R11 Tuyệt Thế Thiên Hạ
Join Date: May 2007
Posts: 134,625
Thanks: 9
Thanked 6,509 Times in 5,458 Posts
Mentioned: 3 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 38 Post(s)
Rep Power: 170
|
· Dựa trên tiêu chuẩn toàn cầu, khi đă đồng ư ngưng hay cấm sản xuất một sản phẩm nào có khả năng tác hại lên con người như các loại thuốc sát trùng, các quốc gia hậu kỹ nghệ cần phải chấm dứt việc sản xuất và chuyển tải qua các nước đang phát triển v́ nhu cầu lợi nhuận. Việc làm nầy cần phải chấm dứt và thế giới cần phải quy định biện pháp chế tài cho quốc gia vi phạm. Sẽ không c̣n công dân hạng nh́ trong thế kỷ nầy! (Hóa chất DDT đă bị LHQ cấm sử dụng và sản xuất từ năm 1973, nhưng TC vẫn tiếp tục sản xuất và Việt Nam vẫn nhập cảng và hóa chất nầy là sản phẩm nền tảng cho hầu hết các loại hóa chất hỗn hợp dưới xưng nghĩa hóa chất bảo vệ thực vật).
· Sau hết, việc xuất cảng mọi phế thải kỹ nghệ dưới bất cứ h́nh thức nào cần phải chấm dứt. Đây là một hành động vô nhân đạo không thể tồn tại được cho thế kỷ 21, thế kỷ của hoà b́nh và môi trường xanh. Lănh đạo của các nước đang phát triển cũng đừng v́ nhu cầu ngoại tệ nặng cho quốc gia mà chấp nhận những loại phế thải độc hại trên. Các thế hệ sau đó sẽ không bao giờ tha thứ cho các hành động nầy.
Trường hợp Việt Nam
Từ giữa thập niên 80, chính sách kinh tế “Mở cửa” và “Đổi mới” tiếp ngay sau đó, đă khai mào cho một chu kỳ tăng trưởng mới cho toàn quốc, đặc biệt ở thành phố Sài G̣n và các vùng lân cận trong đó hầu hết các khu công kỹ nghệ đều tập trung vào và chiếm hơn 40% tổng sản lượng quốc gia.
Tuy nhiên, có những mặt tiêu cực sau đây:
· Nhiều dịch vụ phát triển quá nhanh chóng và không được điều nghiên kỹ lưỡng như việc thiết lập các trung tâm giải trí, khách sạn, sân golf…chỉ để phục vụ cho người giàu và người ngoại quốc tạo thêm ranh giới cách biệt giữa tuyệt đại đa số quần chúng;
· Một số tư bản mới đă h́nh thành, từ đó phát xuất ra nhiều mâu thuẫn và hệ lụy tiêu cực trong hệ thống quyền lực-kinh tế-chính trị.
Chính hai mặt tiêu cực nầy đă là một trong nhiều nguyên nhân tạo nên khủng hoảng xă hội gần đây nhất và làm giảm dần mức tăng trưởng kinh tế từ 10% ở những năm đầu xuống đến 4% năm 1999, và sau đó không tăng trưởng được như dự tính, mặc dù Việt Nam vẫn c̣n quá nhiều nhu cầu sinh hoạt căn bản cần phải cung cấp cho người dân.
Việc tăng trưởng kinh tế-kỹ nghệ quá nhanh so với tốc độ trước khi có chính sách đổi mới, nhưng không đủ nhanh so với nhu cầu của quốc gia, tạo nên những biến động ảnh hưởng lên môi trường ở những vùng được phát triển mạnh. Tại các nơi trên, bầu không khí ngày càng ô nhiễm thêm. Thán khí cùng với nhiều kim loại độc hại như ch́, thủy ngân và một số hợp chất hữu cơ nhẹ đă được ghi nhận. Nguồn nước bị ô nhiễm nặng đặc biệt ở các vùng tiếp nhận trực tiếp nguồn nước thải từ các nhà máy và hệ thống cống rănh.
Nh́n chung t́nh trạng môi sinh ở Việt Nam đă đến mức báo động, nhất là ở các thành phố lớn mặc dù mức độ khai triển kỹ nghệ chưa phát triển tương xứng với nhu cầu của dân chúng toàn quốc mà chỉ tập trung vào một số thành phố lớn mà không lưu tâm hay quy hoạch đồng bộ tuỳ theo điều kiện của từng địa phương. Hiện nay vẫn c̣n khoảng 50% dân chúng tập trung ở các vùng nông nghiệp đang c̣n trong thời sơ khai của thời đại phát triển kỹ nghệ.
Nguyên nhân của việc tŕ trệ phát triển cho những năm gần đây cũng như hiện trạng ô nhiễm ở Việt Nam có thể được tóm tắt vào những ghi nhận sau đây:
· Ảnh hưởng của sự sụp đổ của hệ thống Cộng sản ở Nga xô và Đông Âu đầu thập niên 90 cùng với sự khủng hoảng kinh tế vùng Đông Á ở những năm gần đây (sau năm 1997…) làm cho quốc tế ngần ngại đầu tư vào Việt Nam.
