R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
|
CÁC BỆNH TIM MẠCH : UỐNG MỘT ÍT ĐỂ BẢO VỆ TRÁI TIM M̀NH.
Đó là một lư lẽ chính ủng hộ rượu vang : rượu vang có một hiệu quả bảo vệ tim (effet cardioprotecteur), duy tŕ ư tưởng của nghịch lư Pháp (french paradox) nổi tiếng, xuất hiện trong những năm 1990. Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu đă đều đồng quy theo chiều hướng này, chứng tỏ tác dụng dương tính cùa các polyphénol lên cholestérol xấu. Một trong những công tŕnh nghiên cứu mới nhất, công tŕnh của một nhóm nghiên cứu Pháp của Inserm, đă nhận diện một cơ chế phân tử có liên quan đến tác dụng giăn mạch của delphinidine (anthocyane), một polyphénol hiện diện trong rượu vang đỏ. Các nhà nghiên cứu đă cho thấy, nơi chuột, rằng chất này hoạt hóa một thụ thể được biết là có tác dụng kích thích sự sản xuất oxyde d’azote, một gốc tự do (radical libre) có tác dụng giăn mạch. Để được như thế, không cần phải tiêu thụ rượu vang để có được những kết quả bảo vệ này ! Những thức ăn thức uống khác như cà phê, chè xanh hay chocolat, đều giàu polyphénol. Ngoài ra, như Pierre Ducimetière, nhà dịch tễ học của Inserm, mới đây đă viết, “ nghịch lư Pháp không c̣n tồn tạinữa ”. Thật vậy, những công tŕnh nghiên cứu khác đă chứng minh rằng trên b́nh diện bệnh động mạch vành, nước Pháp chiếm một vị trí trung gian theo một gradien bắc-nam, nhưng chắc chắn không phải là ngoại lệ. Ngoài ra, “ không ǵ chứng tỏ rằng rượu vang là yếu tố duy nhất giải thích, BS Jean Dallongeville, thuộc Viện Pasteur de Lille đă xác nhận như vậy. Những người uống có mức độ của những công tŕnh nghiên cứu này nói chung là những người không hút thuốc, ăn uống lành mạnh và tập thể thao.”
(SCIENCE ET AVENIR 9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 198 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 01/11/2010 )
10/ RƯỢU VÀ THAI NGHÉN : 9 THÁNG KIÊNG KHEM.
“ Số không rượu (zéro alcool) trong thời kỳ thai nghén. ” “ Đó là điều logo, được dán trên những chai rượu từ năm 2007, muốn nói. Gan của thai nhi c̣n non trên b́nh diện enzyme. Kết quả : rượu không được thoái hóa ở gan và chưa được 60 phút sau khi người mẹ uống một ly rượu, có thể nói, thai nhi cũng cụng ly. Người ta chấp nhận rằng bệnh cảnh được gọi là hội chứng làm thấm rượu thai nhi (SAF : syndrome d’alcoolisation fœtal) tương ứng với một sự uống rượu đều đặn trên hai ly mỗi ngày hay những lần uống rượu cấp tính với hơn 4 ly. Hội chứng này có liên quan đến 7000 trẻ em mỗi năm ở Pháp, nguyên nhân đầu tiên không phải do di truyền của phế tật tâm thần (handicap mental) của trẻ em. Chậm tăng trưởng, các thương tổn của hệ thần kinh trung ương, những khó khăn trong học tập..., bệnh cảnh lâm sàng là phức tạp. Ngoài ra, một công tŕnh nghiên cứu của Viện theo dơi y tế (InVs : Institut de veille sanitaire) và của Inserm, được thực hiện năm 2008, đánh giá rằng những thể bán phần nhiều hơn 3 lần những thể hoàn toàn. Tất cả những bất thường này đều có thể tránh được. Lại nữa, không có ngưỡng của nguy cơ (seuil de risque), v́ vậy người ta khuyên 9 tháng kiêng khem. “ Mặc dầu chỉ một ly uống riêng rẻ dĩ nhiên không gây nên cho tất cả mọi người những thương tổn của những tác dụng độc hại (bởi v́ điều đó tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm di truyền của các bà mẹ), nhưng những lượng nhỏ chất cồn có thể gây nên những thương tổn thần kinh nơi thai nhi ”, BS Ingrid Chazeron, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần của bệnh viện Clermont-Ferrand đă giải thích như vậy. Ở Pháp, cứ hai phụ nữ th́ có một thú nhận là có uống rượu. So với 12% ở Hoa Kỳ và 60% ở Nga. Một con số phát xuất từ công tŕnh nghiên cứu quốc gia duy nhất, được tiến hành ở Auvergne năm 2004 nơi 1000 phụ nữ có thai. “ Việc thiếu được thông tin nơi những phụ nữ này đă làm chúng tôi ngạc nhiên, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần, người điều hành công tŕnh nghiên cứu, đă nói tiếp như thế. Ngoài ra, khẩu hiệu “ zéro alcool ” không phải là một thông điệp tốt, bà đă xác nhận như vậy. Tốt hơn là đả thông họ về các cách tiêu thụ và những nguy cơ gặp phải. Như ở Canada, là nơi thông điệp được hướng về những điểm mốc tiêu thụ.” Dầu sao, nếu c̣n cần phải có một luận cứ bổ sung, th́ hai công tŕnh nghiên cứu mới đây vừa để lộ những yếu tố buộc tội mới : một nguy cơ nhân lên hai lần phát triển một thể leucémie aigue myéloblastique, do một tương tác giữa các yếu tố di truyền và sự tiếp xúc tiền sinh, và một khả năng sinh đẻ (fertilité) bị hạ thấp đối với những người con trai của những bà mẹ nghiện rượu.
