sẽ chuyển các thắc mắc của quư vị cho các bác sĩ chuyên khoa phân tích và giải thích và sẽ thông báo ngày giờ giải đáp để quư vị tiện theo dơi.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:14

Biến chứng đường ruột của thuốc trị đau do viêm khớp
 
Biến chứng đường ruột của thuốc trị đau do viêm khớp



Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của bà Hai Trần ở Seattle về biến chứng đường ruột của thuốc trị đau do viêm khớp.
Bác sĩ Hồ văn Hiền - VOA -Thứ Sáu, 01 tháng 4 2011

Bác sĩ Hồ văn Hiền
Chuyên gia phụ trách giải đáp thắc mắc y học kỳ này là bác sĩ Hồ văn Hiền, chuyên khoa nhi và y khoa tổng quát, có pḥng mạch và đang làm việc cho các bệnh viện ở Bắc Virginia.

Thính giả tên là Hai Trần ở thành phố Seattle trong tiểu bang Washington có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:

Bịnh nhân dùng Tylenol 3 để trị đau nhức do viêm khớp và sợ biến chứng trên bao tử và ruột.

Tylenol 3 là tên thương măi của thuốc gồm hai chất acetaminophen và codein.

1) Acetaminophen: ở Mỹ thường có tên thương măi là Tylenol, được bán không cần toa. Acetaminophen được dùng nhiều cho trẻ em để trị sốt. Xin nhắc ở đây là gần đây Hàn lâm viện nhi khoa Mỹ (AAP) vừa nhắc nhở với phụ huynh là cơn sốt cũng có vai tṛ giúp cơ thể đề kháng với nhiễm khuẩn, và mục đích của việc dùng thuốc giảm nóng như acetaminophen là để cho các cháu thoải mái hơn, chứ không phải để kéo nhiệt độ xuống mức b́nh thường.

Phản ứng phụ (side effect) quan trọng nhất là gây độc cho gan. Nếu cơ năng gan b́nh thường (không bị viêm gan, không bị xơ gan, ung thư gan, không uống rượu, không uống thuốc khác có khả năng độc gan) th́ liều tối đa là 4000 mg (4 gram trong 24 giờ) cho người lớn ở Mỹ.

2) Codein là một chất ma túy nhẹ (opioid), vào cơ thể được gan biến thành morphine, mạnh hơn codein nhiều. Một số ít người (1% dân Á đông) uống codein liều b́nh thường vào có thể bị ngộ độc (thở yếu, lú lẩn) v́ lượng morphin trong máu tăng quá nhanh. Lư do là gan của họ biến codein ra morphin quá nhanh. Người mẹ mới sanh cho con bú và cùng lúc uống Tylenol 3 cho đỡ đau, nếu gặp trường hợp biến dưỡng nhanh (ultra rapid metabolizer) như vậy có thể gây ngộ độc nguy hiểm cho người mẹ lẫn trẻ sơ sinh.

Biến chứng tiêu hóa khác: buồn nôn, đau bụng, ói mửa, bón.

Khác với Tylenol 3, các thuốc giảm đau loại NSAID (Non Steroid Anti Inflammatory Drugs) như ibuprofen, naproxen, diclofenac dễ gây loét và xuất huyết đường tiêu hóa hơn, nhất là ở người già. Năm 2009, Hội Lăo Khoa Hoa kỳ không c̣n khuyên ưu tiên dùng NSAIDS cho các bịnh đau nhức của người già nữa, mà khuyên dùng acetaminophen cho những chứng đau nhẹ và vừa, cũng như dùng opioid (ma túy) cho những chứng đau vừa và nặng nếu thấy cần.

Nói tóm lại, Tylenol 3 ít có triệu chứng phụ về ruôt và bao tử nhưng phải cẩn thận v́ có thể hại gan nếu quá liều. Các thuốc giảm viêm loại NSAID như ibuprofen (Motrin, Advil), Naproxen (Aleve), (hoặc những thuốc mới hơn như Celebrex ít hại bao tử hơn), ngoài khả năng gây loét bao tử và ruột, c̣n có thể gây biến chứng phụ về tim mạch.

Chúc bịnh nhân may mắn.
Cảm ơn bác sĩ Hồ văn Hiền.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đă tham gia chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học này.

Chúng tôi vẫn dành đường dây điện thoại miễn phí để tiếp nhận các thắc mắc khác của quư thính giả về sức khỏe và y học thường thức. Số điện thoại miễn phí dành cho mục Hỏi Đáp Y Học là 202-205-7890, xin nhắc lại, 202-205-7890, ngày giờ nhận câu hỏi là thứ ba và thứ năm mỗi tuần, từ 8 giờ 30 đến 9 giờ 30 tối, giờ Việt Nam. Chúng tôi sẽ chuyển các thắc mắc của quư vị cho các bác sĩ chuyên khoa phân tích và giải thích và sẽ thông báo ngày giờ giải đáp để quư vị tiện theo dơi.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:15

Nhiều người không biết ḿnh nhiễm viêm gan siêu vi B
 
Nhiều người không biết ḿnh nhiễm viêm gan siêu vi B


Khoảng hai tỉ người trên thế giới bị nhiễm viêm gan siêu vi B, Nhưng có rất nhiều người không biết ḿnh mắc bệnh này.
Caty Weaver | Washington

Viêm gan là tên của một nhóm các bệnh nhiễm virut tấn công gan. Các virút này được gọi là A, B, C, vân vân.

Trong số 2 tỉ người mắc bệnh, Trung Quốc có tỷ lệ cao nhất, kế đó là nhiều nơi khác ở Châu Á. Tổ Chức Y Tế Thế Giới nói rằng hầu hết những ca bệnh vừa kể xảy ra trong thời thơ ấu.

Viêm gan siêu vi B lây lan qua tiếp xúc với máu hay các chất dịch khác của cơ thể đă bị nhiễm. Các bà mẹ có thể lây nhiễm qua trẻ em lúc sơ sinh. Tiêm, chích hoặc quan hệ tính dục không có biện pháp bảo vệ an toàn cũng có thể lan truyền loại virut này. Các chuyên gia cho biết, loại virút này có thể sống sót ngoài cơ thể ít nhất một tuần lễ.

Có hai loại viêm gan siêu vi B – cấp tính và mạn tính. Các ca bệnh cấp tính kéo dài nhiều tuần lễ, nhưng có thể mất nhiều tháng mới hồi phục. Các ca bệnh mạn tính có thể dẫn tới tử vong v́ bệnh xơ gan hay có vết sẹo ở gan, và ung thư gan.

Vậy mà những người bị nhiễm viêm gan siêu vi lâu dài có thể vẫn sống trong nhiều năm mà không biết là ḿnh bị bệnh. Những người dễ bị nhiễm viêm gan siêu vi B mạn tính nhất là trẻ em.

Tại Hoa Kỳ, các chuyên gia thuộc những Trung Tâm Pḥng Chống Dịch Bệnh kêu gọi các trung tâm y tế xét nghiệm những bệnh nhân người Mỹ gốc Châu Á.

Đối với bệnh viêm gan siêu vi B cấp tính, các bệnh nhân có thể được chăm sóc để thay thế dịch chất bị mất, nhưng không có thuốc điều trị. Các bác sĩ có thể xử lư các ca bệnh mạn tính này với interferon (một chất do các tế bào bị nhiễm virut tạo ra có tác dụng ức chế virut tăng trưởng), và các thuốc chống virút. Nhưng những loại thuốc này quá đắt đối với nhiều nước nghèo.

Một vacxin để pḥng ngừa siêu vi B đă có sẵn từ 30 năm nay. Người khám phá ra loại vacxin này – và khám phá ra luôn bệnh viêm gan siêu vi B – là một người Mỹ có tên là Baruch Blumberg. Bác sĩ Blumberg cũng đă chứng minh rằng loại virut này có thể gây ra ung thư gan.

Ông và một nhà khảo cứu nữa tại Philadelphia, ông Irving Millman, phát minh ra loại vacxin vừa kể năm 1969. Nhưng Bác sĩ Blumberg nói phải mất một thời gian nữa mới t́m được một công ty dược chịu sản xuất loại vacxin đó.

Những khám phá của Bác sĩ Blumberg về viêm gan siêu vi B đă giúp ông nhận được một Giải Nobel Y Khoa.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:16

Cảm giác lạnh thường xuyên
 
Cảm giác lạnh thường xuyên


Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Hứa Thêm ở Sóc Trăng về cảm giác lạnh thường xuyên.
Bác sĩ Hồ văn Hiền - VOA - Thứ Hai, 11 tháng 4 2011


Ông Hứa Thêm ở Sóc Trăng có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp thắc mắc:

Luôn luôn cảm thấy lạnh.

Thính giả phái nam luôn luôn thấy lạnh từ 5 năm nay, khám nhiều bác sĩ mà không t́m ra nguyên nhân. Ngoài ra, bịnh nhân buồn ngủ ban ngày và khó ngủ ban đêm.

1) Thường thường nếu bịnh nhân luôn luôn thấy lạnh, bác sĩ phải nghĩ đến hai chứng bịnh thường gặp:

1. Bịnh suy tuyến giáp: tuyến giáp (dịch từ thyroid có nghĩa là h́nh cái giáp v́ tuyến nằm phía trước miếng sụn h́nh giống cái khiên [shield] nằm ở giữa cỗ), tuyến h́nh chữ H, là một tuyến nội tiết, có nghĩa là tuyến tiết hormon (thyroid hormone) vào máu của chúng ta. Trường hợp giảm năng tuyến giáp, (hypothyroidism), tuyến không sản xuất đủ hormon, làm cho biến dưỡng cơ thể chậm lại, kém đi, cơ thể không phát ra đủ nhiệt lượng điều hoà nhiệt độ cơ thể theo nhu cầu. Lúc tuyến giáp giảm năng, một tuyến nhỏ nằm dưới bộ óc gọi là tuyến yên (hypophysis, pituitary gland), nhỏ bằng hạt đậu, có nhiệm vụ điều hoà tuyến giáp và tiết ra vào máu một hormon gọi là TSH (thyroid stimulating hormone) để kích thích tuyến giáp làm việc nhiều thêm. Nếu bác sĩ nghi bịnh nhân bị giảm năng tuyến giáp, đo mức thyroid hormone (T3 và T4 giảm ) hoặc TSH (tăng lên) trong máu bịnh nhân. Nếu bs đă thử và cho biết là không việc ǵ, th́ chắc không phải do tuyên giáp.

