View Single Post
Old 03-02-2015   #2
Hanna
R10 Vô Địch Thiên Hạ
 
Hanna's Avatar
 
Join Date: Dec 2006
Posts: 88,250
Thanks: 11
Thanked 3,751 Times in 3,090 Posts
Mentioned: 5 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 8 Post(s)
Rep Power: 109
Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8Hanna Reputation Uy Tín Level 8
Default

Chiếc máy bay đảo lượn mấy vòng rồi thả khói màu chung quanh và quăng xuống biển gần chiếc ghe một cái hộp hình chữ nhật màu tro mà do kinh nghiệm làm việc với cố vấn Mỹ ngày xưa, nhìn qua là tôi biết cái transmitter mà phi công muốn chúng tôi nhặt lên dùng để liên lạc với họ để được hướng dẫn việc cấp cứu chúng tôi. Tôi la lớn lên yêu cầu mọi người cố lượm cái hộp đó cho tôi để gọi cầu cứu, nhưng vì sóng quá lớn nên chiếc hộp lần lần dạt ra xa ghe chúng tôi, nhận chìm bao hy vọng cải tử hoàn sinh. Chiếc máy bay lượn thêm mấy vòng nữa nhưng thấy hoàn toàn hopeless nên bay đi mất mang luôn theo sinh lộ của 74 thuyền nhân khốn khổ và như gióng tiếng chuông báo tử đã đến.

Nét tuyệt vọng đã hằn rõ lên khuôn mặt mọi người. Cái giá của tự do nó đắc đến thế sao? Nhưng sau đó, có lẽ nhờ lòng thành tâm khấn nguyện Trời Phật linh hiển nên chiếc ghe tị nạn sau thời gian thập thò ở biên giới tử sinh từ cao điểm của cơn bão lúc 10:00 giờ sáng tới 4 giờ chiều thì bão từ từ dịu lại. Mọi người từ dưới khoang được lên sàn ghe để hít thở chút không khí trong lành của biển sau hơn 6 tiếng vật lộn với tử thần.

Các con tôi ói mửa đến xanh xao mặt mày, tội nghiệp Sương phải xức dầu và lấy thuốc cho chúng uống trong khi bà xã tôi, chị Hoa, chị Nghiêm nằm sóng soài trên sàn. Riêng tài công Trình thì mặt mày tái mét, anh giao tay lái cho người phụ để ngồi thở dốc. Tôi phải lấy thêm sâm và thuốc hồi sinh (revitalose) cho anh uống. Chiếc ghe vượt biên cứ thả trôi theo sóng nước trong tình trạng lương thực đã khô cạn.

Giữa lúc khốn cùng bi đát thì bỗng có phép mầu hiện đến, phép mầu nầy là cái giàn khoan giữa trùng dương đang khè ánh lửa sáng ngời. Mọi người cùng reo mừng trong khi tài công phụ trao bánh lái cho Trình từ từ cho ghe tiến tới giàn khoan (lần này nếu Thọ mà ngăn cản nữa thì tôi sẽ là người đầu tiên chống lại vì ở đời dịp may nào đến hai lần). Lúc đó là 9:30 tối ngày thứ năm, 5 tháng 6.

Khi ghe vừa tới giàn khoan mang hàng chữ “Pulai A” thật lớn, cây cầu thang sắt dẫn xuống mặt biển được kéo lên trên cao tận sàn giàn khoan. Tôi linh cảm đây là điều bất thường, chắc là giàn khoan không muốn tiếp những “người khách không mời mà đến”. Dù biết vậy nhưng đâu còn chọn lựa nào khác, tôi bảo Trình cho ghe cặp sát vào rồi nhờ vài thanh niên bấu chặt các thanh sắt khung giàn khoan để tôi leo lên cầu cứu. Từ mặt biển lên tơi sàn giàn khoan cao hơn 10 mét, thân giàn khoan lại rung rinh vì sóng biển và tôi tuy sức cùng lực tận nhưng với bản năng sinh tồn cũng đã cố leo lên được. Trong lúc bên dưới ghe mọi người, nhất là vợ con tôi, đều nín thở niệm Phật cầu Chúa giùm cho tôi. Một số khác la to lên để tiếp hơi khuyến khích:

– Ráng lên ông Phó ơi ! Đừng nhìn xuống biển mà bị chóng mặt. Chút xíu nữa tới rồi.

