Hướng Dẫn Phòng Ngừa Bệnh Lyme - Bệnh Nhiễm Khuẩn Do bị Bọ Ve Cắn
Lynn Ly Phỏng Dịch Thông Tin của Bộ Y Tế Cộng Đồng Canada
(Public Health Agency of Canada wxw.phac-aspc.gc.ca/id-mi/lyme-fs-eng.php#s9 )
BỆNH LYME LÀ BỆNH GÌ ?
Bệnh Lyme là một căn bệnh gây ra bởi vi khuẩn Borrelia burgdorferi, có thể lan truyền qua vết cắn của một số loại bọ ve (certain types of ticks). Bệnh Lyme ở người có thể có các triệu chứng nghiêm trọng nhưng có thể được điều trị hiệu quả. Bệnh Lyme là bệnh vector-borne phổ biến nhất ở các vùng ôn đới và xảy ra ở châu Âu, châu Á, và trải rộng khắp Bắc Mỹ.
CON NGƯỜI MẮC PHẢI BỆNH LYME NHƯ THẾ NÀO?
Bọ ve (ticks) sống xung quanh hay trong các khu vực rừng rú và chúng bị nhiễm bệnh khi chúng cắn các con chuột, con sóc, chim và động vật nhỏ khác mà có thể đã mang vi khuẩn. Sau đó bọ ve lây lan vi khuẩn cho con người. Bọ ve thường cắn không gây đau và hầu hết mọi người không biết rằng họ đã bị cắn. Hai loại bọ ve có khả năng lây lan căn bệnh là loại: bọ ve chân đen ở phía Tây của Tỉnh Bang British Columbia và bọ ve chân đen tại các khu vực khác của Canada. Người không thể lây lan bệnh Lyme cho nhau. Mặc dù chó và mèo có thể nhiễm bệnh Lyme, nhưng không có bằng chứng chúng có thể lây nhiễm trực tiếp cho người. Tuy nhiên, các con vật nuôi có thể đem bọ ve bị nhiễm bệnh vào nhà, sân nhà. Những người thợ săn, người hành nghề lâm nghiệp thường có nhiều nguy cơ vướng phải bệnh Lyme, vì họ sinh hoạt nhiều trong môi trường nơi bọ ve có xu hướng sinh sống. Tuy nhiên, bệnh Lyme có thể không tiêm nhiễm từ việc giết mổ hoặc ăn thịt nai hay các cơ quan nội tạng nai.
LOẠI BỌ VE GÌ GÂY BỆNH LYME?
Bọ ve là động vật thuộc loại nhện nhỏ hay cắn các loài khác để hút máu, chúng liên quan đến bọ cạp, nhền nhện và con bét / con bọ chét nhỏ. Bọ ve có vài kích thước và màu sắc khác biệt, đặc biệt là bọ ve loại chân đen rất nhỏ. Trước khi hút máu, con cái trưởng thành có kích thước dài khoảng 3-5 mm và màu đỏ hay màu nâu sẫm màu. Bọ ve hút máu bằng cách sử dụng các bộ phận ở miệng để cắn bám vào động vật kể cả người . Con cái lớn hơn con đực một chút khi chúng hút máu no đầy thì chúng có thể to lớn như một quả nho. Con đực không nảy nở kích thước bởi vì chúng không ngốn máu . Ấu trùng (larvae) và nhộng (nymphs) (giai đoạn vị thành niên của bọ ve) thì vẫn còn nhỏ hơn khi được nuôi dưỡng, thì có màu nhạt hơn so với bọ ve trưởng thành. Người và vật nuôi có thể bị bọ ve bám vào khi đi lướt qua các dẫy thảm thực vật như bụi cỏ, bụi cây và đống lá rác.
UserPostedImage
Hình này cho thấy kích thước và màu sắc của bọ ve cái chân đen trong các giai đoạn khác nhau khi hút máu qua việc sử dụng một bức ảnh của năm con bọ ve cái đặt trên thước đo nằm bên cạnh một đồng tiền 10 xu Canada (đồng 10 xu Canada có đường kính khoảng 1.5cm). Bức ảnh cho thấy rằng bọ ve chưa hút máu thì có một màu nâu đỏ đậm, chúng trở nên màu nâu nhạt rồi chuyển sang màu vàng khi bọ ve bắt đầu hút được máu, sau đó chúng trở thành màu xám khi tiếp tục hút máu và rồi thì màu xám-nâu đậm khi no. Khi bọ ve được hút máu, bụng bọ ve lớn lên từ kích thước lúc chưa hút máu là khoảng 0.3 cm đến khi căng no là khoảng 0.6 cm. Khi đã no căng , bọ ve dài khoảng 1cm và tròn như hình trái trứng.
UserPostedImage
Hình này cho thấy kích thước và màu sắc của các con nhộng (nymphs) của bọ ve chân đen trong các giai đoạn khác nhau khi hút máu qua việc sử dụng một bức ảnh của ba con nhộng đặt trên một thước đo và bên cạnh một đồng xu 10 cent. Bức ảnh cho thấy con nhộng bọ ve chưa hút máu thì rất nhỏ (0.15 cm) và màu nâu xám. Khi chúng "hút ngốn" thì bụng lớn lên và đậm mầu lại cho đến khi no căng thì có kích thước là dài khoảng 0.3 cm, gần như thành mầu đen và tròn như hình trái trứng.