(SCIENCES ET AVENIR 10/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 199 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/11/2010 )
1/RƯỢU CÓ THỂ CÓ HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA CÁC TINH TRÙNG.
Các cháu trai mà bà mẹ đă uống rượu trong thời kỳ thai nghén, có nguy cơ khả năng sinh sản thấp hơn.
REPRODUCTION. ở Châu Âu và Hoa Kỳ, trong những thập niên qua việc giảm số các tinh trùng, được chứng thực nơi những người đàn ông, có thể là do, ít nhất một phần, sự tiếp xúc với rượu trong tử cung.
Trong một công tŕnh nghiên cứu, được công bố mới đây trong tạp chí Human Reproduction, Cecillia Ramlau-Hansen và các đồng nghiệp của bệnh viện đại học Aarhus (Đan Mạch) cho thấy rằng, những người đàn ông, mà mẹ đă uống nhiều hơn một ly mỗi ngày trong thời kỳ thai nghén, có sự sản xuất các tinh trùng bị giảm 1/3, và rằng những hậu quả đă có thể được nhận thấy bắt đầu chỉ 2 ly mỗi tuần, hoặc 24 g alcool. Đây là lần đầu tiên một mối liên hệ như vậy được phát hiện. “ Mặc dầu hiện nay đó chỉ là một sự tương quan, nhưng hướng mới này là đáng quan tâm ”, GS Louis Bujan, thuộc đại học Paul-Sabatier và của CHU de Toulouse đă đánh giá như vậy. Chúng ta hăy nhắc lại rằng, việc tiêu thụ rượu bởi các phụ nữ có thai đă là nguyên nhân đầu tiên không phải do di truyền của sự chậm phát triển trí tuệ nơi đứa trẻ sinh ra đời.
Chính vào năm 1992, lần đầu tiên, hai nhà nghiên cứu Đan Mạch khác đă báo cáo với giới hữu trách y tế của đất nước họ về sự giảm không đổi, từ nhiều thế hệ, của sự sản xuất các tinh trùng của đồng bào họ. Bởi v́ cùng lúc đó người ta chứng thực một sự tăng cao của các bất thường của sự phát triển của bộ máy sinh dục nam và của các ung thư tinh hoàn, nên các mối nghi ngờ đều hướng về những yếu tố môi trường, nhất là sự tiếp xúc với vài hợp chất hoá học, các chất làm rối loạn nội tiết (perturbateur endocrinien).
Rất nhanh chóng Đan Mạch đă ở hàng đầu trong những nghiên cứu được thực hiện trong lănh vực này. Và điều này v́ nhiều lư do. Vào thời kỳ đó, đất nước đă phải đương đầu với một t́nh trạng giảm khả năng sinh sản rơ rệt của các cặp vợ chồng. Thật vậy, Đan Mạch giữ kỷ lục Châu âu về sinh đẻ bằng thụ thai nhân tạo (FIV : fécondation in vitro), và hiện nay vẫn nhu vậy với một tỷ lệ gần 5%, hoặc gấp ba lần so với nước Pháp. Sau đó, việc tạo điều kiện cho các nhà khoa học Đan Mạch được tham khảo các hồ sơ y khoa của tất cả các bệnh nhân được nhập viện từ năm 1977, đă cho phép họ thực hiện những nghiên cứu thống kê trên nhiều thế hệ. Các điều tra, được tiến hành nơi các phụ nữ mang thai bởi nhóm nghiên cứu của Miels Stakkebaek ở Rigshospitalet de Copenhague, trước hết đă cho thấy tác dụng có hại của chứng nghiện thuốc lá của người mẹ lên khả năng sinh đẻ của các người con gái, với một thời hạn để thụ thai tăng gấp đôi nếu các phụ nữ đă được tiếp xúc trong tử cung với thuốc lá cũng là những người hút thuốc. Vào năm 2007, Cecilia Ramlau-Hansen và các đồng nghiệp báo cáo một sự giảm gần 20% độ tập trung của tinh trùng của những người đàn ông, vốn đă bị tiếp xúc với thuốc lá của người mẹ khi c̣n trong tử cung. Sau cùng, một công tŕnh nghiên cứu mới của Đan Mạch, được thực hiện một cách đặc biệt lên những phôi thai người, với tuổi dưới một tam cá nguyệt, xuất phát từ IVG, đă phát hiện một sự suy giảm khối lượng dự trữ của những tế bào sinh sản trong những cơ quan sinh dục của cả hai giới tính, do đă bị tiếp xúc trong tử cung với thuốc lá.