2. Hiện tượng Raynaud (Raynaud’s phenomenom): B́nh thường lúc ở môi trường lạnh, cơ thể chúng ta tự động làm co các mạch máu nhỏ ở ngoại biên (tay chân, đầu ngón tay, ngón chân, mũi, vành tai) để bảo vệ nhiệt lượng cho phần trung tâm cơ thể (óc, phổi, bụng). Hiện tượng này làm tay chân lạnh và tái. Trong trường hợp chứng Raynaud, phản xạ tự nhiên này trở nên quá lố, quá nhạy cảm với những thay đổi nhỏ của nhiệt độ bên ngoài. Ngón tay ngón chân dễ trở nên tái hoặc tím ngắt, lúc bớt lạnh th́ trở nên đỏ và sưng. Trường hợp nhẹ, bịnh nhân có thể chỉ thấy lạnh tay chân, khám không thấy ǵ đặc biệt và bịnh nhân cần mang găng tay, vớ, mặc áo ấm.Tuy nhiên đa số hiện tượng này xảy ra ở người trẻ, phái nữ. Hiện tượng Raynaud cũng có thể thứ phát đi kèm theo bịnh phong thấp.

3. T́nh trạng mệt mỏi, lo âu quá đáng (anxiety) có thể làm chúng ta cảm thấy lạnh tay chân, ḿnh mẩy, như chúng thường dùng từ “rét” để chỉ thái độ sợ sệt. Một trong những nguyên nhân mệt mơi là do thiếu ngủ như trường hợp của thính giả.

4. Ngoài ra bịnh nhân nên xem ḿnh có nhẹ cân quá hay không. Người quá ốm (gầy) dễ bị lạnh v́ ít mỡ để che chở và khối cơ bắp là nơi phụ trách phát nhiệt chống lạnh cũng ít hơn.

5. Người ăn quá ít, nhất là những chất cung cấp calori như tinh bột, mỡ, cũng như thiếu một số vitamin như vitamin D cũng có thể làm chúng ta dễ cảm thấy lạnh.

6. Một số người thiếu máu (do ít ăn thịt, thiếu chất sắt, cũng có thể thấy lạnh. Bác sĩ chỉ cần thử nghiệm máu giản dị (đo lượng huyết sắc tố [hemoglobin]) là có thể loại bỏ khả năng này.

2) Nói thêm về bịnh làm ông luôn luôn buồn ngủ ban ngày và khó ngủ ban đêm, Bịnh này có thể liên hệ với chứng lạnh của ông. Ví dụ một bịnh rối lọan về giấc ngủ gọi là narcolepsy làm bịnh nhân rất buồn ngủ ban ngày (excessive daytime sleepiness, EDS) và không ngủ được lúc ban đêm, thỉnh thoảng đột ngột mềm nhũn, lăn đùng ra ngủ một giấc (cataplexy). Trong bịnh này bịnh nhân cũng than phiền về chứng lạnh kinh niên. Người ta nghi rằng do thalamus trong năo bộ rối loạn, mà thalamus vừa phụ trách t́nh trạng thức-ngủ vừa phụ trách về điều ḥa thân nhiệt.

Một kịch bản khác có thể xảy ra là một số người bị chứng thở bất b́nh thường lúc ngủ (sleep disordered breathing), nhất là “obstructive sleep apnea” (OSA) (thở gián đoạn lúc ngủ v́ tắc nghẻn đường hô hấp) làm bịnh nhân thiếu oxy lúc ngủ và ảnh hưởng đến sức khỏe tim mạch. Bịnh nhân ngáy lớn, thỉnh thoảng ngưng thở, ngưng ngáy vài giây, rồi v́ ngộp, tỉnh ngủ, thở lại tiếp. Ban ngày bịnh nhân không tĩnh táo, v́ đêm ngủ không thẳng giấc và thời lượng ngủ thật sự ngắn đi, dễ bị tai nạn lúc làm việc, lái xe. Bịnh nhân thường quá mập, bụng bự, cỗ to và lớn tuổi.

Những trường hợp này cần khám bác sĩ thần kinh (neurologist) hoặc nếu có phương tiện, ở các trung tâm chuyên về giấc ngủ (sleep clinic)với bác sĩ chuyên về y khoa giấc ngủ (sleep medicine). Người ta cho bịnh nhân ngủ qua đêm trong pḥng thí nghiệm, và theo dơi biểu đồ điện tim (ECG), điện năo (EEG), hoạt động điện các cơ (EMG), oxy trong máu (pulse oxymetry)… được kết hợp trong một biểu đồ kết hợp gọi là polysomnogram.
Tóm lại, thính giả nên để ư những điểm nêu trên và

1. Áp dụng nguyên tắc v ệ sinh: ăn uống đều đặn, đầy đủ, tránh thuốc lá, uống rượu,
2. Vận động cơ thể, thư giăn,
3. Giảm bớt lo âu, vệ sinh giấc ngủ, tránh các nguồn kích động giờ ngủ, tĩnh tâm.
4. T́m một bác sĩ gia đ́nh có khả năng nghiên cứu lại t́nh h́nh của ḿnh.

Nếu các thử nghiệm về máu, tuyến giáp trạng đều b́nh thường, nên để ư giải quyết rối loạn về giấc ngủ và nếu không có định bịnh ǵ mới, nên tham khảo bác sĩ về tâm lư (psychologist) hoặc tâm thần (psychiatrist) để t́m hiểu thêm về chứng mất ngủ do lo âu (anxiety) và được giúp đỡ.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:18

Quá nhiều người Mỹ đánh giá thấp nguy cơ lây nhiễm HIV
 
Quá nhiều người Mỹ đánh giá thấp nguy cơ lây nhiễm HIV




Hoa Kỳ cảnh báo rằng có quá nhiều người Mỹ đánh giá thấp nguy cơ lây nhiễm HIV hoặc tin tưởng sai lầm rằng loại virút gây bệnh AIDS không c̣n là mối đe dọa nghiêm trọng cho sức khỏe.

Một tuyên bố của Trung Tâm Pḥng Chống Dịch Bệnh tại Atlanta đưa ra hôm Thứ Năm, 30 năm sau khi có báo cáo đầu tiên về căn bệnh gây chết người bí hiểm này. Cơ quan này kêu gọi gia tăng ư thức cũng như những nỗ lực ngăn ngừa bệnh AIDS.

Giám đốc Trung Tâm Pḥng Chống Dịch Bệnh, Bác sĩ Thomas Frieden, nói rằng, hơn 1 triệu 100 ngàn người tại Hoa Kỳ nhiễm virut HIV và rằng nhiều người đă sống lâu hơn nhờ các phương pháp trị liệu mới. Nhưng ông cảnh báo rằng vẫn chưa có thuốc để chữa HIV và rằng hầu hết các ca mới nhiễm bệnh đă xảy ra nơi những người dưới 30 tuổi.

Trung tâm pḥng chống dịch bệnh cũng cảnh báo rằng, một số nhóm người vẫn tiếp tục có tỉ lệ nhiễm HIV cao hơn dân số nói chung.

Cơ quan vừa kể cho biết những người đàn ông đồng tính và lưỡng tính – khoảng 2% dân số Hoa Kỳ – chiếm khoảng một nửa các ca bị nhiễm HIV mới. Những người Mỹ gốc Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh cũng có tỷ lệ nhiễm HIV cao hơn dân số nói chung.

Bác sĩ Frieden nói rằng, việc giảm tỉ lệ nhiễm HIV là quan trọng, và rằng việc điều trị các ca nhiễm HIV mới tại Hoa Kỳ sẽ tốn kém khoảng 200 tỉ đô la trong thập niên tới.

florida80 04-20-2019 19:20

cuộc chiến chống bệnh AIDS
 
1 Attachment(s)
30 năm trước đây, vào ngày 5 tháng 6 năm 1981, các chuyên gia y tế đă báo cáo các ca đầu tiên của một chứng bệnh lây nhiễm mới gây chết người. Căn bệnh về hệ thống miễn nhiễm đă mau chóng mang một cái tên là AIDS và virut gây bệnh HIV chẳng bao lâu đă trở thành một cơn đại dịch, giết hại hơn 2 triệu người mỗi năm. Nhưng công cuộc khảo cứu y khoa đă xoay chuyển t́nh thế. Ngày nay, virut này không c̣n là một bản án tử h́nh chắc chắn nữa, và tuy nó vẫn c̣n cướp đi mạng sống của hơn 1 triệu người mỗi năm, một thế hệ dược phẩm mới đă giúp hơn 30 triệu người ngày nay sống với bệnh AIDS. Thông tín viên VOA Vidhushi Sinha ghi nhận thêm chi tiết về lịch sử HIV/AIDS và các thách thức c̣n lại trong việc chấm dứt cơn dịch toàn cầu này.
Vidhushi Sinha Thứ Sáu, 03 tháng 6 2011

UserPostedImage
Trong năm 2009 có khoảng 2 triệu 600 ngàn người đă bị lây nhiễm HIV và 1 triệu 800 ngàn người chết v́ AIDS

Kathy Bennett đă sống với t́nh trạng nhiễm HIV đă 21 năm. Triển vọng của bà rất đen tối vào năm 1990, khi được chẩn đoán lần đầu là mắc phải Hội chứng Liệt kháng và bác sĩ của bà bắt đầu điều trị cho bà với những dược phẩm tỏ ra quá độc hại. Bác sĩ đă ngừng dùng thuốc và bảo bà về nhà.

Bà Bennett nói: “Tôi nằm trong giường 4 tháng để chờ chết bởi v́ ông ấy nói ‘Tôi không thể trị được ǵ.”

Nhưng sau khi bà bắt đầu điều trị bằng một loại dược phẩm mới, th́ cuộc đời bà Bennett đă thay đổi, và nay bà mạnh khỏe và trở thành một nhà tham vấn điều trị cho các bệnh nhân AIDS.

Bà Bennett nói: “Nay khi tôi đă biết cách xử lư nó, tôi không nh́n vào virut này như một bản án tử h́nh nữa. Tôi đang sống một cuộc sống b́nh thường. Tôi trông đợi sẽ c̣n sống rất lâu nữa.”

