R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Khóa học kéo dài sáu năm, và người ta cho rằng dự án này thể hiện các kế hoạch tầm xa của Liên Xô về việc viện trợ cho Hà Nội. Nhưng lịch sử cộng sản có đầy rẫy những trường hợp tốt nghiệp khẩn cấp một thời gian dài trước ngày dự định của các chuyên gia. Những sinh viên trẻ này có thể bay trở về nhà bất cứ ngày nào.
Trường hợp huấn luyện quan trọng nhất liên quan đến các học viên sĩ quan hàng không Bắc Việt, hiện đang được các cựu chiến binh Không quân Xô Viết huấn luyện bay những chiếc máy bay siêu âm MIG-21. Một nhóm học viên sĩ quan kế tục một nhóm khác tại lễ tốt nghiệp gần Rostov-on-Don, ở Trường Không quân Xô viết Bataisk.
Những bức ảnh thường và những h́nh ảnh chuyển động được công bố ở Liên Xô cho thấy, các học viên Bắc Việt thông minh và được cho ăn uống đầy đủ, trong bộ đồng phục khi họ tuần hành hoặc nghe giảng bài. Những gương mặt và h́nh dáng trẻ trung, nhưng một báo cáo chính thức của Liên Xô cho biết, có ít nhất một số học viên đang được huấn luyện để trở thành những chiến binh chiến đấu trong rừng, là những người ở độ tuổi 30.
Nhu cầu về các học viên bay là cấp thiết, nếu chúng ta tin rằng, theo ước tính của phương Tây vào giữa tháng 10, lực lượng không quân của [chính phủ] Hồ Chí Minh lúc đó có khoảng 50 chiếc MIG-15 và MIG-17 hoặc cũ hơn, và 20 chiếc MIG-21, nhưng Liên Xô chuẩn bị gia tăng thêm số lượng máy bay mô h́nh mới. Thật vậy, vào giữa tháng 12, t́nh báo phương Tây đưa ra ước tính không chính thức về số lượng máy bay MIG, ở Việt Nam có từ 180 hoặc thậm chí 200 chiếc, loại mới nhất là loại có cánh h́nh tam giác vuốt về phía sau, MIG-21C và MIG-21D.
Các phiên dịch viên cũng rất cần để đi cùng với các giảng viên Liên Xô. Một bộ phim Liên Xô mới tŕnh chiếu cho thấy, một giảng viên quân sự Xô Viết dạy cho các học viên sĩ quan không quân Bắc Việt, mà không có bất kỳ trợ giúp nào từ các phiên dịch. Điều này có nghĩa là, hoặc có ít nhất một trong các giảng viên nói tiếng Việt thông thạo, hoặc một số sinh viên học tiếng Nga rất nhanh.
Khi Moscow gửi các chuyên gia tới Việt Nam để giúp những người bản xứ các vấn đề về quân sự và ḥa b́nh, dĩ nhiên, điều họ đạt được là, thực tế các chuyên gia này trở về nhà với kiến thức mở rộng bao la về Việt Nam. Về một điểm không mới nhưng có giá trị là những người Liên Xô học về Việt Nam, cách thức và ngôn ngữ hồi thập niên 40 và 50, và những người, thật ra là các cựu chiến binh chiến đấu trong rừng trong khoảng thời gian đó.
Những kẻ đào ngũ
Đó là người đàn ông tên là Platon Skrzhinsky, 44 tuổi và là người gốc Ukraine hiện đang cư ngụ tại Moscow. Sau Đệ nhị Thế chiến, ông gia nhập vào Quân đoàn Ngoại giao Pháp. Nhưng khi Pháp chuyển đơn vị của ông đến Sài G̣n, Skrzhinsky lên kế hoạch đào tẩu. Mất một năm để ông ấy thiết lập liên lạc với các du kích quân. Trong hàng ngũ Việt Minh mới, ông đă t́m thấy những người đào ngũ khác từ đội quân Pháp: một người Áo, hai người Đức, và một số người Algérie. Ông ta nhận được cái tên Việt Nam: Than (Thành?), có nghĩa là “Người trung thành”. Ông kết hôn với một cô gái địa phương, và họ đă có một em bé. Năm 1950, ông chỉ huy một đơn vị pháo binh du kích.