Những tác dụng được xác nhận này của thuốc lá, và bây giờ được nghi ngờ đối với rượu, càng đáng lo ngại khi số các phụ nữ tiếp tục hút hay uống trong thời kỳ thai nghén. Ở Pháp, một công tŕnh nghiên cứu của Stéphanie Toutain, thuộc Đại Học Paris-Descartes, mới đây gợi ư rằng nhiều phụ nữ c̣n đánh giá thấp những nguy hiểm của một sự tiêu thụ rượu và tương đối hóa các nguy cơ tùy theo loại nước uống hay tùy theo lúc thai nghén. Theo công tŕnh nghiên cứu, lời ghi “ Zéro alcool trong thời kỳ thai nghén ” trên các chai rượu từ năm 2007 có lẽ không đủ. Cecilia Ramlau-Hansen nghĩ rằng cần phải đi xa hơn bởi v́ “ mặc dầu c̣n quá sớm để xác nhận một mối liên hệ trực tiếp nhân quả, nhưng công tŕnh nghiên cứu của chúng tôi tăng cường ư tưởng cho rằng, các phụ nữ có thai phải tuyệt đối tránh rượu, và ngay cả đối với mọi phụ nữ đă có ư định như vậy, bởi v́ khi những phụ nữ này khám phá ra rằng ḿnh có thai th́ họ có thể đă mang một bào thai đă nhiều tuần lễ rồi ”.
(LE FIGARO 28/10/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 201 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 22/11/2010 )
8/UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : LỐI SỐNG, CH̀A KHÓA CỦA PH̉NG NGỪA.
Nếu như chúng ta ăn uống lành mạnh, không hút thuốc, uống rượu có mức độ và tập nhiều thể dục hơn, khi đó ta có thể ngăn ngừa ¼ trong 1,2 triệu ung thư đại tràng được chẩn đoán mỗi năm.
Helene Kirkegaard và các cộng sự viên (Đan Mạch) đă phân tích các dữ kiện liên quan đến 55.487 người đàn ông và đàn bà tuổi từ 50 đến 64, không có các tiền sử về ung thư. Họ đă theo dơi nhóm người này trong khoảng 10 năm. Những người tham dự đă điền một bảng câu hỏi thăm ḍ lối sống và thói quen ăn uống của họ.
Trên cơ sở những dữ kiện được thu thập, mỗi người tham dự được cấp một chỉ số lối sống (index de style de vie) (được cho điểm từ 0 đến 5). Người ta gán cho mỗi người tham dự một điểm theo tiêu chuẩn mà người này thỏa măn : không hút thuốc, bước nửa giờ mỗi ngày, không uống hơn 7 ly rượu mỗi tuần nếu đó là một phụ nữ (14 nếu đó là người đàn ông), có một tour de taille dưới 88 cm đối với các phụ nữ (102 cm đối với những người đàn ông) và ăn uống lành mạnh. Trong thời gian theo dơi, 678 trường hợp ung thư đại trực tràng đă được chẩn đoán. Theo các tác giả, giả sử tất cả những người tham gia đều đạt được chỉ số lối sống 5 điểm, th́ điều đó có thể làm giảm 23% số các trường hợp ung thư. Vậy thông điệp sau cùng là khuyến khích dân chúng theo đuổi một lối sống lành mạnh.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 16/11/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 207 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 03/01/2011 )
9/ UỐNG MỘT ÍT ĐỂ CÓ ÍT VẤN ĐỀ TIM MẠCH HƠN.
Nhiều công tŕnh nghiên cứu nhấn mạnh những lợi ích của việc uống rượu đều đặn và có mức độ trên b́nh diện tim mạch. Với sự nhấn mạnh vào ư niệm có mức độ.