Mặc dù đă có cách điều trị bằng loại thuốc chống virut, trong năm 2009 có khoảng 2 triệu 600 ngàn người đă bị lây nhiễm HIV và 1 triệu 800 ngàn người chết v́ AIDS.

Nhưng 30 năm trước, cộng đồng y khoa rất bi quan. Bác sĩ Anthony Fauci, lúc đó là một bác sĩ t́m cách điều trị các bệnh nhân mắc chứng bệnh mới này, c̣n nhớ rơ những ngày đó. Hiện ông là giám đốc Viện Quốc gia các Bệnh Lây nhiễm.

Bác sĩ Fauci nói: “Chúng ta đă không có khái niệm căn bệnh lây nhiễm này là ǵ và rồi tiếp theo đó là t́nh trạng nhiều người, rất nhiều người bắt đầu bị đau nặng và chết. Thực là một thời kỳ đen tối đáng lo ngại mà ta c̣n thậm chí không biết được nguyên do căn bệnh.”

Dần dà, các chuyên gia y tế đă hiểu rơ hơn về sự lây nhiễm. Rơ ràng là một hệ thống miễn nhiễm bị suy yếu đă gây ra căn bệnh. Và cũng dường như là bệnh được lây truyền qua đường tính dục.

Bác sĩ Robert Gallo là người cùng phát hiện ra virut liệt kháng nơi người, c̣n được gọi tắt là HIV.

Bác sĩ Gallo nói: “Nhưng sự kiện không phải là tức thời, giống như một thứ euraka, không phải giống như ta có thể nói là “Ồ, bây giờ tôi thấy đó là nguyên do của bệnh AIDS.” Tôi đă t́m cách mô tả nó cho ai đó trước đây. Nó giống như lột một củ hành - ta biết được ta đang từng bước đi tới cái lơi của nó, mà đây chính là nguyên do.”

Nhưng vẫn chưa có dược phẩm hay thuốc chủng ngừa nào để chống lại virut và nhiều chuyên gia tỏ ra bi quan. Thế rồi một bước khai thông xảy đến vào năm 1987, với loại dược phẩm đầu tiên được chấp thuận là AZT.

Bác sĩ Gallo nói: “Virut có thể loại bớt. Ta có thể đo được nó và thấy nó giảm xuống. Mặc dù dược phẩm này độc hại, các dấu hiệu và triệu chứng có liên hệ với bệnh AID đă biến mất. Thật là kỳ diệu.”

Hy vọng mờ nhạt khi HIV trở thành kháng thuốc AZT. Nhưng sau đó, trong thập niên 1990, các dược phẩm phối hợp hữu hiệu đă được phát triển, và đă trở thàng vũ khí mạnh nhất trong nỗ lực chống cự với HIV. Sau đây là lời bác sĩ Anthony Fauci, thuộc Viện Y tế Quốc gia.

Bác sĩ Fauci nói tiếp: “Cái ‘cocktail, tên chúng tôi đặt cho loại dược phẩm này, đă thay đổi đáng kể đời sống của những người bị nhiễm HIV bằng cách đem lại cho họ cơ hội sống một cuộc sống chủ yếu là b́nh thường với những cách trị liệu tốt.”

Nhưng các bệnh nhân AIDS cho biết họ tiếp tục phải chống lại với thành kiến xă hội gắn liền với căn bệnh này, như lời bà Kathy Bennett sau đây.

Bà Bennett nói: “Có rất nhiều thành kiến hồi đó, và ngày nay cũng vẫn c̣n nhiều thành kiến.”

Ngoài việc điều trị, một thách thức lớn khác là kiểm tra sự lây lan của HIV. Nguy cơ truyền bệnh vẫn c̣n cao trong giới dưới 30 tuổi. Và tại Quỹ Nhi khoa Elizabeth Glaser, trọng tâm chú ư hướng vào việc bảo vệ các trẻ sơ sinh và các em nhỏ khỏi bị lây nhiễm. Bác sĩ R.J. Simonds, phó chủ tịch của quỹ này, nói đă đạt được tiến bộ, nhất là tại các nước đang phát triển.

Bác sĩ Simonds cho biết: “Các bà mẹ được xác định là nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai có thể uống một loại thuốc có thể ngăn đứa con khỏi bị nhiễm HIV.”

Nhưng một báo cáo y tế của Liên Hiệp Quốc nói rằng c̣n lâu mới thắng được cuộc chiến chống bệnh AIDS, và không thể chịu đựng nổi các tổn phí.

Tuần tới tại Liên Hiệp Quốc, 30 vị nguyên thủ quốc gia sẽ họp để duyệt lại tiến bộ đáng kể đă thực hiện được trong công cuộc pḥng chống AIDS và vạch ra đường hướng tương lai cho việc điều trị căn bệnh này
Back to top

florida80 04-20-2019 19:21

E. coli tại châu Âu
 
Chưa rơ nguồn gốc dịch E. coli tại châu Âu


Tổ chức Y tế Thế giới WHO báo cáo chưa có tiến bộ để xác định ḍng vi khuẩn E. coli lạ lùng đă gây ra cái chết cho nhiều người Đức. Số mới nhất của WHO là hơn 1.800 ca lây khuẩn này tại nhiều nước, và số người chết là 18. Trong số này trên 1.700 ca và 17 người chết là ở Đức.
Lisa Schlein | Geneva

WHO báo cáo ḍng khuẩn mới này đă lan sang 12 quốc gia kể từ khi ca đầu tiên được ghi nhận ở Đức vào giữa tháng 5.

Các nhà khoa học trên thế giới đang thu thập thông tin về ḍng E. coli hiếm thấy này, nhưng nguồn gốc của nó vẫn chưa ai biết.

Bà Andrea Ellis, chuyên viên dịch tễ của WHO cho biết:

“Vi khuẩn lan từ người này sang người kia thông thường là do phân của động vật mà người ta ăn vào. Do đó, rất dễ lây nếu ta không chú ư đến vấn đề vệ sinh. Ví dụ một người bị tiêu chảy, sau khi đi cầu không chịu rửa tay, rồi lại bắt tay người khác, thế là nguy cơ truyền bệnh xảy ra. Tuy nhiên, không phải đó là lư do duy nhất. Có điều là chúng ta cần cẩn thận giữ vệ sinh cá nhân.”

Cho tới nay, tất cả các ca đều liên hệ đến miền bắc nước Đức. Những người bị nhiễm hoặc những người chết là những cư dân trong vùng này hoặc du hành đến vùng này.

Các chuyên viên đang tập trung xem thức ăn gây bệnh đă được bán ra cụ thể ở cửa hàng nào.

Chuyên viên Ellis nói tiếp: “Cho đến giờ này, rơ ràng là dịch bệnh chủ yếu chỉ giới hạn trong một vùng, do đó, WHO chưa thấy cần đưa ra cảnh báo du hành.”

Thế nhưng dịch này làm khắp châu Âu hốt hoảng. Khách hàng đă ngưng mua dưa leo đến từ Tây Ban Nha sau khi nhà chức trách Đức xác định lầm rằng dưa leo nhập của Tây Ban Nha mang vi khuẩn E. coli.

Nga đă cấm nhập rau cải của EU, khiến nhiều nhà nông có thể phá sản.
E. coli đánh vào thận và có thể làm co giật cơ thể, ngất đi, và hôn mê.

Chuyên viên Ellis nói chỉ có 10% người bị E. coli tấn công qua đường ẩm thực là gặp các biểu hiện phức tạp nghiêm trọng; đa số c̣n lại đều phục hồi.

Nhưng lần này, ḍng khuẩn mới gây ra số bệnh nhân đông một cách bất thường, và đó là điều làm WHO lo ngại.
Back to top














Chưa rơ nguồn gốc dịch E. coli tại châu Âu


Tổ chức Y tế Thế giới WHO báo cáo chưa có tiến bộ để xác định ḍng vi khuẩn E. coli lạ lùng đă gây ra cái chết cho nhiều người Đức. Số mới nhất của WHO là hơn 1.800 ca lây khuẩn này tại nhiều nước, và số người chết là 18. Trong số này trên 1.700 ca và 17 người chết là ở Đức.
Lisa Schlein | Geneva

WHO báo cáo ḍng khuẩn mới này đă lan sang 12 quốc gia kể từ khi ca đầu tiên được ghi nhận ở Đức vào giữa tháng 5.

Các nhà khoa học trên thế giới đang thu thập thông tin về ḍng E. coli hiếm thấy này, nhưng nguồn gốc của nó vẫn chưa ai biết.

Bà Andrea Ellis, chuyên viên dịch tễ của WHO cho biết:

“Vi khuẩn lan từ người này sang người kia thông thường là do phân của động vật mà người ta ăn vào. Do đó, rất dễ lây nếu ta không chú ư đến vấn đề vệ sinh. Ví dụ một người bị tiêu chảy, sau khi đi cầu không chịu rửa tay, rồi lại bắt tay người khác, thế là nguy cơ truyền bệnh xảy ra. Tuy nhiên, không phải đó là lư do duy nhất. Có điều là chúng ta cần cẩn thận giữ vệ sinh cá nhân.”

Cho tới nay, tất cả các ca đều liên hệ đến miền bắc nước Đức. Những người bị nhiễm hoặc những người chết là những cư dân trong vùng này hoặc du hành đến vùng này.

Các chuyên viên đang tập trung xem thức ăn gây bệnh đă được bán ra cụ thể ở cửa hàng nào.

Chuyên viên Ellis nói tiếp: “Cho đến giờ này, rơ ràng là dịch bệnh chủ yếu chỉ giới hạn trong một vùng, do đó, WHO chưa thấy cần đưa ra cảnh báo du hành.”

Thế nhưng dịch này làm khắp châu Âu hốt hoảng. Khách hàng đă ngưng mua dưa leo đến từ Tây Ban Nha sau khi nhà chức trách Đức xác định lầm rằng dưa leo nhập của Tây Ban Nha mang vi khuẩn E. coli.

Nga đă cấm nhập rau cải của EU, khiến nhiều nhà nông có thể phá sản.
E. coli đánh vào thận và có thể làm co giật cơ thể, ngất đi, và hôn mê.