Ông trở lại Moscow vào năm 1955 cùng với đứa con gái sáu tuổi gốc Việt của ḿnh. Trong gần 10 năm qua, ông được thuê làm biên tập viên cho Đài phát thanh Moscow, có thể giúp những chương tŕnh phát thanh bằng tiếng Việt ở Đông Nam Á. Những người hiện sống sót trong những lần đào ngũ như thế, từ Quân đoàn Ngoại giao Pháp, gồm một người Ba Lan, một người Séc, và một người Đông Đức. Hầu hết nhóm người lăng mạn này có thể vẫn c̣n được sử dụng cho bất kỳ điều ǵ, từ huấn luyện, tư vấn, hoặc yêu cầu phiên dịch ở những nước mà họ đang sống có liên quan đến Việt Nam.
Trong số “những nước dân chủ nhân dân” đóng góp cho [chính phủ] Hồ Chí Minh hiện nay, Đông Đức có thể là nước đóng góp tích cực nhất. Viện trợ quân sự từ chính phủ Walter Ulbricht, gồm các thiết bị vũ khí và điện tử đặc biệt, được thiết kế để chịu đựng được khí hậu nhiệt đới. Thêm nữa, sự hỗ trợ bao gồm xe máy và xe đạp được xem là rất quan trọng cho dịch vụ đưa tin trên đường phố bị chiến tranh tàn phá ở Bắc Việt, nơi xe ô-tô không thể lưu thông dễ dàng. Tháng 9 năm ngoái, hội nhà văn tại Đông Đức đă gây quỹ để mua một ngàn chiếc xe đạp làm quà tặng cho Hà Nội. Số tiền này có từ việc để dành một tỷ lệ phần trăm tiền thù lao của các nhà văn.
Việc tiếp tế y tế cho [chính phủ] Hồ Chí Minh, dường như phần lớn đến từ Đông Đức, và một trăm bác sĩ Đông Đức được báo cáo là đang phục vụ ở Bắc Việt. Ngoài con số 800 người Xô Viết được báo cáo là đă có mặt ở Bắc Việt để làm nhiệm vụ pḥng không, một số viên chức Đông Đức và những người đàn ông được đồn đại rằng, họ được dùng để huấn luyện việc sử dụng tên lửa của Bắc Việt. Về hàng hoá và vốn liếng viện trợ không trực tiếp liên quan đến các loại trang thiết bị sử dụng trong chiến tranh, chính phủ Ulbricht được cho là đă chuyển giao cho [chính phủ] Hồ Chí Minh từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 10 năm 1966 tổng trị giá bốn triệu đô la.
Viện trợ kinh tế
Tuy nhiên, viện trợ kinh tế và thương mại lớn nhất của khối [XHCN] cho Hà Nội, dĩ nhiên là Liên Xô. Tại một cuộc họp thượng đỉnh ở Moscow hồi giữa tháng 10 năm 1966, Liên Xô và tám nước đồng minh của họ đă đồng ư cung cấp khoảng một tỷ đô la bổ sung cho việc giúp đỡ Hà Nội trang thiết bị và tiền bạc, trong số đó, có 800 triệu đô la đến từ Liên Xô. Đóng góp từ những nước khác điển h́nh là Ba Lan, cam kết 30 triệu đô la.
Các thoả thuận khéo léo của Liên Xô để giúp Bắc Việt, bắt đầu từ giữa thập niên 50, ngay sau khi hiệp định Geneva phân chia đất nước, với thoả thuận “tam giác” quan trọng. Trong thoả thuận này, Miến Điện trả cho sự gắn bó với Liên Xô, bằng cách chuyển 160.000 tấn gạo đến Hải Pḥng, do đó, theo đánh giá của ông Bernard B. Fall, cứu Bắc Việt khỏi bị đói.