Khi lên tới nơi, tôi quay lại thì thấy tài công Trình, anh nằm dài trên platform nói không ra hơi :

– Em đuối sức quá rồi ông Phó ơi! Ráng leo lên đây nhờ ông Phó xin mấy ổng cho thuốc khỏe.

Tôi bắt đầu kêu gào:

– Xin các người cứu giúp chúng tôi, những nạn nhân bão tố trên biển cả.

Tôi la lớn như vậy hai lần thì một cánh cửa mở ra với một người Á Châu tay cầm khẩu M18 bước tới chúng tôi, tôi liền mở lời cầu xin giúp đỡ. Anh ta bước vào trong và sau đó trở ra với hai người nữa: một da trắng và một da vàng.

Người da vàng lịch sự giới thiệu với tôi rằng người da trắng là kỹ sư trưởng giàn khoan còn ông ta là phụ tá. Tôi bắt đầu trình bày hoàn cảnh thảm thương của chúng tôi để xin giúp đỡ. Sau nghe xong câu chuyện, viên kỹ sư da trắng nghiêm giọng bảo tôi :

– Các anh nói không thể sống với Cộng Sản nên ra đi tìm tự do. Tại sao các anh không ở lại kết họp nhau chống bọn họ mà lại cứ trốn chạy để mong sang Mỹ. Đến lúc nào mà Mỹ bị Cộng Sản xâm lăng thì các anh đi đâu?

Tôi sửng sốt bàng hoàng và bực tức trước lập luận đầy ác cảm với thuyền nhân của anh kỹ sư này, tuy nhiên vì sinh mạng của 74 người trên ghe nên tôi nhỏ nhẹ trả lời :

– Thưa ông! Tôi không leo lên đây để bàn cãi về phương sách chống Cộng, tôi chỉ van xin ông vì lòng nhân đạo cứu giúp 74 người trên ghe mà đa số là đàn bà trẻ con. Chúng tôi vừa may mắn sống sót sau cơn bão lớn ngày hôm nay, bây giờ thì ghe chúng tôi hoàn toàn hết nhiên liệu cũng như lương thực và nước uống. Khẩn cầu các ông mở lòng nhân mà trợ giúp giùm. Tôi xin thay mặt những người trên ghe vô cùng cảm ơn cứu tử của các ông.

Sau đó là cả một khoảng trống yên lặng đáng sợ, lúc bấy giờ một số nhân viên giàn khoan đầy đủ sắc tộc đen trắng vàng cũng kéo ra xem động tịnh. Sau đó vài phút, viên phụ tá da vàng ôn tồn bảo tôi:

– Xin ông vui lòng đợi chúng tôi một chút.

Rồi kéo tay kỹ sư trưởng tới một góc nói chuyện với nhau. Sau một hồi thảo luận, họ trở lại, viên kỹ sư trưởng nói với giọng điệu nhẹ nhàng hơn:

– Chúng tôi rất thông cảm hoàn cảnh của những người trên ghe nên chúng tôi sẽ tiếp tế đầy đủ nhiên liệu, lương thực nước uống cũng như thuốc men. Nhưng rất tiếc là chúng tôi không vớt quý vị được vì đó không nằm trong chính sách giàn khoan. So sorry.