Chuyên viên Ellis nói chỉ có 10% người bị E. coli tấn công qua đường ẩm thực là gặp các biểu hiện phức tạp nghiêm trọng; đa số c̣n lại đều phục hồi.

Nhưng lần này, ḍng khuẩn mới gây ra số bệnh nhân đông một cách bất thường, và đó là điều làm WHO lo ngại.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:22

Bịnh ngoài da (bịnh 'chàm')
 
Bịnh ngoài da (bịnh 'chàm')


Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của cô Ánh Phượng ở Saigon về bịnh ngoài da (bịnh “chàm”).
VOA - Bác sĩ Hồ văn Hiền Thứ Ba, 07 tháng 6 2011


Cô Ánh Phượng ở Saigon có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:

Bịnh eczema (chàm)

Theo lời tŕnh bày của thính giả Nguyễn Ánh Phượng 28 tuổi, bị bịnh ngoài da từ 14 năm nay ở tay và chân,, được định bịnh là bịnh “chàm”.

Tham khảo với những tài liệu tiếng Việt mà tôi có được, th́ chàm đây có nghĩa là eczema. Tôi dùng từ eczema thay v́ “chàm” để tránh gây hiểu lầm, trong y khoa, nếu dùng từ không chính xác, có thể bàn lạc đề, và cho trị liệu sai. Theo từ điển Việt Anh của nhà xuất bản Khoa Học Xă Hội Hà Nội th́ “chàm” có hai nghĩa khác nhau, có thể dịch sang Anh ngữ là tattoo (vết xâm ḿnh, vết chàm đen thâm trên da do thương tíc để lại), hoặc eczema. Eczema, gốc nghĩa Hy lạp là x́ ra, bung ra v́ sôi, nóng, chữ gợi h́nh, mô tả t́nh trạng lúc da bị viêm cấp tính, da bị đỏ, nóng, sưng, nứt nẻ, nổi mụn nước, đôi khi mụn mũ lên và đặt biệt là rất ngứa. Bịnh này không liên quan ǵ đến các vết đen vết nám trong da, hay vết xâm ḿnh.

Trường hợp chúng ta bàn ở đây là một loại eczema dai dẳng (persistent), trở đi trở lại, bớt rồi bị lại. Vậy xin nói rơ, bịnh chàm chúng ta bàn ở đây là một bịnh viêm da măn tính (kinh niên), gọi là viêm da cơ địa (atopic dermatitis )thường bắt đầu xuất hiện lúc bịnh nhân c̣n rất nhỏ (vài tháng tuổi). Chỉ một số rất ít trường hợp bịnh phát ra lúc bịnh nhân đă trưởng thành, nhưng nếu xét kỹ bịnh sử, có thể t́m thấy những dấu hiệu của cơ địa dị ứng (dị ứng mũi, viêm xoang, suyễn, mề đay [urticaria]), tạng da khô ở bịnh nhân hoặc những người khác trong gia đ́nh. Cách đây vài tháng tôi đă có tŕnh bày chi tiết về bịnh này ở trẻ em, xin thính giả vào mục hỏi đáp y học trên website của đài VOA nếu muốn thao khảo thêm.

Ở đây, tôi chỉ xin đi vào chi tiết về một số điểm có thể có ích cho người lớn.

1) Da người bịnh rất dễ “khó chịu” (irritable). Điều kiện ǵ làm da khó chịu đều có thể làm bịnh “trổi dậy”:

1-không khí khô: lúc mùa đông, trời lạnh, không khí khô (độ ẩm/humidity xuống thấp); nếu dùng máy lạnh lúc trời hè, oi bức, cũng làm giảm độ ẩm trong không khí và làm da khó chịu. Một số bịnh nhân ở Mỹ lúc về chơi ở VN (khí hậu ẩm thấp), bịnh da có bớt nhiều.Nếu bịnh nhân dùng những chất nhờn “emollient” như Vaseline, Eucerin, Aquaphor, thoa nhiều lần trong ngày, tránh ra nơi nhiều gió, hoặc mang găng tay, quần dài, v́ gió cũng làm da khô.

2-chỉ tắm không quá một lần một ngày, v́ càng tắm, kỳ cọ th́ da càng mất lớp mỡ che chỡ ở ngoài và khô thêm. Chỉ dùng xà pḥng nhẹ (như Dove), không có mùi thơm (dầu thơm có thể gây dị ứng. Chỉ gội đầu, thoa xà bong vào nách, háng,và bàn chân. Không dùng khăn lông, chà, không dùng bàn chải kỳ cọ.Tắm xong, không lau khô, mà chị chậm khăn vào da cho bớt ướt, và nội trong vài phút, thoa emollient (Vaseline, Aquaphor, Eucerin, petrolatum) thoa lên khắp da để khằn (seal) nước trong da, không cho bốc hơi bay đi làm da khô.Có thể cho trộn vào emollient một chút kem corticoid nhẹ như hydrocortisone 1% (bán tự do ở Mỹ) nếu da bị viêm đỏ, ngứa.

3-tránh mặc đồ len có lông gây ngứa,vải quá cứng, quần áo qúa chật, nên mặc đồ bằng bông g̣n (cotton) mịn.

4-tránh nơi quá nóng, làm đổ mồ hôi nhiều, tránh những nơi có lông, phân thú vật (pets).

2)Những lúc da khô, nứt nẻ và đau, có thể dùng những gạc (compress) nhúng nước lạnh đắp lên cho đỡ khô và đau, 10-20 phút, 2-4 lần trong ngày (wet dressings). Hoặc có thể dùng gạc tẩm dung dịch aluminum subacetate (ở Mỹ, viên Domeboro pha trong ½ lít nước lạnh), Aveeno colloidal oat meal (Aveeno bán trong hộp nhiều gói, có thể pha vào bồn tắm để ngâm, hoặc tắm). Sau đó th́ thoa kem mỡ thuốc corticoid mạnh (như clobetazol) chỉ trong vài ngày để giảm viêm thật nhanh.

3) Những mảng da dàyvà khô măn tính (chronic, dry, lichenified lesions) cần những chất corticoid thoa loại mạnh trong vài tuần,khi bớt rồi th́ giảm thuốc nhẹ hơn, giảm liều từ từ (tapering).

4) Hiện tại, bịnh nhân dùng kem “gentricreem” trong đó có 3 chất thuốc khác nhau: betamethasone (corticoid, chống viêm), clotrimazole (chống nấm) va gentamycin (kháng sinh, chống vi khuẩn), có bớt nhưng không khỏi hẳn.

Thiết tưởng đây là cách chữa khá tiện lợi và phổ biến, v́ có mục đích bao hết các khả năng có thể xảy ra: dị ứng, viêm, nhiễm khuẩn và nhiễm trùng nấm. Tuy nhiên, thuốc dùng lâu nhiều năm nên có lẽ không c̣n hiệu nghiệm lắm, và không nên dùng nữa. Hơn nữa, theo cách chữa y khoa hiện nay ở Mỹ, mỗi t́nh huống phải thay đổi cách điều trị thích hợp. Như lúc viêm cấp tính th́ cần thuốc bôi corticoid mạnh hơn, mà có dùng cũng phải dùng đến lúc có kết quả th́ giảm liều từ từ xuống qua nhiều tuần,sau đó thay bằng thuốc nhẹ hơn, nếu ngưng đột ngột bịnh bộc phát trở lại c̣n mạnh hơn. Lúc nghi có làm mủ, nhiễm khuẩn, có thể tùy trường hợp bs cho uống thuốc kháng sinh có hiệu quả hơn, hoặc thuốc thoa khác (như mupirocin, Bactroban) hiệu nghiệm hơn. Nếu có dấu hiệu thật sự làm nghi có nhiễm trùng nấm (fungal infection), th́ lúc đó hăy dùng thuốc chống nấm (antifungal) th́ kết quả tốt hơn.

Cuối cùng cũng xin nhắc qua về một loại thuốc rất đắt tiền, mới hơn, được dùng trong mục đích giảm bớt tùy thuộc vào các chất corticoid, v́ dùng corticoid lâu ngày gây biến chứng, như làm da mơng đi, yếu đi và có thể hấp thụ vào cơ thể làm giảm sức miễn nhiễm, đề kháng của cơ thể. Đó là tacrolimus (Protopic ointment) và pimecrolimus (Elidel). FDA (cơ quan quản trị thuốc và thực phẩm) cảnh báo về khả năng gây ung thư lymphomacủa hai thứ thuốc này trên thú vật, do đó phải dùng rất dè xẻng, cho những nơi mà không nên thoa corticoid (chung quanh mắt). Tuy nhiên một số bs chuyên về bịnh da vẫn thích dùng loại thuốc này.

Tóm lại, bịnh eczema bàn ở đây là một trường hợp cần bác sĩ gia đ́nh theo dơi liên tục, để đối phó với các t́nh huống và hướng dẫn bịnh nhân một cách hợp lư.Tôi rất tiếc không thể cho toa cho bịnh nhân mua về uống được.
Mong các thông tin tổng quát trên đây giúp thính giả hiểu bịnh của ḿnh hơn,bảo vệ sức khoẻ của ḿnh, đồng thời hiểu và cọng tác với bs của ḿnh.

Chúc bịnh nhân may mắn.
Cảm ơn bác sĩ Hồ văn Hiền.
Back to top
















Hoàng Thy Mai Thảo
#10 Posted : Thursday, June 9, 2011 1:29:26 AM(UTC)





Hoàng Thy Mai Thảo

florida80 04-20-2019 19:23

Điều trị bệnh viêm gan B
 
Điều trị bệnh viêm gan B


Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Vũ Trọng Hà ở Liên bang Nga về điều trị bệnh viêm gan B.

VOA - Bác sĩ Hồ văn Hiền Thứ Ba, 07 tháng 6 2011


Ông Vũ Trọng Hà đang ở Liên bang Nga có nêu thắc mắc và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:

Hepatitis B treatment

Chữa bịnh viêm gan B

Viêm gan B là một loại bịnh hiễm do siêu vi là tổn thương gan, Ở Mỹ có chừng 1,2 triệu người mắc chứng viêm gan B măn tính và trên một nữa số người này là gốc châu Á. Các khảo cứu ở Mỹ cho thấy người gốc châu Á, trong 100 người có chừng 13 người mang siêu vi gan B trong ḍng máu ḿnh (viêm gan B măn tính).Virus viêm gan B có thể lan truyền từ người này qua người khác qua bằng đường máu (kim chích, dụng cụ phẫu thuật không khử trùng đàng hoàng; dung dao cạo râu chung; do đường tính dục (sexual transmission), và từ mẹ truyền qua con lúc sanh.

