R10 Vô Địch Thiên Hạ
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
|
Phần I. Lời nói đầu
Chương 1. Nói về cuốn sách
“… Nhận thức một cách khoa học về hệ thống của chúng ta là bất khả. Mọi việc đều bị che dấu, bị xoá nhoà. Và lạ lùng nhất là không ai cần hiểu cả. Nó đặc biệt không cần thiết đối với giới phê b́nh của xă hội chúng ta.”
Zinoviev
Đây không phải là cuốn chính luận (như kiểu Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô của Khrushchev [2] ) mà là một tài liệu nghiên cứu khoa học, tuy nhiên tôi muốn rằng nó phải dễ hiểu và hấp dẫn không chỉ đối với các nhà Luật học-Xô viết học mà c̣n hấp dẫn đối với tất cả những ai quan tâm đến các vấn đề của xă hội đương đại và các xu hướng phát triển của nó.
Nhưng nếu tôi công nhận phát biểu của Zinoviev th́ liệu tôi có thể coi tác phẩm của ḿnh là có tính khoa học được không? Xin được giải thích: khoa học nghiên cứu các sự kiện, nhưng trong hệ thống của chúng ta, tất cả các dữ kiện liên quan đến đời sống xă hội đều hoặc là các tài liệu mật hoặc là đă bị xuyên tạc đến mức khó mà rút ra từ đó được các kết luận khả dĩ. Lấy thí dụ lĩnh vực kinh tế: các số liệu do Tổng cục Thống kê công bố nói chung đều là giả. Sau khi Stalin chết, người ta thông báo cho chúng ta biết rằng tất cả các số liệu về thành tích trong nông nghiệp đều là giả, sản lượng nông nghiệp chưa bao giờ đạt được mức năm 1914. Như thế có nghĩa là các số liệu được công bố sau này là đúng ư? Có mấy năm các số liệu về nông nghiệp hoàn toàn không được công bố. Nhưng nếu ta t́m được các số liệu đó th́ sao? Vô ích, v́ báo cáo láo diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp, từ nông trang đến huyện rồi lên tỉnh. Lên nước cộng hoà và Tổng cục thống kê [3] . Nhưng nếu giả sử ta có thể biết được số lượng giao nộp của từng nông trang th́ sao? Cũng vô ích: hàng chục năm liền báo chí đă từng đăng việc các nông trang, thí dụ, để hoàn thành sản lượng giao nộp, họ đă đi mua bơ của các cửa hàng rồi sau đó giao lại cho nhà nước. Như vậy là một sản phẩm đă được nộp và thống kê đến mấy lần [4] . Có một thời (chính xác là dưới thời Khrushchev) Larionov, bí thư tỉnh ủy Riazan, nơi chuyện giao nộp vượt quá “ngưỡng chấp nhận được”, đă phải tự sát. Không loại trừ khả năng là ông ta đă được “giúp đỡ” cả trong việc này nữa.
Trong lĩnh vực công nghiệp cũng xảy ra những chuyện tương tự, ở đây, bên cạnh báo cáo láo c̣n có cả việc “cấp hàng khống”: giám đốc xí nghiệp không thực hiện được kế hoạch được giao thoả thuận với giám đốc một xí nghiệp khác để vị này công nhận rằng ông ta đă cung cấp hàng cho xí nghiệp. Cũng có đủ hồ sơ cần thiết, người ta thực hiện cả việc thanh toán theo đường ngân hàng ..v.v.. và thế là cái sản phẩm không hề tồn tại này được đưa vào số liệu của Tổng cục thống kê. Việc “cấp hàng khống” thịnh hành đến mức chính phủ phải ra nghị định (Nghị định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 22 tháng 8 năm 1973) về việc phạt 7% giá trị “hàng hoá”, nếu bị phát hiện [5] .
Xin hăy thử nghiên cứu nền kinh tế Liên Xô trên cơ sở các dữ liệu như thế! Thế mà một số nhà kinh tế học phương Tây vẫn t́m cách nghiên cứu được và một số người (dĩ nhiên là không phải tất cả) đă đưa ra được những đánh giá nói chung khá chính xác.
Chẳng nên nói một cách nghiêm túc về khoa học pháp lí của Liên Xô v́ nó hoàn toàn phụ thuộc vào các quan điểm được áp đặt từ trên xuống và thay đổi một cách thường xuyên của Đảng và chẳng ăn nhập ǵ với cuộc sống hay có thể nói chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của đời sống.
Thí dụ, tất cả các luật gia đều biết (đơn giản là biết) rằng tỉ lệ tội phạm ở nước ta ngày một gia tăng [6] . Nhưng điều này mâu thuẫn với luận điểm của chủ nghĩa Marx, luận điểm này khẳng định rằng tội phạm được sinh ra bởi các điều kiện xă hội của chế độ người bóc lột người. Trong chủ nghĩa xă hội các điều kiện xă hội của tội phạm không c̣n, vậy th́ tội phạm phải giảm dần. Nếu nó phải giảm dần th́ nhất định nó sẽ giảm dần, không thể nào khác được! Số liệu về tội phạm là tài liệu mật, mặc dù đáng ra nó phải là số liệu rất đáng thuyết phục về tính ưu việt của chủ nghĩa xă hội. Các luật gia Xô viết chứng minh tỉ lệ tội phạm mỗi ngày một giảm như thế nào? Không có cách nào hoặc đưa ra định lí mà không cần chứng minh hoặc: “Tỉ lệ tội phạm và diễn biến của nó trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn xă hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa cộng sản - tác giả) nói chung là giảm nhưng không đồng đều. Tỉ lệ tội phạm trong 20 năm qua đă giảm một phần ba so với giai đoạn trước chiến tranh. Cụ thể số người bị kết án trong 100 ngàn dân đă giảm 2 lần so với năm 1940, nếu so với năm 1928 th́ giảm 3,8 lần. Số vụ án trong những năm 1963-1965 là thấp nhất trong 20 năm qua [7] ”. Và tác giả đưa ra kết luận về “thắng lợi vô cùng to lớn của nhà nước và xă hội Liên Xô trong việc khống chế tội phạm”!. Tác giả của những câu chuyện như thế đă được phong tiến sĩ luật học và năm 1985 được nhận huân chương quốc gia đấy!
