Đà gia tăng dân số toàn cầu trong những năm gần đây đang đi dần đến mức báo động. Nhiều quốc gia đă chứng minh sự cố gắng trong vấn đề kiểm soát và hạn chế sinh sản gắt gao như Trung Cộng và Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ và đa số các quốc gia vùng Phi châu, Á châu không thể kiểm soát được vấn đề trên, do đó mức gia tăng nhân khẩu đă đạt đến mức báo động. Hiện tại, dân số trên thế giới đă vượt gần con số 7 tỷ. Việc dân số gia tăng kéo thêm một số nhu cầu và vấn đề khẩn thiết mới cho con người như
thực phẩm, y tế, giáo dục, phát triển và môi sinh... các nhu cầu và vấn đề trên có liên quan hỗ tương chặt chẽ với nhau như
việc phát triển để gia tăng lương thực có thể tạo ra những di hại về ô nhiễm ảnh hưởng đến môi trường sống.
Do đó, không thể có cái nh́n riêng rẽ và độc lập trong việc áp dụng khoa học-kỹ thuật để phát triển mà không lưu ư đến những liên quan đến yếu tố ảnh hưởng lên con người. Arpad Goncez, tổng thống Hung Gia Lợi đă phát biểu trong buổi khai mạc hội nghị “
Khoa học cho thế kỷ thứ 21:Một kết ước mới” (Science for the 21st century: A new commitment) tại Budapest rằng:
Chỉ có một khoa học, một hành tinh Địa cầu và một “Giống Người” (Humankind)… Đó là mẫu số chung của mọi quốc gia sống trên hành tinh nầy. Hội nghị đă quy tụ trên 150 quốc gia trên thế giới với mục đích kêu gọi toàn cầu có cùng một hướng nh́n về tương lai về các liên quan giữa
phát triển khoa học-xă hội-môi sinh.
Neal Lane, cố vấn khoa học của tổng thống Clinton đă gọi các
khoa học gia là Công dân toàn cầu (Global citizen
). Mọi động tác nào của con người, quốc gia, hay từng vùng trên thế giới đều thay đổi ít hay nhiều đến chu kỳ sinh-địa-hoá học của hệ sinh thái thiên nhiên. Sự xáo trộn nầy sẽ gây tác hại trực tiếp hay gián tiếp lên con người ở khắp nơi trên địa cầu. Một thí dụ cụ thể là thủy ngân và arsenic, hoá chất cần thiết cho việc tách vàng ṛng từ các quặng mỏ đă hiện diện trong ḷng đất và các mạch nước ngầm trong tất cả các vùng đă khai thác.
V́ vậy, nhà dự phóng phát triển cho tương lai ở bất cứ quốc gia nào cũng phải có tầm nh́n toàn cầu và đắn đo cân nhắc nguyên nhân-hậu quả cùng các hệ lụy của từng công nghệ áp dụng. Giải quyết được một vài vấn nạn cho quốc gia trong ngắn hạn mà tạo ra những tác hại đến hệ sinh thái trong tương lai không phải là giải pháp thích ứng hay tối ưu cho phát triển.
Thế kỷ thứ 21 sẽ mở màn cho một cuộc tập hợp vĩ đại không những chỉ ở cấp vùng, cấp châu mà cần phải phối hợp mở rộng cho toàn thể địa cầu.
Mọi quốc gia dù đang hay đă phát triển, giàu hay nghèo… đều phải cùng có tiếng nói và góp phần vào việc bảo vệ hệ sinh thái toàn cầu. Một sự tập hợp giữa các nhà khoa hoạ, kỹ thuật trong tinh thần nhân bản, có cùng mẫu số chung về những vấn nạn ảnh hưởng đến toàn cầu…sẽ là một bước ngoặt tích cực mới cho thế kỷ nầy.
Như chúng ta đă biết, tiến bộ khoa học và việc khai triển các công nghệ mới nhằm đáp ứng nhu cầu hạn chế đà gia tăng dân số cũng như cải thiện và nâng cao đời sống của người dân ở các nước đang mở mang. Đây cũng là nguyên nhân phát sinh ra nhiều hậu quả mà ba hệ lụy chính được đan cử ra sau đây:
·
Bầu khí quyển bị ô nhiễm và bị hâm nóng dần;
·
Ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt trên mặt đất và các mạch nước ngầm;
·
Ô nhiễm ḷng đất do chất thải phát xuất từ nhiều nguồn khác nhau…
Trên thực tế, mặc dù đă được chia ra làm ba vấn nạn căn bản kể trên, nhưng tất cả đều có liên quan và đan kết chặt chẽ với nhau.