Thuốc Baraclude (tên thương măi của Entecavir) được cơ quan quản trị thuốc của Hoa kỳ là FDA chấp thuận được dung để chữa những trường hợp viêm gan B mà virus sinh sản tích cực (active viral replication) cọng với tổn thương ở gan, chứng minh bằng các xét nghiệm cơ năng gan (enzyme ALT hoặc AST lên cao) hoặc sinh thiết tế bào gan cho thấy bịnh đang ở giai đoạn tích cực, hoạt động (active liver disease).Năm 2010, FDA, chấp thuận việc dùng entecavir cho các trường hợp suy gan (liver failure) do siêu vi gan B.
Bịnh nhân đă dung entecavir được 3 năm và virus không thấy sinh sản nữa, và cơ năng gan b́nh thường. Câu hỏi đặt ra là có ngưng thuốc được chưa, v́ có nhiều ư kiến khác nhau giữa những bs được tham vấn. Theo tôi nghĩ, câu trả lời thích hợp nhất là của bác sĩ đang theo dơi bịnh nhân thường xuyên tại Nga, Thường người quyết định bắt đầu một loại trị liệu, thuốc men cho bịnh nhân là người đă từng đặt những mục tiêu (tiêu chí) cần thực hiện trước khi bs đủ bằng ḷng về kết quả trị liệu để có thể ngưng thuốc được.
Đối với thuôc entecavir,xin trích dẫn một số điểm công bố trong package insert được FDA chấp thuận:

-Các biến chứng thường gặp nhất: nhức đầu, mệt mơi, buồn nôn, ói.
-Uống entecavir nếu ngừng đột ngột có thể là bịnh nhiễm trở nặng hơn, nhất là trong 6 tháng đầu.
-Thuốc thải ra ngoài do thận, nên nếu cơ nặng thận yếu, giảm thấp do tuổi già, phải điều chỉnh liều thuốc.Thuốc lại có khả năng gây độc gan (hepatotoxicity): nếu da vàng, buồn nôn,phân mất màu, trở n6n trắng, phải cho bs ḿnh biết.
-Thuốc không có khả năng trị dứt (cure) nhiễm trùng siêu vi gan B mà chỉ làm giảm lượng virus trong cơ thể, giảm khả năng nhiễm những tế bào gan mới.
-Thuốc có thể làm cơ năng gan tốt hơn.
-Tuy nhiên theo kiến thức hiện nay, không biết thuốc có giảm nguy cơ ung thư và xơ gan do viêm gan B măn tính gây ra hay không.

Các công bố khoa học về entecavir chỉ nói đến những trị liệu kéo dài ngắn hơn (chừng 1 năm), không lâu như trường hợp ở đây.Theo FDA th́ thời gian tối ưu để dùng entecavir chưa được xác định. Kéo dài có thể giúp kiểm soát siêu vi lâu hơn, nhưng ngược lại th́ có thể lờn thuốc, biến chứng và tốn tiền nhiều hơn. Do đó vị thính giả nhận được những lời khuyên trái ngược nhau từ các bs, tiến sĩ là chuyện hiểu được.

Tóm lại, bịnh nhân nên theo hướng dẫn của bs đang theo dơi thường xuyên cho ḿnh. Mong những thông tin này có thể giúp ích cho thính giả ư thức nhiều hơn về những trị liệu của ḿnh và cộng tác với bác sĩ của ḿnh tốt hơn.

Chúc bịnh nhân may mắn.
Cảm ơn bác sĩ Hồ văn Hiền.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:24

Cam kết trị liệu cho tất cả những người nhiễm HIV ở các nước nghèo
 
Cam kết trị liệu cho tất cả những người nhiễm HIV ở các nước nghèo



Thanh Hà
Hôm nay, 10/06/2011, Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Sida/Aids tại New York chính thức khép lại. Một ngày trước lễ bế mạc, các nước giàu đồng ư bảo đảm trị liệu cho 15 triệu người bị nhiễm siêu vi HIV tại các quốc gia chậm phát triển từ nay cho đến năm 2015.

Cam kết trên đây được các tổ chức bảo vệ nạn nhân Sida/Aids hoan nghênh, cho dù các bên chưa đề cập một cách cụ thể về vấn đề tài chính cho chương tŕnh y tế đầy tham vọng nói trên.

Theo tổ chức chống Sida/Aids của Liên Hiệp Quốc ONUSIDA, hiện có khoảng 15 triệu nạn nhân bị nhiễm HIV tại các nước nghèo hoặc các quốc gia có thu nhập thấp.

Cho đến nay, mới chỉ có 6 triệu người bị lây nhiễm tại các nước nghèo được điều trị, khoảng 9 triệu người khác không hề được quan tâm.

Vẫn theo tổ chức ONUSIDA th́ tại những quốc gia này, hàng năm, có tới 1,8 triệu người chết v́ siêu vi HIV.

Các tổ chức chống Sida/Aids hân hoan đón nhận cam kết của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, theo hiệp hội Act Up th́ các bên nên nhanh chóng cụ thể hóa chương tŕnh hành động, cho dù đây là một bước tiến lịch sử của cộng đồng quốc tế trước thảm họa Sida/Aids.

30 năm sau khi siêu vi HIV được phát hiện, mỗi ngày trên thế giới có thêm 7000 người bị lây nhiễm.

Hội nghị chống Sida/Aids của Liên Hiệp Quốc tổ chức tại New York năm nay quy tụ khảong 30 nguyên thủ quốc gia và thủ tướng chính phủ.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:25

Phát động chiến dịch diệt trừ bệnh AIDS nơi trẻ em và trẻ sơ sinh
 
Các nhà lănh đạo thế giới và giới hoạt động dự một cuộc họp cấp cao tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này về cách ứng phó với HIV AIDS đă phát động một kế hoạch toàn cầu hướng tới việc loại trừ các ca lây nhiễm HIV mới ở trẻ em trước năm 2015.
Margaret Besheer Thứ Sáu, 10 tháng 6 2011


H́nh: AP
Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Tổng thư kư Liên hiệp quốc Ban Ki-moon dự hội nghị vế vấn đề bài trừ HIV/AIDS tại trụ sở Liên hiệp quốc



Trên khắp thế giới, AIDS là nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong nơi phụ nữ ở tuổi sinh sản. Nhiều người thậm chí không biết là ḿnh bị nhiễm bệnh cho đến lúc mang thai. Điều trị khi đó là điều cấp thiết, bởi v́ khi một phụ nữ mang thai sử dụng các loại thuốc chống virút th́ nguy cơ đứa trẻ sinh ra bị lây nhiễm có thể giảm xuống chưa đầy 5%. Điều này cũng có nghĩa là người mẹ sẽ mạnh khỏe lâu hơn để chăm sóc cho con.

Bà Babalwa Mbono người Nam Phi là một trong những phụ nữ vừa kể. Bà nói niềm vui khi biết ḿnh có thai đă bị che mờ bởi nỗi lo sợ khi bà phát hiện rằng ḿnh bị nhiễm virut HIV gây bệnh AIDS.

Bà nói: “Nỗi tuyệt vọng khi không biết ḿnh sẽ sống ra sao, có c̣n sống để mà nuôi dậy con lớn lên hay không. Và tuyệt vọng khi nghĩ rằng ḿnh sẽ làm một đứa trẻ vô tội nhiễm bệnh.”

Nhưng bà Mbono nằm trong số những người may mắn bởi v́ được sự phụ trợ của một tổ chức có tên là Mothers2Mothers, là tổ chức cung cấp sự chăm sóc, hỗ trợ và giáo dục cho các bà mẹ có HIV dương tính.

Bà nói: “Tôi biết được cách thức tự chăm sóc cho ḿnh và cho con ḿnh, và tôi học được cách thức sử dụng thuốc men và làm các cuộc thử nghiệm cần thiết, và tôi cũng học được cách cho con ăn. Tôi c̣n học được cả cách chống lại với thành kiến gắn liền với HIV.”

Với kiến thức cùng các công cụ này, đứa con của bà Babalwa sinh ra đă không bị nhiễm HIV, và nay bà đang giúp cho những bà mẹ khác bị HIV dương tính.

Tuy có những câu chuyện về các thành quả tốt đẹp như thế, vẫn c̣n nhiều phụ nữ mang thai cần được hưởng các dịch vụ như thế này cùng các dịch vụ khác nữa. Năm 2009, khoảng 370 ngàn trẻ sinh ra bị nhiễm HIV, gần như tất cả đều ở các nước có thu nhập thấp hay trung b́nh, chủ yếu ở Châu Phi trong vùng phía nam sa mạc Sahara.

Theo một chương tŕnh vừa phát động hôm qua, mục tiêu sẽ là giảm thiểu con số vừa kể xuống 90 phần trăm trong ṿng 4 năm.

Kế hoạch nhắm tới việc đạt được mục tiêu đó bằng cách mở rộng việc tiếp cận các dịch vụ pḥng chống và điều trị HIV có thể cứu được mạng sống cho các bà mẹ và những đứa con của họ; kết hợp các dịch vụ y tế cho phụ nữ; và đem lại cho họ sức mạnh để bảo đảm sức khỏe cá nhân họ và sức khỏe của những đứa trẻ.

Hoa Kỳ đă rất tích cực trên mặt trận này và đă cam kết thêm 75 triệu đôla cho kế hoạch toàn cầu. Phát biểu tại buổi lễ phát động kế hoạch, Phối hợp viên AIDS toàn cầu của Hoa Kỳ, ông Eric Goosby nêu ra sự cách biệt giữa tỷ lệ bệnh AIDS nơi trẻ em tại các nước đă phát triển so với những nước đang phát triển.