· Hệ thống tiền tệ chưa hoán chuyển được và chưa thiết lập được thị trường chứng khoán cùng các luật định ngân hàng phức tạp và hay thay đổi thường xuyên, không bảo đảm tối thiểu cho công cuộc giao thương với bên ngoài.
· Hệ thống ngân hàng không hữu hiệu, không thể hiện nhiệm vụ đúng đắn trong dịch vụ trao đổi và không có tính xuyên suốt trong báo cáo. Thống đốc ngân hàng Việt Nam mới đây đă nhận định rằng nhiệm vụ của ngân hàng là đáp ứng cho nhu cầu của quốc gia và dân chúng chứ không thi hành theo chỉ thị hoặc mệnh lệnh!
· Mặc dù có sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Á châu (ADB), Quỷ tiền tệ thế giới (IMF), Chương tŕnh phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)… về tài chánh và kỹ thuật cho việc nâng cấp và giải quyết các vấn nạn môi sinh ở Việt Nam do sự phát triển kỹ nghệ và nạn gia tăng dân số, nhưng hầu hết các hạng mục công tŕnh trên c̣n nằm bất động trên h́nh thức các dự án khả thi. Mức độ thi công tiến hành quá chậm do thủ tục hành chánh rườm rà và bất nhất cũng như các tệ nạn quan liêu khiến cho đôi khi dự án phải bị bỏ dở nửa chừng.
· Việc phá hoại các rừng ven biển và dẫn nước mặn vào sâu trong đất liền để khai thác dịch vụ nuôi tôm là một trong những nguyên nhân cho sự nhiễm mặn. Ngay cả việc nuôi tôm, sau một vài mùa có thu hoạch cao, dịch vụ nầy lần lần đi vào phá sản v́ tôm con bị chết quá nhiều v́ hệ sinh thái thay đổi và môi trường sinh sống của tôm không c̣n đồng nhất như vùng nước mặn nguyên thuỷ. Ảnh chụp từ vệ tinh năm 1999 cho thấy khoảng 150.000 hecta ở ven biển Cà Mau, Bạc Liêu đă bị bỏ hoang trên gần 200.000 hecta đă khai thác trong khoảng năm năm gần đây! Từ xa xưa, các rừng tràm, đước, vẹt…đă phát triển vững mạnh trong vùng lầy, thiết lập một hệ sinh thái thiên nhiên vừa cân bằng và cầm chân nước mặn tiến sâu vào đất liền, vừa là môi trường sống thích hợp cho tôm cá; do đó tôm không thể phát triển được v́ sự mất cân bằng trên.
· Trong những năm sau nầy, lănh đạo Việt Nam có khuynh hướng cứng rắn hơn trong việc điều hành quốc gia. Đường lối và chính sách hiện tại thể hiện sự bất an, bối rối trong quyết định trước những vấn nạn sinh tử cho đất nước.
· Có nhiều thành phần tham gia vào việc phát triển kinh tế-kỹ thuật ở Việt Nam. Đó là quân đội, công an, chính quyền, tư nhân, và ngoại quốc. Một khi đă nắm chặt quyền lực trong tay, cộng thêm với sức mạnh kinh tế, các thành phần có quyền lực trên có khả năng tạo ra nạn kiêu binh có thể gây xáo trộn xă hội mà lănh đạo sẽ khó kiểm soát được. Điều nầy sẽ làm mất niềm tin và giảm thiểu mức đầu tư của dân chúng và nhất là đầu tư quốc tế.
· Đối với các nhu cầu phát triển, điều tiên quyết là phải có sự bàn thảo và đồng thuận giữa chính quyền và các công ty tư nhân. Cho đến nay, mọi hợp tác giữa chính quyền-tư nhân-ngoại quốc chưa được đặt trên căn bản công bằng và đồng thuận do đó vẫn c̣n nhiều cản ngại trong việc giao thương quốc tế. C̣n có nhiều thiên vị cho các đối tác có liên quan đến chính quyền. Công ty quốc doanh chiếm đa số vẫn c̣n được tài trợ và ưu đăi mặc dù làm ăn thua lỗ. Việc kiểm soát môi sinh c̣n quá lỏng lẻo đưa đến việc lơ là trong bảo quản và xử lư phế thải.
· Một số dự án có tầm vóc quốc gia, đối tác được chọn chưa thu thập đầy đủ dữ kiện nghiên cứu tác hại môi trường, nhân sự chuyên nghiệp không đáp ứng được nhu cầu của công tŕnh, do đó nhiều dự án phải bị bỏ dở nửa chừng.