Trong quá tŕnh nghiên cứu của ḿnh tôi sẽ dựa trên những sự kiện ḿnh biết. Nhưng cần bao nhiêu sự kiện cho mỗi luận điểm? Một trăm? Một ngàn? Đó là điều bất khả nếu ta muốn có một cuốn sách với số trang in có thể chấp nhận được. Nhưng dù có dẫn ra cả ngàn sự kiện th́ cũng không thuyết phục được một người “xă hội chủ nghĩa” phương Tây, nếu anh ta không muốn nh́n thẳng vào sự thật và không tha cho tôi tội “vu khống nhà nước Xô viết”.
Mấy triệu người đă chết v́ đói trong những năm 1930-1933 do chính quyền cố t́nh tạo ra ở Ukraine? Xin hăy suy nghĩ những từ này: “nạn đói ở Ukraine” – “vựa lúa của nước Nga”!. Một số nạn nhân của thảm hoạ vẫn c̣n sống, thế mà năm 1988 khi những người Canada gốc Ukraine đưa ra vấn đề này th́ viên đại sứ Liên Xô đă nói một cách hằn học rằng đấy là những lời dối trá, kèm theo một tuyên bố có tính nhục mạ người Canada nữa. C̣n chính phủ Canada th́ nhẫn nhục chịu đựng. Chả lẽ cả dân tộc Ukraine phải chết đi để bây giờ người ta buộc phải nghiến răng công nhận rằng đấy là do “điều kiện thời tiết [8] ”.
Trong giai đoạn “bán công khai” của Gorbachev, trên báo chí bắt đầu xuất hiện một vài chứng cứ về nạn đói ở Ukraine. Hồi kí của bà vợ goá của N. Bukharin nói rằng ông này có mặt ở Ukraine lúc đó và đă đưa “tất cả số tiền ông ta có” cho đám trẻ đói khát. Đấy là hiện tượng đặc thù của chế độ Xô viết: đầu tiên là tạo ra nạn đói rồi sau đó tổ chức “cứu trợ”, phát chẩn. Khi về Moskva, Bukharin đă kể lại chuyện này cho ông nhạc nghe và “gục xuống đi văng nức nở khóc” (Ngọn lửa nhỏ 1987, số 48). Xin nói thêm rằng N. Bukharin, người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân, lúc đó là ủy viên Bộ chính trị nghĩa là một nhà lănh đạo cao cấp, một nhà báo nối tiếng, nhưng sau đó ông này đă không hề nói một lời nào về nạn đói ở Ukraine cả.
Trên báo chí người ra đă viết về cuộc bạo loạn ở Novotrerkassk, tuy rằng cách đây chưa lâu nói chuyện đó có thể bị đi tù như chơi. Nhưng tôi chưa được đọc những câu chuyện về các cuộc bạo loạn ở Temir-Tau, Trerkasư và nhiều địa phương khác.
Ở phương Tây đă có những tác phẩm chứng tỏ sự am tường của tác giả về hệ thống pháp luật Liên Xô. Dĩ nhiên là tầm bao quát của chúng rất rộng: từ ca ngợi cho đến thù địch. Nghiên cứu các kiến giải từ bên ngoài, từ những nhận thức pháp lí khác là rất hữu ích; các tác phẩm này giúp tôi nh́n rơ những điều mà trước đây tôi không nhận thấy trong hệ thống pháp lí “của ḿnh”. Song những kiến giải “từ bên trong” vẫn chính xác hơn. Nhưng không có những tác phẩm như thế. Đa số các tác phẩm thuộc lĩnh vực luật pháp Liên Xô chỉ đơn giản là những lời biện hộ dối trá mà thôi. Chỉ viết về những vấn đề chuyên sâu mới có thể tránh được chuyện đó, nếu không th́ tác phẩm khó ḷng mà được xuất bản. Những tác phẩm của phương Tây viết về pháp luật của Liên Xô mà tôi biết th́ hoặc là mô tả một cách tổng thể, nghĩa là đưa ra các nguyên lí và nguồn gốc hoặc là dẫn ra các định chế một cách giáo điều và tĩnh (cái mà trong luật học so sánh người ta gọi là “luật pháp sách vở”). Thực tiễn được tŕnh bày trong sách vở Liên Xô chỉ là những tiêu bản và chẳng ăn nhập ǵ với thực tiễn cả. Mặc dù gần đây các luật sư phương Tây đă chú ư đến vấn đề xă hội học và các điều kiện vật chất của xă hội, nhưng tính cách giáo điều và sự bám víu vào lời văn vẫn c̣n “nằm trong máu” của họ.
|