Ông nói: “Tại Hoa Kỳ và châu Âu, bệnh AIDS ở trẻ em nay đă lùi vào lịch sử, tuy nhiên ở nhiều nước, gần như mỗi phút đồng hồ lại có 1 đứa trẻ sinh ra bị nhiễm HIV, mặc dù chúng ta có kiến thức để ngăn ngừa việc ấy. Bảo đảm rằng tất cả những trẻ sơ sinh không bị nhiễm HIV phải là một ưu tiên toàn cầu, chứ không phải phó mặc cho may rủi về địa lư.”

Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon nhắc lại mối quan ngại này, và nói các bà mẹ ở mọi nơi đều cảm nhận một t́nh yêu như nhau đối với con của ḿnh và đáng được nhận những chọn lựa như nhau về cách điều trị. Ông nêu ra rằng thành quả trong việc loại trừ sự lây truyền HIV từ mẹ sang con tại các nước đă phát triển chứng tỏ rằng việc đó có thể thực hiện trên phạm vi toàn cầu.

florida80 04-20-2019 19:27

Quốc tế hứa cung cấp 4 tỉ đô la để chủng ngừa cho trẻ em
 
Quốc tế hứa cung cấp 4 tỉ đô la để chủng ngừa cho trẻ em


Chích ngừa cho trẻ em

Các quốc gia và tổ chức quốc tế đă hứa cung cấp hơn 4 tỉ đô la để chích ngừa cho trẻ em chống các bệnh đe dọa tới tính mạng như viêm phổi và sởi.


florida80 04-20-2019 19:28

Tổ chức chống nạn đói toàn cầu vận động sự chú ư của công luận
 




Cứ một trong 3 trẻ em trên toàn thế giới thiếu dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu, từ trong bụng mẹ cho đến hết hai tuổi, sẽ chịu thiệt hại không thể đảo ngược được trong việc phát triển thể chất lẫn tâm trí. Đây là nhận định của tổ chức chống đói toàn cầu có tên là Bread for the World. Hôm thứ hai, tổ chức này đă tập hợp rầm rộ tại thủ đô Washington, trong nỗ lực vận động chính trị cho đà tiến của lư tưởng mà tổ chức theo đuổi, đó là cải thiện dinh dưỡng cho các thai phụ và trẻ sơ sinh trên khắp thế giới.

UserPostedImage
H́nh: Reuters
Một bà mẹ đang cho con ăn tại trung tâm phục giúp hồi dinh dưỡng cho trẻ trong bang Madhya Pradesh, Ấn Độ

Tại bang Tamil Nadu của Ấn Độ, tử suất của trẻ sơ sinh đang giảm dần. Dịch vụ chăm sóc miễn phí, gần nhà, cho các thai phụ trước khi sinh nở là điểm mấu chốt trong chiến dịch của Ấn nhắm hạ giảm các ca tử vong trong lúc sinh nở cho các bà mẹ và cho trẻ sơ sinh.

Các nhân viên tại các chẩn y viện chỉ dẫn cho các bà mẹ làm sao để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho con trẻ và làm sao giữ cho họ khỏe mạnh bằng dinh dưỡng đúng cách trong lúc mang thai.

Một thai phụ nói: ”Cứ hai tuần tôi đến đây một lần để khám thai và họ cho tôi thuốc và vitamins mà tôi cần. Các nhân viên y tế cũng chỉ dẫn cho tôi biết là nên ăn nhiều rau xanh, thức ăn có nhiều iron (chất sắt), và trứng.”

Thiếu dinh dưỡng trong giới phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh là chủ đề của một cuộc hội thảo đông đảo tại Washington hôm thứ Hai, ngày 13 tháng Sáu.

Hàng trăm nhân viên cứu trợ và các nhà hoạt động tranh đấu đă tập hợp để mưu t́m đà tiến cho những nỗ lực về dinh dưỡng mà họ nói có thể cứu mạng hàng triệu trẻ em mỗi năm.

Giám đốc ASMA LATEEF của tổ chức chống đói toàn cầu Bread of the World, nhóm tổ chức cuộc hội thảo, nói:

”Chúng tôi biết là nếu mất đi cơ hội dinh dưỡng đầy đủ trong 1.000 ngày đầu tiên từ lúc trong bụng mẹ cho đến hết 2 tuổi, th́ ảnh hưởng tai hại của nó sẽ không thể vớt vát được. Quí vị sẽ không thể làm ǵ để bù đắp vào khoảng thời gian tối quan yếu đó.”

Giám đốc Lateef cho biết những nỗ lực đó rất đơn giản, như rửa tay, để giảm nguy cơ bệnh tiêu chảy, và nuôi con bằng sữa mẹ, cách dinh dưỡng lành mạnh nhất cho trẻ sơ sinh, thật hiệu nghiệm giúp chống lại t́nh trạng thiếu dinh dưỡng.

Và đây là những phương cách đầu tư tương đối rẻ ở ngay tuyến đầu để tiết kiệm ngân sách quốc gia sau này. Giám đốc Lateef cho biết tiếp:

”Những nước bị nạn thiếu dinh dưỡng trầm trọng, khoảng 36 nước trên thế giới, bị mất đi từ 2 đến 3% tổng sản lượng quốc gia hay tổng số thu nhập của quốc gia v́ thiếu dinh dưỡng. Đó là một mất mát thê thảm."

Các nhà hoạt động tranh đấu chống nạn đói toàn cầu hy vọng quảng bá rộng răi được lư tưởng mà họ đang theo đuổi.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đă chú ư đến những nỗ lực của tổ chức này. Bà đă phát động Chương tŕnh Cộng Tác Một Ngàn Ngày tại Hội nghị Thượng đỉnh về các Mục tiêu Phát Triển của Liên Hiệp Quốc vào năm ngoái. Mục đích của chương tŕnh này là chấm dứt nạn thiếu dinh dưỡng nơi trẻ em.

Bà nói:”Chính quyền Obama đă đặt phụ nữ và trẻ em làm trọng tâm của những nỗ lực phát triển của chúng ta, gồm cả chương tŕnh sức khỏe toàn cầu, một sáng kiến trị giá 63 tỉ đô la để cải thiện sức khỏe bà mẹ-trẻ em, kế hoạch hóa gia đ́nh, dinh dưỡng...”

Các chuyên gia dinh dưỡng cho thai phụ và trẻ em nói rằng những quốc gia vẫn liên tục vất vả khắc phục nạn đói phải dẫn đầu cuộc chiến tại quốc gia họ, với sự hỗ trợ lâu dài từ các quốc gia giàu có.
Back to top

florida80 04-20-2019 19:30

Chứng hoại tử chỏm xương đùi và cường tuyến giáp
 
Chứng hoại tử chỏm xương đùi và cường tuyến giáp

Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của ông Nguyễn văn Hùng ở Nha Trang về chứng hoại tử chỏm xương đùi và cường tuyến giáp.


Ông Nguyễn văn Hùng ở Nha Trang kể về trường hợp bệnh của ông và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:

Avascular necrosis (osteonecrosis) of the head of the femur and hyperthyroidism.

Hoại tử đầu (chỏm) xương đùi và cường tuyến giáp ở bịnh nhân 57 tuổi.

Khớp háng gồm một bên là xương đùi; phần trên xương đùi có đầu xương (chỏm) gắn vào cổ xương rồi mới đến thân xương. Đầu xương đùi tṛn nằm trong một cái hốc ở hai bên hông, h́nh giống cái ly gọi là ổ cối (acetabulum=chữ latin có nghĩa “ly đựng dấm”), ăn khớp với nhau. Đầu xương được bao bọc bằng một lớp sụn.

Cũng giống như đa số bộ phận khác, đầu xương đùi cần có máu đem oxy và các chất dinh dưỡng đến nuôi mới tồn tại được. Có những mạch máu nhỏ đâm nhánh từ dưới, mọc ngược lên dọc theo cỗ xương đùi và chui vào đầu xương để nuôi dưỡng đó. Trái lại sụn bọc đầu xương nhờ nước hoạt dịch trực tiếp nuôi dưỡng nên không cần đến các mạch máu này. Nếu mạch máu nghẽn, xương nằm dưới sụn sẽ dần dần chết đi (necrosis, hoại tử). Dần dần, phần xương dưới sụn chết lún xuống, kéo theo lớp sụn bọc ở trên, và kéo theo toàn bộ khớp háng bị hư hại, phải cắt bỏ, thay bằng khớp giả (total hip arthroplasty).

Trong một số trường hợp các mạch máu này dễ bị bị gián đoạn họăc tắc nghẽn:

• Chấn thương vùng háng: trặc khớp, gảy cỗ xương đùi, có thể làm đứt, bẻ ngoặc (kinking), hoặc máu đông nghẽn các động mạch.
• Dùng corticoid (corticosteroid) là những chất tương tự như chất vỏ thượng thận tiết ra, có khả năng làm giảm các hiện tượng viêm (anti-nflammatory), dùng trong các bịnh như suyễn (asthma), viêm khớp măn tính. Ví dụ, nếu bịnh nhân dùng prednisone 15mg mỗi ngày trong một tháng, nguy cơ hoại tử xương là 15%.Giả thuyết cho rằng dùng corticoid lâu ngày làm các chất triglycerides tăng lên trong máu, tăng các tế bào mỡ trong ḷng đầu xương đùi, đè ép lên các mạch máu. Một biện pháp ngăn ngừa khá hữu hiệu trong các trường hợp này là cho bịnh nhân uống kèm các thuốc statin, có tác dụng giảm cholesterol và triglycerides trong máu.
• Các nguyên nhân khác: nghiện rượu, viêm tùy tạng (pancreatitis), bịnh gout (t hống phong) và một số bịnh hiếm hơn.
Những vùng xương khác có thể bị hoại tử là vai, khuỷu tay, cỗ chân.
Triệu chứng đầu tiên là đau. Những tổn thương trong xương lúc đầu có thể cần MRI (chụp h́nh cọng hưởng từ trường)hoặc scan xương bằng chất phóng xạ (bone scan) mới thấy thay đổi, sau đó là CT scan (cắt lát kỹ thuật số) và cuối cùng chụp h́nh X quang thường phát hiện được những trường hợp đă rơ ràng hơn. Có nghĩa là lúc mới bịnh, chụp h́nh XRay thường có thể không phát hiện tổn thương ǵ trong xương và bịnh nhân nếu tiếp tục đau cần được bác sĩ theo dơi kỹ lưỡng.