Thấy được vậy là quá tốt rồi và tôi dư biết kết quả này là do lòng từ tâm của vị phụ tá giàn khoan, người mà qua thái độ và giọng nói đã biểu lộ cảm tình đối với đám thuyền nhân chúng tôi. Ân nhân ơi! Dù ở bất cứ phương trời nào, chúng tôi luôn khắc ghi ân nghĩa của ông. Anyway, thì cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới viên kỹ sư trưởng giàn khoan Pulai A của Mã Lai vì cho dù không đồng quan điểm, ông cũng đã ra tay cứu trợ chúng tôi. Sau đó tôi xin họ cho ghe được neo tại một trong những cái phao bằng sắt đặt chung quanh giàn khoan chờ biển yên sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng sau đó Trình nói riêng với tôi là:

– Nói thiệt với ông Phó là tôi không dám lái chiếc ghe này đi đâu hết. Ghe nó mục hết rồi. Nghe Trình nói vậy, tôi thấy nản chí vô cùng. Cũng may là ngày hôm sau có ghe đánh cá Mã Lai cặp tới đề nghị chúng tôi trả họ hai hột xoàn một cho vợ của thuyền trưởng và thuyền phó thì họ sẽ kéo thuyền tới bờ biển Marang gần đó. Sau cơn chết đi sống lại nên cái deal nầy được hầu hết thuyền nhân đồng ý.

Cặp bờ Marang, cảnh sát địa phương gọi Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ Mã Lai (Malaysian Red Cresent Society) –Hồng Thập Tự – tới lập thủ tục đưa chúng tôi tới thị trấn Terengganu để hôm sau đáp tàu Pulau Tierra tới đảo Pulau Bidong.

Tại đồn Cảnh Sát Mã Lai Bidong, anh Huấn trưởng phòng bảo tôi sắp xếp đồng bào trong thuyền rồi trình diện Sam, trưởng đồn Cảnh Sát Mã Lai. Sau đó, Sam đề nghị tôi làm thông dịch viên và phiên dịch viên cho đồn Cảnh Sát mà nhiệm vụ chính là phiên dịch tờ tự khai của các đại diện tàu mới tới, phiên dịch giấy tờ từ Cao ủy và chính quyền Mã Lai, thông dịch phỏng vấn thuyền nhân loại đặc biệt, thưa gởi quỵt tiền vượt biên, nấu rượu lậu, tố giác Việt Cộng trà trộn.

Phòng Cảnh Sát Mã Lai lúc bấy giờ có lối 10 thuyền nhân giúp việc gồm đủ các ban: ban tiếp nhận người mới tới, ban hành chánh, ban tiếp liệu, ban an ninh điều tra, ban thông dịch.

Ông Hoàng Thanh Thảng đương kim chủ tịch hội Người Việt Toronto cũng làm việc tại đây một thời với tôi. Nhân số thuyền nhân ở Bidong lúc bấy giờ trên 40.000 người nên sinh hoạt thật rộn rịp.

Đặc biệt các ca sĩ Lệ Thu, Ngọc Minh, Hùng Cường, Ali Minh, Hoàng Thi Thao thường lên đài phát thanh Bidong hát những bản tình ca người tị nạn như SaiGon ơi vĩnh biệt, Người di tản buồn, Nghìn trùng xa cách, Biển nhớ, Sao không thấy hồi âm… nghe mà đau buồn não nuột cho thân phận người tị nạn.

Gia đình tôi ở đảo Bidong gần 3 tháng thì gặp dịp Canada dưới quyền Thủ tướng Pierre Trudeau đã mở rộng vòng tay nhân đạo nhận người tị nạn với quota 50,000 người.

Ngày 20 tháng 9 năm 1980 trên chuyến bay Ward Air chung với ông Hoàng Thanh Thảng, giáo sư Đặng Sĩ Hỉ, Nguyễn Chí Thành (giáo sư trung học kiểu mẫu Thủ Đức), tài công Bùi Quang Trình… Chúng tôi đến định cư tại Toronto từ năm 1980 tới nay và đã ổn định cuộc sống trong miền “xứ lạnh tình nồng” và “đất lành chim đậu”.

Nơi đây xứ lạnh tình nồng

Yêu thương chất ngất như lòng đại dương

Niềm tri ân nói khôn lường

Tương lai trải rộng con đường thêu hoa

Thank you Canada

It’s a great country to live

Toronto, mồng một Tết năm Ất Mùi 2015

Nguyên Trần

Bình minh trên biển
Hanna_is_offline   Reply With Quote
 
Page generated in 0.03681 seconds with 9 queries