Mọi biện pháp pḥng vệ, ngăn chận, hay làm chậm lại tiến tŕnh ô nhiễm cần phải được nghiên cứu kỷ lưỡng yếu tố nguyên nhân-hậu quả của từng vấn nạn một.
Một giải pháp cho vấn nạn nầy có thể là nguyên nhân của vấn nạn kia….
Một thí dụ cụ thể là tại Hoa Kỳ, các khoa học gia đă đồng ư cho thêm vào trong xăng chất trợ oxy MTBE (Methyl tert-Butyl Ether) nhằm mục đích làm giảm thiểu lượng khí thải hồi vào không khí khi sử dụng xăng để làm chậm lại tiến tŕnh hâm nóng bầu khí quyển trên toàn cầu. Nhưng sau hai năm áp dụng, lượng thán khí thải hồi tuy có giảm bớt, nhưng ngược lại chất MTBE, nhân tố gây ra bệnh ung thư cho con người lần lần xâm nhập vào ḷng đất và đă có chỉ dấu về sự hiện diện của hoá chất nầy trong mạch nước ngầm.
Do đó, EPA, cơ quan bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ đă phải đ́nh chỉ việc dùng hoá chất trên và thay vào bằng một chất trợ oxy khác là Ethanol (chất rượu làm từ bắp có thể uống được). Một dấu hỏi được mở ra đây là việc ǵ sẽ xảy ra trong tương lai sau khi áp dụng phương pháp trên nhiều năm sau đó? Hiện tại sau gần 20 năm áp dụng, vẫn chưa có một báo cáo nói lên sự nguy hại trên và Ethanol vẫn được pha vào trong xăng với liều lượng là 10%. (Riêng tại Ba Tây, số xe chạy bằng “xăng” Ethanol (100%) đă chiếm một tỷ lệ gần 50%).
Hiện tượng hâm nóng toàn cầu
Với hàng triệu động cơ vận hành mỗi ngày, hàng triệu máy cắt cỏ, máy thổi lá chuyển vận, nhiều triệu lon/chai của đủ loại nước ngọt, bia tiêu dùng…, thán khí (CO2) thênh thang đi vào bầu khí quyển cùng với thân nhiệt và thán khí thoát ra từ buồng phổi của gần 7 tỷ con người. Và thêm nữa, các quy tŕnh công nghệ sản xuất chế biến, việc sử dụng ḷ sưởi trong mùa đông, cùng các công nghệ khai thác quặng, khí v.v…đă đóng góp không nhỏ vào lượng thán khí trong không khí.
Hiện tượng hâm nóng toàn cầu khởi sinh từ các nguyên nhân kể trên.
Các khoa học gia đă ước tính rằng nếu không có biện pháp làm giảm thiểu lượng thán khí thải hồi th́ lượng khí trên sẽ tăng gấp đôi trong ṿng 50 năm tới nếu giữ cùng một nhịp độ phát triển như hiện nay.
Trong thiên nhiên cây xanh là nguồn trợ lực chính hấp thụ thán khí, nhưng với đà phá rừng ở Phi châu, Á châu, Nam Mỹ…e rằng con số ước tính trên sẽ bị thâu ngắn lại. Hàng năm, loài người đă thải ra độ 40 tỷ tấn thán khí (ước tính năm 2010) và số lượng nầy đă được cây cỏ hấp thụ độ 50%.
Nhưng số lượng trên ngày càng tăng dần với đà phát triển. Thống kê ghi nhận rằng từ năm 1902 đến 1990 nhiệt độ bầu khí quyển tăng lên khoảng 1
oC; nhưng trong khoảng thời gian từ 1995 đến 1998, nhiệt độ tăng lên đến mức độ báo động là 0,25
oC.
Chuyện ǵ sẽ xảy ra khi nhiệt độ trong bầu khí quyển tăng lên?
Trước hết, khối lượng băng hà ở Bắc cực và Nam cực sẽ tan dần và lần lần thu hẹp diện tích đất sinh hoạt của loài người. Trên các đại dương, chỉ cần nhiệt độ tăng thêm 1,5
oC th́ hầu hết các vùng sinh thái của san hô và phiêu sinh vật sẽ bị hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn lương thực biển v́ tôm cá không c̣n nơi trú ngụ, sinh sản (nhiệt độ trung b́nh ở các vùng biển nhiệt đới là 30,5
oC). Hai hiện tượng trên đang xảy ra trên trái đất của chúng ta với vận tốc đáng ngại!