Về biện pháp trị liệu lúc bịnh c̣n nhẹ, có thể giúp vùng xương hoai tử hồi phục lại bằng cách giảm chịu lực chân đau, tránh đừng cho sức nặng cơ thể đè lên khớp (avoidance of weight bearing) bằng cách giảm bớt hoạt động, đi bằng nạng trong ít lắm là vài tuần lễ. Nếu bịnh chưa nặng lắm, bịnh nhân c̣n trẻ tuổi,, một số bs phẫu thuật có thể cố gắng ghép xương có kèm theo ghép mạch máu nuôi dưỡng hay không. (vascularized or non vascularized bone grafting).Nếu không ngăn chặn được, biện pháp cuối cùng là thay khớp nhân tạo.

Trong trường hợp bịnh nhân,những thuốc được dùng gốm thuốc giảm viêm và đau (meloxicam), Hasanflon 500 (diosmin và hesperidin, Detralex, chữa tĩnh mạch yếu, dăn, bịnh trỉ)) có tác dụng giúp cơ năng các mạch máu,, Calvit C (calcium và vitamin C).Bịnh nhân không cho biết có tránh chịu lục chân đau chưa. Tôi thiết nghĩ bịnh nhân nên tiếp tục các thuốc này cho đến khi hẹn khám lại với bs. Lúc đó bs có thể sẽ dùng chẩn đoán h́nh ảnh (imaging) như CT, MRI trước khi quyết định có phải dùng phẫu thuật hay không.

Về bịnh thứ hai là bịnh cường giáp (hyperthyroidism ) của độc giả hỏi, điều trị với Thyrozol (thiamazole). Bịnh cường giáp do tuyến giáp trạng ở phía trước cỗ tiết vào máu quá nhiều thyroxin là kích thích quá độ biến dưỡng cơ thể: tim đập quá nhanh, dễ mệt, tay chân run rẩy, sụt cân, áp huyết lên cao, lo lắng, hồi hộp. Bịnh Graves (Graves disease, Maladie de Basedow) là một bịnh do chứng tự miễn nhiễm (autoimmune disease) gây ra, các kháng thể kích thích và làm tuyến giáp to ra (bướu cỗ, goiter), mắt lồi (exophthalmos), tuyến giáp sản xuất qúa nhiều hormone thyroxin vào máu. Uống chất iod nhiều quá có thể làm bịnh Graves khởi phát, cần hỏi bs có nên tránh uống hoặc ăn quá nhiều iode.

Thuốc thyrozol không có bán trên thị trường Mỹ. Thường dùng từ 6 tháng đến 2 năm, sau một thời gian dùng thuốc có khi phải dùng hormone thyroid kèm theo. Thính giả nên liên lạc ngay với bs của ḿnh, hoặc bs chuyên về nội tiết (endocrinologist) để điều chỉnh liều lượng, theo dơi các phản ứng phụ nếu có (bịnh ngoài da, cơ năng gan, xem cần uống them hormone giáp hay không).

Chúc bịnh nhân may mắn.

Cảm ơn bác sĩ Hồ văn Hiền.

florida80 04-20-2019 19:30

Chứng nhức đầu, chóng mặt dai dẳng
 
Chứng nhức đầu, chóng mặt dai dẳng

Trong chương tŕnh Hỏi Đáp Y Học kỳ này, bác sĩ Hồ văn Hiền sẽ trả lời thắc mắc của cô Nguyễn thị Giang ở Saigon về chứng nhức đầu, chóng mặt dai dẳng của mẹ cô.

Bác sĩ Hồ văn Hiền


Cô Nguyễn thị Giang ở Saigon có tŕnh bầy về trường hợp bệnh của mẹ cô và được bác sĩ Hồ văn Hiền giải đáp:

Bịnh nhân nữ 48 tuổi bị nhức đầu, chóng mặt, yếu người từ nhiều năm, uống thuốc khỏi, sáu tháng sau bị lại.

Thính giả con bịnh nhân nêu trường hợp của người mẹ, chỉ với vài chi tiết, nên tôi không thể bàn riêng cho trường hợp này mà chỉ là một số thông tin có thể có ích cho người bị chứng nhức đầu măn tính (chronic headache).

Đa số nhức đầu măn tính là do migraine,do căng thẳng (tension headache) hoặc do trầm cảm (depression).Những nguyên do khác xảy ra ít hơn, nhưng nếu có th́ nghiêm trọng hơn như chấn thương đầu, u bướu trong đầu, tổn thương ở xương cỗ, hoặc trường hợp bịnh liên hệ như vi êm xoang hàm, áp huyết cao. Nếu chẩn đoán h́nh ảnh như CT scan, MRI không thấy u bướu, chảy máu trong xương sọ, hoặc không thấy xương cỗ có ǵ bất b́nh thường, th́ chúng ta bớt phải lo về những vấn đề trên. Thính giả nhắc đến kết quả chụp h́nh, h́nh như nói thấy “đ àn hồi thành mạch máu năo giăn”, (tôi nghe không rơ).Về điểm này cần hỏi lại bác sĩ của bịnh nhân cho rơ bs định bịnh ch ính xác bịnh nhân mắc bịnh ǵ, v́ đây là những dấu hiệu không rơ rệt, không phải là định bịnh chính xác c ủa bs quang tuyến nên không thể bàn ở đây.

Tuy nhiên trong đa số trường hợp làm CT thường hoặc MRI khó thấy rơ mạch máu như thế nào, trừ trường hợp chụp h́nh mạch máu (angiogram): bịnh nhân được chích một chất cản quang (contrast material) vào mạch máu,(contrast material thường có iod cho nên một số người có thể bị phản ứng, cần cho bs biết nếu ḿnh dị ứng với iod) (như CT angiogram), hoặc dùng một chất như gadolinium (không có iod) cho MRI angiogram. Nếu chỉ chụp h́nh đầu mà không dùng cản quang, th́ chắc không phải là chụp h́nh mạch máu (angiography). Mục đich làm chẩn đoán h́nh ảnh mạch máu bộ óc bằng CT scan hoặc MRI thường là t́m những dị dạng về mạch máu (arterio-venous malformations), mạch máu nhỏ bị nỡ ph́nh ra (tangled dilated blood vessels) dễ vỡ, hoặc máu chạy tắt từ nơi động mạch qua thẳng tĩnh mạch mà không qua những mạch máu nhỏ li ti cần thiết cho sự dinh dưỡng tế bào óc vùng đó (arterio-venous shunt). Một số trường hợp nhức đầu do vách động mạch bị yếu và giăn, ph́nh ra, (aneurysm) gây nhức đầu cấp tính. Những dị dạng mạch máu này có thể trị bằng phẩu thuật (microneurosurgery), hoặc bằng cách bơm keo (glue) vào trong m ạch máu dị dạng cho bít lại, hoặc dùng quang tuyến chiếu vào đó cho mạch m áu bất b́nh th ường teo lại (radiosurgery) trong một số trường hợp. Nếu chụp h́nh mạch máu óc (arteriogram) mà thấy những AV malformation này, cần được giới thiệu đến bs chuyên về giải phẩu thần kinh (neurosurgeon) hoặc bs quang tuyến chuyên về can thiệp (interventional radiology).

Nếu uống thuốc mà thấy bớt, và bịnh đă kéo dài nhiều năm, trường hợp này có lẽ ở trong mấy diện thông thường nhất:

1) Tension headache thường gặp nhất, đàn bà nhiều 3 lần hơn đàn ông: (“nhức đầu do căng thẳng”, một phần do co thắt các bắp thịt, một phần do cách năo bộ đối phó với stress):

Bịnh nhân nhức đầu suốt ngày, như đầu bị bóp lại, kẹp lại (vise-like), bịnh nhân mệt mơi một cách mơ hồ, khó tập trung (poor concentration), những lúc bị stress, mệt, chói mắt hoặc ồn ào lại càng nhức đầu hơn. Điều trị bằng thuốc giảm đau thông thường như acetaminophen, ibuprofen; áp dụng các biện pháp thư giăn như thể dục, yoga, ngồi thiền, tắm nước nóng, châm cứu. Một số bịnh nhân giảm đau đầu nhờ chích Botox vào các chỗ đau.

2) Nhức đầu do trầm cảm (depression): nhức đầu nhiều nhất lúc sáng mới ngủ dậy, kèm theo những triệu chứng trầm cảm như chán đời, không thích làm việc, thấy ḿnh không làm ǵ ra tṛ, không đáng ǵ. Có thể cần bs tâm lư (psychologist) hoặc thần kinh (psychiatrist) giúp đỡ.
3) Migraine: thường cơn đau một bên đầu,nhưng có thể cả hai bên, đau bưng bưng (throbbing pain), nhưng có thể âm ỉ, có thể kèm theo buồn nôn, không ăn ngon, mắt mờ, sợ ánh sáng hoặc tiếng động. Migraine nhẹ chữa bằng những thuốc thông thường như acetaminophen, NSAIDS như Motrin, Aleve. Bn nằm nghỉ ngơi ở trong pḥng yên tĩnh, tối.
Nặng hơn, bs có thể dùng những thuốc làm co mạch máu như ergotamine (Cafergot, trong đó có thêm caffeine) hoặc thuốc tryptan ( như Sumatriptan, Imitrex) mới hơn, làm giảm viêm và co lại các động mạch dưới sọ (cranial arteries). Nếu bị đau migraine trên 3 lần mỗi tháng, bs có thể cho thuốc uống hàng ngày để chặn các cơn đau đầu (ví dụ aspirine, propanolol (thuốc hạ áp huyết), cyproheptadine –là một thuốc chống dị ứng, thường dùng cho trẻ em ăn ngon miệng hơn).

Chúc bịnh nhân may mắn.

florida80 04-20-2019 19:32

Có nên sợ gây mê toàn phần ?
 