Những lợi ích của rượu được tiêu thụ với những lượng hợp lư (phải luôn luôn nhấn mạnh vào khía cạnh về lượng này) vẫn tiếp tục được phát hiện trên b́nh diện tim mạch, ngay cả vài người tiếp tục nhấn mạnh vào sự kiện cho rằng, ngay cả với những lượng giới hạn, rượu vẫn độc đối với năo bộ.
MỘT LỢI ÍCH NƠI NHỮNG BỆNH NHÂN ĐƯỢC MỔ BẮT CẦU.
Nơi những bệnh nhân nam giới đă bị một phẫu thuật bắt cầu động mạch vành (pontage coronarien) (và do đó, theo định nghĩa, có nguy cơ tim mạch gia tăng), sự tiêu thụ rượu với những lượng từ nhẹ đến trung b́nh (khoảng 2 đến 3 ly mỗi ngày) được liên kết với một sự giảm ¼ những can thiệp tim sau này, các nhồi máu cơ tim, các tai biến mạch máu năo và những tử vong, so sánh với điều xảy ra nơi những người không uống một chút nào.
Các tác giả cũng nhấn mạnh một điều chứng thực khác của cũng công tŕnh nghiên cứu này: những bệnh nhân được mổ bắt cầu với một loạn năng thất trái (dysfonction ventriculaire gauche) và uống rượu với lượng từ vừa phải đến quan trọng (hơn 6 ly mỗi ngày) ngược lại có một nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim mạch. tăng gấp đôi. Đó là điều được chứng tỏ bởi một công tŕnh nghiên cứu của Ư, được tiến hành ở Đại học La Sapienza (Rome). Do đó các tác giả khuyên đừng uống rượu trong trường hợp loạn năng thất trái và suy tim. AHA (American Heart Association) nhắc lại lời khuyến nghị đừng uống rượu v́ mục đích pḥng ngừa, chính là do các nguy cơ liên kết với việc uống nhưng lượng quá quan trọng.
NƠI CÁC PHỤ NỮ ĐANG GIÀ ĐI.
Sự tiêu thụ đều đặn và có mức độ (lại ở đây ta đừng quên tầm quan trọng của sự tiết độ), hoặc 2 đến 4 ly mỗi ngày, sinh ra một lợi ích giới hạn nhưng đáng kể về mặt t́nh trạng sức khỏe toàn bộ nơi những phụ nữ đang lăo hóa. Đó là kết luận của một phân tích các dữ kiện của công tŕnh nghiên cứu nổi tiếng Nurses’ Health Study, được tiến hành trên khoảng 14.000 người trong số những phụ nữ đă đạt đến hay vượt quá tuổi 70. Người ta nhận thấy rằng sự tiêu thụ có mức độ và đều đặn rượu làm gia tăng 11% đến 26% những cơ may sống sót. Mặt khác những cơ may này lớn hơn nơi những phụ nữ tiêu thụ những lượng rượu chừng mực một cách đều đặn so với những phụ nữ uống không thường xuyên hay những phụ nữ uống say túy lúy (binge drinking, saoulerie aigue).
ÍT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO HƠN NƠI CÁC PHỤ NỮ.
Chính cũng từ những dữ kiện của công tŕnh nghiên cứu Nurses’Health Study (toàn bộ được thực hiện trên 84.000 phụ nữ), được theo dơi trong hơn 20 năm, mà các nhà nghiên cứu của đại học Havard đă có thể xác định rằng việc uống những lượng rượu dưới 15 g mỗi ngày dẫn đến một sự giảm 20% nguy cơ bị tai biến mạch máu năo so với những phụ nữ không bao giờ uống rượu. Trái lại, nơi những phụ nữ được điều trị bởi hormone, những phụ nữ uống hơn 2 ly mỗi ngày có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo cao hơn những phụ nữ không uống chút nào.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/12/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 221 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/04/2011 )
6/ RƯỢU LIỀU MẠNH : NGUY CƠ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Kết quả của công tŕnh phân tích, được công bố bởi một nhóm các nhà nghiên cứu Canada, 84 thử nghiệm về ruợu, được đánh giá là đáng tin cậy, đưa đến hai kết luận. Đối với những người uống một liều từ 2,5 và 15 gam mỗi ngày(1 hay 2 ly) tỷ lệ tử vong tim mạch cũng như năo được giảm từ 14% đến 25 % so với những người không uống. Trên 2 ly, nguy cơ đối với những động mạch vành không thay đổi, nhưng làm gia tăng nguy cơ bị đột qụy, gia tăng 60% nơi những người uống mỗi ngày hơn 60% (5 ly hay hơn).
|