Có nhiều biện pháp để ngăn chận và giảm thiểu việc tăng trưởng lượng thán khí trên toàn cầu:
- Hạn chế và kiểm soát lượng thán khí thải hồi trong kỹ nghệ qua khuyến cáo Kyoto năm 1997 do hầu hết các quốc gia trên thế giới soạn thảo và đồng ư.
- Hoặc thanh lọc lượng khí thải hồi bằng phương pháp tách rời và cô lập hoá học (sequestration technology). Thán khí cô lập được bơm vào dưới ḷng biển sâu và nước biển sẽ hấp thụ khối lượng trên. Hoặc thán khí được bơm vào các vùng quặng mỏ than đá từ đó than sẽ phản ứng với thán khí để h́nh thành khí methane.
Cả hai phương pháp nầy đă đi dần đến hoàn chỉnh và có thể được đem ra áp dụng trong vài năm nữa. Tuy nhiên biện pháp
dùng thiên nhiên để hấp thụ thán khí vẫn là phương pháp tối ưu nhất.
- Thay v́ phá rừng để phục vụ cho nhu cầu kỹ nghệ, cần phải tái tạo rừng và trồng thêm rừng mới để tăng thêm diện tích cây cỏ hầu ngăn chận hay làm chậm tiến tŕnh hâm nóng toàn cầu.
- Và sau hết, con người cần phải tự nguyện hạn chế việc sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu bừa băi.
Nếu làm các việc trên hy vọng chúng ta có thể giải quyết được vấn nạn sinh tử của nhân loại.
Vài suy nghĩ cho toàn cầu
Như đă nói ở các phần trên, vấn nạn ảnh hưởng đến môi sinh trên toàn thế giới trong thời gian tới cùng với những biện pháp pḥng ngừa và hạn chế ô nhiễm đều có tính cách liên đới ảnh hưởng lên mọi quốc gia.
Xu hướng toàn cầu hóa trong lănh vực nầy sẽ không có biệt lệ nào khác.
Tuy nhiên, sự phân bố không đồng đều về mặt phát triển kỹ thuật, tŕnh độ dân trí, điều kiện kinh tế-chính trị của đa số các quốc gia đang phát triển không cho phép họ có tầm dự phóng xa hơn những vấn đề sống c̣n trước mắt.
Do đó, các nước hậu kỹ nghệ cần phải thông cảm và có thật tâm giúp đỡ về nhân sự, tài chánh và kỹ thuật…để các nước đang phát triển có điều kiện theo kịp đà tiến hoá và cùng góp tay chia sẻ việc bảo vệ môi sinh để cùng tồn tại. Giai đoạn thực dân bốc lột, vét đoạt tài nguyên của những nước nghèo sẽ không c̣n thấy trong thế kỷ thứ 21 nầy nữa.
Trong chiều hướng suy nghĩ đó, vài đề nghị gợi ư sau đây nói lên những bước cần nên làm đối với các nước hậu kỹ nghệ và những nước đang phát triển.
· Trước hết,
biện pháp làm giảm thiểu hay hạn chế sự hâm nóng toàn cầu là ưu tiên hàng đầu cho mọi quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia hậu kỹ nghệ. Ngân sách quốc gia cần được tăng cường trong nghiên cứu và cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa các cơ xưởng công nghệ. Hạn chế hay nghiêm cấm các cơ sở sản xuất tạo ảnh hưởng tác hại đến lớp ozone trên bầu khí quyển. Điều cần phải làm trước nhất là “giáo dục” người dân ở những nước giảm bớt phung phí trong việc sử dụng năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và chấm dứt việc phí phạm nguồn nước sinh hoạt.
Chỉ trong một ngày vận động cho việc làm sạch bầu khí quyển bằng cách yêu cầu dân chúng sử dụng xe đạp hoặc đi bộ, hay dùng xe công cộng…thủ đô của Colombia đă giảm 27% lượng thán khí thải hồi so với mức sinh hoạt b́nh thường hàng ngày.