Người kỹ sư Liên Xô đầu tiên đến nhà máy xi măng Hải Pḥng hồi tháng 9 năm 1955, và ông ta chính là người đă chỉ cho những người bản xứ cách đào bới các máy móc mà người Pháp đă chôn cất khi họ rút lui. Trong tháng 11 năm đó, mẻ xi măng đầu tiên được sản xuất, và đến năm 1958 sản lượng tăng gấp đôi so với thời Pháp. Mùa hè năm 1966, mặc dù bị các cuộc tấn công ném bom của Mỹ, Liên Xô tuyên bố rằng sản lượng đă tăng nhiều gấp ba lần.
Mặc dù rất khó có được con số chính xác, người ta ước tính rằng, trong 10 năm qua, [từ năm 1954 đến] năm 1964, Liên Xô viện trợ kinh tế cho Bắc Việt tổng cộng khoảng 350 triệu đô la. Vào năm 1963-1964, có hơi bị chùn lại, khi Nikita S. Khrushchev dường như đă từ chức khi thấy đất nước rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc (năm 1955-1964, Trung Quốc viện trợ kinh tế cho Bắc Việt lên tới khoảng 450 triệu USD).
Mối quan tâm của Liên Xô đă trở lại
Tuy nhiên, những người kế nhiệm Khrushchev đă làm sống lại mối quan tâm của Liên Xô đối với [chính phủ] Hồ Chí Minh. Xuất khẩu của Nga sang Bắc Việt đă tăng từ 47,6 triệu đô la năm 1964 lên tới hơn 74,8 triệu đô la vào năm 1965, dĩ nhiên, con số này cộng thêm vào số vũ khí trị giá 555 triệu đô la đă được gửi [tới Bắc Việt] chỉ trong năm 1965. Các con số trong năm 1966 hứa hẹn sẽ c̣n cao hơn.
Vào ngày 21 tháng 6 năm 1965, trong chương tŕnh phát thanh tiếng Đức tại nước Đức, Đài phát thanh Moscow tuyên bố rằng, các quỹ [viện trợ] mà Bắc Việt lúc đó đă được nhận được từ tất cả các nước xă hội chủ nghĩa, gần phân nửa đến từ Liên Xô. Bản tin phát thanh cho biết, một phần ba trong tổng số viện trợ này của Liên Xô là viện trợ không hoàn lại. Khoảng 50 xí nghiệp công nghệ lúc đó được xây dựng hoặc xây dựng lại nhờ sự trợ giúp kỹ thuật của Liên Xô. Các nhà máy do Liên Xô hỗ trợ đă sản xuất tất cả các các loại khoáng chất (apatite) và phân bón (superphosphate) ở Bắc Việt, khoảng 90% trữ lượng than đá, và hơn một nửa các cụng cụ máy móc. Sức mạnh, khai thác, kỹ thuật, và các ngành công nghệ kỹ thuật của đất nước, tất cả đă được các nhà tài trợ và các cố vấn Liên Xô giúp đỡ hoặc điều hành.
Từ các nguồn thông tin khác của Liên Xô, chúng ta biết rằng, bộ phận kinh tế của Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội có trách nhiệm coi sóc tất cả sự viện trợ này. Họ tuyên bố rằng, thiết bị máy móc dụng cụ ở Hà Nội, gồm 14 mẫu, toàn bộ được trang bị bằng thiết bị của Liên Xô. Bốn mươi kỹ sư và kỹ thuật viên Liên Xô đang trợ giúp công tŕnh xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà.
Một sự cân bằng tế nhị
Bất cứ sự kiện và con số nào phía Liên Xô chính thức tiết lộ về sự viện trợ của họ cho Bắc Việt được đưa ra trước công chúng không những để chế nhạo Hoa Kỳ, mà c̣n để gây ấn tượng với Bắc Kinh – và thậm chí [với mục đích] lớn hơn nữa là để phản bác lại các nước c̣n lại trong thế giới cộng sản, rằng Trung Quốc cáo buộc Moscow không giúp đủ cho Hà Nội.