Có những khu vực ở Canada, nơi bọ ve sinh sản và tăng trưởng ồ ạt mà truyền những tác nhân bệnh Lyme được xác định và được gọi là khu địa phương bệnh Lyme (Lyme disease endemic areas). Mặc dù bọ ve chân đen phương Tây (western blacklegged ticks), Ixodes pacificus (đôi khi gọi là bọ ve nai (deer tick)), phân phối rộng rãi tại tỉnh bang British Columbia, nhưng lại sinh sản tăng trưởng ồ ạt nhất tại khu vực lục địa thấp hơn, ở trên đảo Vancouver và trong thung lũng Fraser. Quần thể mà thành lập (Established populations) các bọ ve chân đen, Ixodes scapularis (đôi khi gọi là bọ ve nai), mặt khác, đã được tìm thấy ở khu vực Đông Nam tỉnh bang Quebec, phía Nam và phía Đông tỉnh bang Ontario, phía Đông Nam tỉnh bang Manitoba và các khu vực của tỉnh bang New Brunswick và Nova Scotia.
Bọ ve chân đen có thể được tìm thấy ở nhiều nơi trong Canada, ngay cả nơi quần thể bọ ve chưa được xác định. Những bọ ve có thể được đưa vào các khu vực này do các loài chim bay di trú và khoảng 10% là những bọ ve "do chim gây ra" (“bird-borne” ticks) bị nhiễm vi khuẩn bệnh Lyme. Vì vậy, tình huống người có thể bị cắn bởi một bọ ve nhiễm bệnh hầu như ở bất cứ nơi nào trong Canada, cơ hội xảy ra thường ở những nơi mà quần thể bọ ve chưa dược đánh dấu hay đánh dấu là rất thấp .
NHỮNG TRIỆU CHỨNG BỆNH LYME
Những triệu chứng của bệnh Lyme thường diễn ra trong ba giai đoạn, mặc dù không phải tất cả bệnh nhân đều có tất cả các triệu chứng. Dấu hiệu đầu tiên của nhiễm trùng thường là một vết đỏ trên da hình tròn (a circular rash ) gọi là migrans ban đỏ (erythema migrans) hoặc EM. Loại vết đỏ hình tròn trên da (rash) xuất hiện trong khoảng 70-80% người bị nhiễm bệnh. Nó bắt đầu xuất hiện tại vị trí vết bọ ve cắn khoảng ba ngày sau khi bị cắn, đến sau một tháng và có thể kéo dài đến tám tuần sau đó. Những dấu hiệu điển hình của da bị dị ứng như ngứa ngáy, bong tróc vẩy (scaling), đau nhức (pain), sưng phồng (swelling), hoặc rò rỉ tiết dịch không liên kết bình thường với EM. Những triệu chứng khác bao gồm:
• Mệt mỏi (fatigue) ;
• Ớn lạnh (chills);
• Nóng sốt (fever);
• Nhức đầu (headache);
• Đau nhức khớp xương , bắp thịt (muscle and joint pain);
• Sưng hạch bạch huyết (swollen lymph nodes).
Nếu không được điều trị, thì tiến triển thành giai đoạn hai của căn bệnh này, và được biết đến như bệnh Lyme phổ biến, có thể kéo dài đến vài tháng và bao gồm các triệu chứng như sau:
• Rối loạn hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi (central and peripheral nervous system disorders);
• Phát ban / nổi vết đỏ nhiều nơi trên da (multiple skin rashes);
• Viêm khớp và các triệu chứng viêm khớp ( arthritis and arthritic symptoms);
• Tim đập nhanh, hồi hộp, tim đập như đánh trống ngực (heart palpitations);
• Cực kỳ mệt mỏi và suy nhược toàn bộ (extreme fatigue and general weakness).
Nếu bệnh vẫn không được điều trị, thì tiến triển thành giai đoạn ba, bệnh có thể kéo dài vài tháng đến nhiều năm với các triệu chứng có thể bao gồm viêm khớp tái phát và các vấn đề thần kinh. Trường hợp tử vong do bệnh Lyme thì rất hiếm.
Lynn Ly chú thích: Lynn sẽ phỏng dịch tài liệu nói về các triệu chứng lâm sàng của bệnh Lyme mà bộ Y Tế Canda dành cho bác sĩ gia đình để bổ túc thêm vào phần này của bài phỏng dịch này . Thông tin dành cho bác sĩ Gia Đình về căn bệnh này tại đây:
http://www.cfp.ca/content/54/10/1381.full.pdf+html
CHẨN ĐOÁN BỆNH LYME RA SAO?
Việc chẩn đoán bệnh Lyme nên được thực hiện ngay sau khi đánh giá các triệu chứng của bệnh nhân và nguy cơ tiếp xúc với bọ ve bị nhiễm bệnh. Xét nghiệm máu cũng có thể được áp dụng để phát hiện sự hiện diện của kháng thể đối với vi khuẩn.
Cơ quan Y tế Công cộng của Canada khuyến cáo các phương pháp tiếp cận hai tầng (the two-tiered approach) để thử nghiệm máu (mẫu máu sàng lọc với một kiểm tra và thử nghiệm trên các mẫu xét nghiệm dương tính với bệnh Lyme). Cơ quan Y Tế cảnh báo chống lại việc sử dụng những xét nghiệm bất hợp lệ (invalidated tests), những kết quả giải thích mà không theo hướng dẫn phù hợp. Xét nghiệm máu có thể là âm tính ở những bệnh nhân bị bệnh Lyme lúc khởi đầu hoặc ở những bệnh nhân đã từng có điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên, tính chính xác của xét nghiệm máu gia tăng khi nhiễm trùng tiến triển trong các cá nhân chưa được điều trị.
Bệnh Lyme là một bệnh phải khai báo quốc gia (a nationally notifiable disease) tại Canada từ năm 2009.