·
Định mức tiêu chuẩn tối thiểu mà cơ thể con người có thể chấp nhận được đối với các hoá chất, kim loại độc hại… trong không khí và trong nguồn nước cần phải được soạn thảo trên b́nh diện toàn cầu và phải có sự đồng thuận của tất cả. Một khi đă chấp thuận một định mức nào đó, mọi quốc gia đều phải chấp hành nghiêm chỉnh. Một thí dụ cụ thể cho tiêu chuẩn chấp nhận được của sự hiện diện của arsenic trong nước uống hiện tại là: 10ug/L cho Hoa Kỳ, 15 ug/L ở Pháp và 10 ug/L đối với tiêu chuẩn Liên hiệp Quốc, và nhiều nơi trên thế giới vẫn c̣n giữ định mức là 50ug/L nước. Từ những khác biệt trên có thể nảy sinh ra sự so b́ và lơ là của các quốc gia trong việc bảo vệ môi sinh chung.
· Các phát minh khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cần được thật thà trao đổi với các quốc gia đang phát triển.
Trợ giúp các nước nầy trong việc trao đổi thông tin kỹ thuật, đào tạo kỹ thuật viên và khai triển các quy tŕnh công nghệ có hiệu quả cao và an toàn cho môi sinh. Mọi phát minh mới cần được thông báo cho toàn thể thế giới để tránh sự thụt lùi và thâu ngắn cách biệt giữa các quốc gia giàu-nghèo.
· Đối với những phát minh hoàn chỉnh,
cần phải tiến hành nhanh giai đoạn thử nghiệm (prototype) và áp dụng tùy theo yếu tố xă hội-kinh tế-môi sinh cho từng vùng hay quốc gia. Làm được như thế sản phẩm vật chất sẽ được sản xuất nhiều hơn và chuyển tải đến những nơi có nhu cầu sớm hơn nhất là đối với các nước ở Phi châu, Á châu và Nam Mỹ.
· Về nguồn nước,
các nước hậu kỹ nghệ cần hạn chế hoặc thay thế việc sử dụng hoá chất trong các quy tŕnh sản xuất hiện có và trong tương lai thay thế bằng những nguyên liệu có trong thiên nhiên để hạn chế hay giảm thiểu mức độc hại trong các phó sản thải hồi. Với chiều hướng nầy, nhiều nhà khoa học trên thế giới đă thành công trong việc áp dụng vào sản xuất và thanh lọc phế thải.
Duckweed (một loại bèo) dùng để hấp thụ lượng nitrate trong nguồn nước đang được sử dụng rộng răi;
cây bạch dương (poplar) hấp thụ một số phế thải hữu cơ. Việc thay thế nguyên liệu hoá chất bằng các hợp chất thiên nhiên như dùng carbohydrate (sản phẩm có trong tiến tŕnh chế biến phân gia súc) để thay thế hydrocarbon để chế tạo các loại plastic (như plastic tổng hợp từ bột bắp để bọc các loại sausage có thể tự hoại (auto-degradation) được trong thiên nhiên. Các việc làm trên cần được khích lệ và phát triển thêm bằng cách đẩy mạnh tài trợ cho nghiên cứu.
·
Giáo dục là ưu tiên hàng đầu để mọi người có thể đến gần nhau và
cùng nói chung một ngôn ngữ trong lănh vực khoa học kỹ thuật. Do đó các quốc gia đang mở mang cần đầy mạnh việc phát triển giáo dục ở cấp trung học chuyên nghiệp và đại học để tiếp nhận và trao đổi các công nghệ mới dễ dàng hơn. Chính phủ, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và tư nhân cùng hợp tác trong nghiên cứu và kiến thức cùng dựa trên tinh thần trao đổi chân chính. Việc nâng cao dân trí người dân ở những nước đang phát triển trong việc bảo vệ môi trường sống chung quanh cần phải có sự hỗ trợ của cộng đồng các nước hậu kỹ nghệ qua IMF, WB… để bảo trợ tài chánh-nhân sự- kỹ thuật cùng thúc đẩy tiến tŕnh cải cách.
·
Thông tin tin học, một khám phá tuyệt vời vào thập niên sau cùng của thế kỷ 20 cũng cần được đem ra áp dụng rộng răi cho các nước chậm phát triển. Thế giới cần trợ giúp cho các nước trên thiết lập mạng lưới thông tin khoa học tân tiến nầy, tối thiểu ở trong môi trường đại học, nghiên cứu…để các sinh viên, nghiên cứu viên có điều kiện học hỏi, thu nhập những kiến thức mới để rồi áp dụng vào điều kiện cụ thể cho từng quốc gia một.