Bất cứ nơi nào có thể, Moscow trích dẫn các nguyên tắc chung có khuynh hướng cao hơn là những khó khăn về chi tiết. Và điều này không chỉ v́ lư do an ninh, mà chắc chắn c̣n có lư do không muốn chọc giận Hoa Kỳ nhiều quá.
Tuy nhiên, về phần ḿnh, Moscow không lập lờ trong cuộc xung đột, ngay cả khi chuyển giao số lượng vũ khí, họ cũng gửi bằng cách rất thận trọng. Rơ ràng, Liên Xô không muốn Hoa Kỳ hay Trung Quốc giành chiến thắng. Mà Liên Xô chỉ không muốn có chiến tranh thế giới thứ ba từ kết quả của cuộc chiến tại Việt Nam. Do vậy, lượng vũ khí của Liên Xô chỉ gia tăng sau khi Hoa Kỳ leo thang sự tham gia bằng cách này hay cách khác, như họ đă làm hồi tháng 2 năm 1965 bằng cách tấn công vào Bắc Việt, và mùa hè vừa qua bằng cách đánh vào những nơi lắp đặt các hệ thống máy móc ở Hải Pḥng và Hà Nội một cách trực tiếp hơn.
Lời lẽ chính thức của Liên Xô và các nước đồng minh Đông Âu, đề nghị gửi quân t́nh nguyện đến chiến đấu ở Bắc Việt, nhưng Hà Nội đă lịch sự từ chối lời đề nghị và cám ơn. Khả năng có thể là do lo ngại một sự leo thang chiến tranh khác, nên thực tế, Moscow đă kiềm chế sự giúp đỡ như thế, và rằng, v́ lư do tuyên truyền và ngoại giao, giữa Moscow và Hà Nội đă thoả thuận sự giả vờ về lời đề nghị và từ chối sẽ được tiếp tục, mặc dù không quá ồn ào hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần.
Một đại tá Mỹ thông thạo t́nh h́nh, nhận định như sau:
Hà Nội muốn nhận tất cả các quân t́nh nguyện kia nhưng không dám yêu cầu. V́ nếu yêu cầu Nga và các đồng minh, Hà Nội cũng sẽ phải mời Trung Quốc, và Hà Nội muốn tránh điều này. Việc chịu đựng những người Trung Quốc không có súng đến xây dựng đường sắt là một vấn đề, nhưng vấn đề sẽ hoàn toàn khác, khi để cho toàn bộ quân đội Trung Quốc có trang bị vũ khí [đến giúp]. Không, không thể ở miền Bắc Việt Nam.
Các viên chức Mỹ am hiểu t́nh h́nh cảm thấy rằng, Hà Nội không sợ Liên Xô, ngay cả Liên Xô có trang bị vũ khí khi đến [miền Bắc]. Và có lẽ như thế này, bởi v́ Hà Nội biết rằng Moscow chưa sẵn sàng gửi những người lính vũ trang đi rất xa, tới nơi có nhiều rủi ro làm cho các cuộc xung đột lớn hơn. Thật vậy, Moscow có thể trở lại thái độ của ḿnh hồi thời kỳ đầu tháng 10 năm 1964, ngay cả trong các vấn đề kinh tế. Đầu tư của Liên Xô gia tăng và đang phát triển ở Bắc Việt có thể bị chấm dứt nếu mọi thứ ở Đông Nam Á yên ổn, chẳng hạn như Trung Quốc cần thư giăn trong giai đoạn hậu Mao Trạch Đông và sự thích nghi với những người có thể kế nhiệm Mao hiểu biết hơn.
Một nhà quan sát ở Washington phỏng đoán:
Nếu điều này xảy ra, những người kế thừa Khrushchev có thể tin rằng, dường như khi Khrushchev đă làm, rằng cuối cùng th́ Bắc Việt ở quá xa Nga, và tại sao không thỏa thuận với Bắc Kinh, chẳng hạn như trao đổi nhà máy thiết bị tuyệt vời kia ở Hà Nội để lấy số bất động sản mà họ ao ước ở gần nhà hơn, như Tân Cương chẳng hạn?
|