Gây mê
DR

Thụy My
Rất nhiều người sợ hăi việc bị gây mê toàn phần khi phải chịu phẫu thuật. Nhưng giới y tế cho biết, gây mê không nguy hiểm, các sự cố rất hiếm khi xảy ra.
Tất cả các thống kê đều cho thấy, hầu hết mọi người đều cảm thấy khủng hoảng khi bị gây mê toàn phần trước lúc tiến hành phẫu thuật. Trước hết, người ta sợ khi gây mê xong sẽ … ra đi vĩnh viễn, sau đó là sợ khó tỉnh dậy được. Nhiều người Pháp vẫn c̣n nhớ vụ cựu Bộ trưởng Jean-Pierre Chevènement đă bị hôn mê suốt tám ngày, sau khi gây mê vào năm 1998 do bị dị ứng thuốc. Một số người lại lo sợ, nếu khi gây mê mà vẫn tỉnh táo trong quá tŕnh phẫu thuật. Nói chung là, hiếm có người nào cảm thấy thanh thản khi bị gây mê, trong khi đây là thủ tục bắt buộc, nhằm giúp cho bệnh nhân không cảm thấy đau đớn.

Bác sĩ André Lienhart, trưởng khoa gây mê hồi sức bệnh viện Saint-Antoine ở Paris, từng tham gia vào một cuộc điều tra năm 2006 về vấn đề này cho biết, tỉ lệ tử vong khi gây mê chỉ là 1/145.000 trường hợp. Đây cũng là tỉ lệ b́nh quân của các quốc gia phát triển. Con số trên đây có thể giúp cho bệnh nhân an tâm, tuy vẫn có nhiều người nghĩ rằng, lỡ ḿnh nằm trong số trường hợp xui xẻo th́ sao.

Nguyên tắc của gây mê : Trước hết thường là cho bệnh nhân thuốc an thần, rồi mới bắt đầu gây mê qua đường tĩnh mạch, bằng cách chích vào thuốc ngủ có tác dụng cấp thời, có thể pha với một chất phái sinh của morphine. Đôi khi người ta c̣n thêm vào một chất gây tê liệt toàn thân để làm giăn cơ nếu cần thiết. Sau đó bệnh nhân sẽ ch́m sâu vào giấc ngủ, không c̣n cảm thấy đau đớn, để các bác sĩ có thể giải phẫu.

Những rủi ro của gây mê là ǵ ? Nguy cơ thường xảy ra nhất là khó thở, sau đó là dị ứng, rồi các biến chứng có thể gây ra thiểu năng tim, thậm chí xuất huyết đối với những người có tiền sử bệnh hoặc cơ thể quá yếu. tuy rất hiếm hoi, nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân vẫn tỉnh táo trong quá tŕnh phẫu thuật, dù không cảm thấy đau, nhưng đương nhiên rất bị khủng hoảng. Cuối cùng là các rủi ro bị giảm chú ư, rồi bị đau đầu, nôn mửa sau khi tỉnh dậy.

Nhưng trên thực tế, các sự cố rất hiếm khi xảy ra. Tại Pháp, chỉ có vài trường hợp là có vấn đề, trong tổng số 6 triệu ca gây mê toàn phần hàng năm. Đă có rất nhiều bước tiến lớn trong những năm gần đây giúp giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là việc khám bệnh tiền phẫu thuật. Việc này là bắt buộc, nhằm giúp bác sĩ biết được các tiền sử của bệnh nhân, các loại thuốc hay dùng, các tác nhân gây dị ứng … và có thể cho làm thêm một số xét nghiệm bổ sung.

Bên cạnh đó, các chất gây mê được sử dụng cũng có nhiều tiến bộ mới. Bác sĩ có cân nhắc đến giới tính, trọng lượng, tuổi tác của bệnh nhân để tính toán liều lượng thích hợp, giúp cho bệnh nhân ch́m vào cơn mê không quá sâu cũng không quá nhẹ. Ngoài ra, người ta cũng tăng cường gây mê cục bộ thay v́ toàn phần, đối với việc phẫu thuật bàn tay, đầu gối …chẳng hạn. Cũng cần phải nhắc đến việc đào tạo đội ngũ nhân viên y tế, bộ phận hồi sức để bảo đảm cho quy tŕnh gây mê thật an toàn.

Không chỉ có các tiến bộ trong sản phẩm, kỹ thuật gây mê, mà quy tŕnh tiến hành gây mê một bệnh nhân trong những năm gần đây cũng nghiêm ngặt không kém trong ngành hàng không. Trước khi giải phẫu, ê-kíp phẫu thuật phải kiểm tra kỹ từ nhân thân bệnh nhân, các yếu tố dị ứng …và theo dơi thường xuyên nhịp tim, huyết áp, trạng thái năo … để có thể can thiệp ngay khi xảy ra sự cố.

Một bác sĩ lâu năm trong nghề đă tóm tắt : « Chúng tôi luôn cố gắng làm tốt hơn, nhưng đừng quên rằng nguy cơ cao nhất là không giải phẫu được để cứu bệnh nhân ».


Back to top

florida80 04-20-2019 19:33

Liên Hiệp Quốc: Cúm gà hoành hành trở lại
 
Liên Hiệp Quốc: Cúm gà hoành hành trở lại

Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc FAO vừa cảnh báo về một chủng loại virut H5N1 gây chết người có thể biến thành một dịch cúm nữa.

FAO cho hay những vắc xin hiện có không thể ngăn chặn loại virut cúm gà mới, đang lan tràn tại Trung Quốc và Việt Nam.

Liên Hiệp Quốc nói thêm, virut này cũng đặt ra hiểm họa trực tiếp cho Kampuchea, Thái Lan, Malaysia, bán đảo Triều Tiên và Nhật.

Tuần qua, FAO loan báo thêm một ca tử vong tại Kampuchea, quốc gia đă có 8 ca chết người v́ virut H5N1 trong năm nay.

Vẫn theo FAO, virut kể trên mới đây đă lan tới những khu vực như Romania, Bulgaria, Israel, lănh thổ Palestine, Nepal và Mông Cổ.

Liên Hiệp Quốc tuyên bố đă có tổng cộng 565 ca bệnh cúm gà xác nhận nơi người kể từ năm 2003, trong đó có 331 người chết.

florida80 04-20-2019 19:34

Trẻ em dùng quá nhiều thuốc kháng sinh
 
Trẻ em dùng quá nhiều thuốc kháng sinh


Liên quan đến vấn đề sức khỏe con người, Le Figaro có bài viết đề tựa « Trẻ em dùng quá nhiều thuốc kháng sinh ». Bài báo nhận định, việc tiêu thụ quá nhiều loại thuốc này làm tăng nguy cơ mắc các chứng bệnh như béo ph́, tiểu đường, thậm chí một số bệnh ung thư hệ tiêu hóa.

Các nhà khoa học cảnh báo, lạm dụng thuốc kháng sinh dẫn đến hệ quả là sự lan truyền ngày càng nhiều các loài vi khuẩn kháng thuốc, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe cộng đồng.

Trong một bài viết đăng trên tạp chí Nature số ra ngày 25/8, với tựa đề « Hăy chấm dứt việc tàn sát các loại vi khuẩn có lợi », giáo sư Martin Blaser, thuộc đại học New York, một chuyên gia về các bệnh truyền nhiễm khẳng định rằng, một đứa trẻ sống tại một nước phát triển nhận trung b́nh từ 10 đến 20 liều kháng sinh trước 18 tuổi. Ông c̣n nhấn mạnh rằng, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy dù là trong thời gian ngắn, thuốc kháng sinh cũng có thể làm thay đổi về lâu về dài hoàn toàn thành phần vi khuẩn đường ruột. Một điều chắc chắn rằng, các loại kháng sinh sẽ hủy diệt những loại vi khuẩn độc hại, nhưng vô h́nh chung cũng loại trừ đi một vài loại mầm có ích khác ngụ trong trong các đường tiều hóa.

Ông đơn cử trường hợp vi khuẩn Helicobacter pylori, chủ yếu ngụ trong dạ dày con người. Theo ông, loại vi khuẩn này là những tác nhân chính gây ra các bệnh loét và ung thư dạ dày. Nhưng ngược lại, trong một nghiên cứu cho thấy, ở những cá nhân nào không mang loại vi khuẩn này, có khả năng phát triển nhiều loại bệnh rối loạn tiêu hóa, trào ngược hay các bệnh dị ứng khác nhau như hen suyễn, hay cảm mạo mùa. Nhiều nghiên cứu khác đă giả định rằng nguy cơ mắc các bệnh viêm nhiễm hệ tiêu hóa tỷ lệ với số lần dùng kháng sinh.

Giáo sư Martin Blaser cũng cảnh báo việc sử dụng thuốc kháng khuẩn lâu dài, dù chỉ ở liều nhỏ, c̣n thúc đẩy nhanh hơn nữa quá tŕnh tăng trọng. Chính v́ vậy, thuốc kháng sinh được sử dụng rộng răi tại Mỹ như là những chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi (trong khi đó, châu Âu nghiêm cấm việc sử dụng biện pháp này).

Đồng chia sẻ quan điểm với ông Blaser, giáo sư Patrick Berche, nhà vi sinh học thuộc bệnh viện Necker Paris khẳng định « vai tṛ quan trọng của hệ vi khuẩn đường ruột như là động cơ để phát triển các bệnh như béo ph́ hay ung thư đại tràng ».

Đối diện trước nhiều mối đe dọa mới, ông Martin Blaser kêu gọi hạn chế đến mức tối đa việc dựa vào thuốc kháng sinh cho trẻ nhỏ, ngay cả lúc c̣n trong bụng mẹ. Ông đề nghị phát triển những loại sản phẩm đặc biệt nhằm giúp đỡ ổn định hệ vi khuẩn có lợi cho đường ruột và chế ra những loại thuốc kháng sinh với những liều dùng thật là hạn chế, để giảm thiểu những hậu quả xếp chồng lên nhau lên các loài vi khuẩn.

Tuy nhiên, ông Patrich Berche tỏ ra nghi ngờ về việc ông Blaser đề nghị tiêm một vài loại vi khuẩn gốc Helicobacter để dự báo nguy cơ các bệnh hen suyễn, rồi sau đó loại trừ chúng bằng thuốc kháng sinh để giảm thiểu nguy cơ viêm loét hay ung thư dạ dày.

Back to top


All times are GMT. The time now is 07:37.

VietBF - Vietnamese Best Forum Copyright ©2005 - 2025
User Alert System provided by Advanced User Tagging (Pro) - vBulletin Mods & Addons Copyright © 2025 DragonByte Technologies Ltd.

Page generated in 0.27244 seconds with 8 queries