· Các công ty tư vấn ngoại quốc được Việt Nam mời đến để khai triển một số dự án kỹ thuật và tính khả thi trong từng điều kiện hiện có. Đôi khi, Việt Nam dùng tư cách chủ nhà để chỉ đạo dự án hay sửa đổi không đúng với quy cách kỹ thuật làm cho dự án khó được hoàn chỉnh. Và cũng có nhiều công ty ngoại quốc v́ muốn được trúng thầu mà thiết lập dự án khả thi khi chưa hoàn tất hồ sơ điều tra cơ bản. Điều lầy làm cho phát triển Việt Nam tŕ trệ về thời gian, tài lực, và nhân lực, chưa kể đến việc làm mất niềm tin của người dân về thực tâm của những người có trách nhiệm!
Nhận diện được một số nguyên nhân căn bản đưa đến sự kiện chậm phát triển cho Việt Nam những năm gần đây, chỉ cần một ít động năo, việc truy t́m giải đáp cho bài toán trên cũng không khó vậy.
Thay lời kết
Trở về đất nước thân yêu của tất cả chúng ta, Việt Nam hiện tại là một dân tộc non trẻ, thông minh, chăm chỉ, hiếu học, cần cù, và có tinh thần cầu tiến. Trên 90% dân số đều biết đọc biết viết. Con số nầy quá cao so với các nước đang phát triển và có điều kiện xă hội tương tự như của chúng ta, nhưng ngược lại lợi tức đầu người vẫn c̣n thấp kém so với các quốc gia trong vùng.
Tai sao có sự nghịch lư kể trên? Dĩ nhiên là phải có cái ǵ bất ổn cho đất nước. Đương nhiên nhà cầm quyền hoàn toàn trách nhiệm về t́nh trạng ngày càng đi xuống hiện nay. Gần 40 năm sống trong hoà b́nh, thiết nghĩ cũng đủ dài để thiết lập một xă hội ổn định cho Việt Nam.
Nhưng tiếc thay điều đó không xảy ra.
Hiện tại, trong nhiều lănh vực kinh tế-kỹ thuật-khoa học-môi sinh, thế giới đang biến thành một quốc gia lớn, một trật tự mới đang h́nh thành. Trong bối cảnh đó, càng ngày càng thấy rơ ràng là mọi người đều có trách nhiệm. Những ǵ xảy ra tại Tây Tạng, Vân Nam đều trực tiếp ảnh hưởng đến đồng bằng sông Cửu Long. Rốt ráo hơn nữa, mọi người Việt đều có trách nhiệm về t́nh trạng thụt lùi của Việt Nam.
Càng thiết tha, càng gắn bó với quê cha đất tổ càng thấy ḿnh có trách nhiệm.
Trách nhiệm là nhận thức thực tiễn, và trên căn bản đó có những thái độ và hành động tích cực hơn cho đất nước.
Nói lên tiếng nói, tạo một âm vang, khuếch đại một xu hướng, tạo dựng sức ép, mỗi người mỗi cách, không sao kể xiết.
Nh́n lại đất nước, với hơn 65% lực lượng lao động thuộc thành phần trẻ tuổi, chúng ta đă có một trợ lực lớn có khả năng đưa đất nước lên cao. Tuổi trẻ Việt Nam, sau một giai đoạn ngắn tiếp cận với phong cách hành xử và giao thương quốc tế đă hiểu thêm và hiểu cặn kẽ về tự do-dân chủ. Từ đó tinh thần quốc gia dân tộc tăng trưởng nhanh chóng trong thành phần nầy.
Tuổi trẻ Việt Nam mong muốn có một đời sống kinh tế-tinh thần-tâm linh tương xứng với các đóng góp của chính ḿnh.
Những rào cản ngăn cách trong tôn giáo-địa phương không c̣n là một chướng ngại để rồi cùng ngồi lại với nhau, không như các thế hệ cha ông trước kia.
Những cảm xúc trong tư tưởng, vết hằn trong quá khứ sau cuộc qua phân của đất nước phải nhường bước cho lối nh́n tích cực về triển vọng tương lai của quê hương.
Do đó, các mỹ từ v́ thế hệ mai sau, v́ chủ nghĩa anh hùng…không c̣n là một xúc tác tốt để hấp dẫn tuổi trẻ Viêt Nam nữa.
Tuổi trẻ Việt Nam trân trọng bốn ngàn năm văn hiến của tiền nhân, nhưng tuổi trẻ hôm nay không v́ niềm tự hào đó mà dừng chân lại để chiêm ngưỡng quá khứ.
Đừng cho đó là một cản ngại lớn cho sự bền vững của chế độ mà nên cùng nhau thay đổi đường lối và chính sách thích hợp với xu hướng toàn cầu. Cùng tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường làm việc thích ứng với tính năng động và hiếu học của tuổi trẻ.
Có như thế, cơ hội phát triển và triển vọng tương lai đồng đều cùng đời sống kinh tế-tinh thần có hy vọng được nâng cao sẽ là hai động cơ chính thức thúc đẩy tuổi trẻ mạnh bước tiến lên.
Cũng xin dừng rập khuôn tin tưởng vào văn hoá “coca cola” của Hoa Kỳ để mong được phát triển nhanh và đổi lấy một xă hội bất ổn về tinh thần và tạo ra xă hội băng hoại!
Tuổi trẻ Việt Nam đang lên đường.
Mai Thanh Truyết
|