View Single Post
Default Tiểu thuyết lịch sử
Old 05-27-2019   #1
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Rep Power: 162
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Vy Khanh





I.

Vào đầu thế kỷ XX, thể loại tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện và lên đường hiện đại hóa, từ Thầy Lazarô Phiền đến Hoàng Tố Oanh Hàm Oan (1910) và Tố Tâm (1925), th́ tiểu thuyết lịch sử đă đồng thời xuất hiện và đến nay gần một thế kỷ sau, đă là những thử nghiệm và đóng góp quí báu cho văn học Việt Nam. Nhiều thế hệ người đọc đă bị lôi cuốn v́ nét đẹp nên thơ của lịch sử được kể lại, văn chương hóa, hoặc v́ tài người viết, dù đâu đó vẫn có người đă khó chịu với thể loại họ cho là lai căng, không văn chương thuần túy, một loại ăn bám. Nhà thơ Chateaubriand đă “kết tội” Walter Scott, ông tổ thể loại tiểu thuyết lịch sử ở Tây-phương, đă làm đồi trụy (perverti) cả tiểu thuyết lẫn lịch sử !

Văn và sử, văn chương và lịch sử, quan hệ như thế nào? Một mặt, văn chương là hư cấu và tác phẩm là một cái hoặc cách nh́n, tiên tri, dự báo, một nhận thức lịch sử – hoặc bên lề lịch sử, của một tác giả, trong khi đó, lịch sử là một nỗ lực t́m “sự thật” chính xác, khách quan, không thiên lệch, có hay có dở có mạnh có yếu, có vinh quang th́ cũng có thất bại phải cáng đáng với lịch sử. Tuy vậy, chuyện viết sử cũng không dễ ǵ khách quan, người viết sử thường là quan lớn của một triều đại như Lê Văn Hưu nhà Trần, Ngô Sĩ Liên nhà Lê, Phan Thanh Giản nhà Nguyễn. Lê Tắc viết An-Nam Chí Lược (1333) khi phải lưu thân phương Bắc cũng là muốn để lại hậu thế một cái nh́n lịch sử ! Vả lại chuyện đọc sử cũng tùy cách đọc và người đọc, với nào hành trang, nào tư cách! Viết sử như vậy cũng là một cách nh́n lịch sử, tùy thời, bước đi lịch sử và triều đại mà có nhiều văn bản lịch sử, có khi trở thành những tṛ nói dối, cố t́nh làm sai lạc lịch sử. Vậy có thể có “bản chất lịch sử” khách quan, vượt không gian thời gian không?

Thiển nghĩ đây là không tưởng ! Về phần tiểu thuyết lịch sử, chúng là một cách tra hỏi và nghi vấn quá khứ để biện minh hiện tại và chỉ hướng cho tương lai, qua trung gian một hay nhiều tác giả. Như vậy, chúng cũng là những tiểu thuyết luận đề khi đặt lại vấn đề, dữ kiện lịch sử, đề ra luận đề mới, mượn dĩ văng nói chuyện hiện tại, có thể có ư chống lại bước lịch sử hoặc trật tự xă hội đang có (ngoại bang đô hộ, độc tài đảng trị, v.v.). Dĩ nhiên đây là nói về những tiểu thuyết lịch sử chính loại, không thương mại!

Lịch sử như chân lư, là những sự thật “khách quan”, các nhà viết sử hay nhiều tác giả tiểu thuyết lịch sử như phải thuyết phục v́ tin có những “sự thật” cần được viết lại, đặt lại. Tại sao vậy? V́ kiến thức mới, v́ những dữ kiện mới phát hiện? V́ những cương tỏa chính trị xă hội cứng nhắc, v́ xă hội trước mắt đang có vấn đề, bí lối hoặc có kẽ hở. Trong khi tiểu thuyết lịch sử là “chân lư” qua tâm hồn, cách hiểu, là một cách nhận thức hay cảm nhận lịch sử v́ tác giả chúng có quyền hư cấu, tô nhân vật sâu hơn, rơ nét hơn, vĩ đại sống động hơn, hay hạ bệ, làm hèn kém đi. Thường các nhà viết sử vẫn theo lối b́nh thường “sử b́nh”, “cương” rồi “mục” mà không dám “nói lại”, “sửa sai” ngoại trừ những trường hợp theo “chính nghĩa” hay chính sách triều đại mới: Trần sửa sử Tiền Lê, Nguyễn sửa Hậu Lê, v.v.

II.

Thời lịch triều, chúng ta đă có một số kư sự và bút kư lịch sử vốn được gọi là chí hoặc chí truyện, viết bằng chữ Hán, như Hoan Châu Kư cuối thế kỷ XVII, Thượng Kinh Kư Sự ở thế kỷ XVIII và Việt Lam Xuân Thu, Nam Triều Công Nghiệp Diễn Chí, Hoàng Việt Hoàng Lê Nhất Thống Chí,,.. ở thế kỷ XIX (1). Thuộc tiểu thuyết chương hồi nhưng thành công nhất vẫn là Hoàng-Lê Nhất Thống Chí đă tiểu thuyết và cá thể hóa các nhân vật lịch sử một cách tài t́nh và cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử tản văn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam! Miền Nam nơi khởi phát văn học chữ quốc ngữ, đầu thế kỷ XX đă xuất bản những tiểu thuyết lịch sử mà cuốn đầu tiên là Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân (1910) của Trương Duy Toản, mở đường cho rất nhiều tác phẩm khác hai thập niên tiếp sau! Ngoài Bắc, có Quả Dưa Đỏ (1925) của Nguyễn Trọng Thuật dù tản văn vẫn hăy c̣n thi tính cũ. Giai Nhân Kỳ Ngộ (1927) của Phan Chu Trinh viết theo thể truyện thơ lục bát. Phan Bội Châu viết Trùng Quang Tâm Sử từ 1921 nhưng bằng chữ Hán và theo truyền thống chương hồi.

Theo các tác giả thời đầu thế kỷ XX th́ “dă sử” không phải là lịch sử nhưng không trái nghịch lịch sử, mà nương theo, “minh họa”, viết lại. C̣n “ngoại sử” lấy khung cảnh sử nhưng nhân vật là “sáng tạo” của tác giả. Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân (1910) của Trương Duy Toản là “ngoại sử” về một nhân vật Vương Thể-Trần đời Tây Sơn. Oán Hồng Quần tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử (1920) của Mộng Huê Lầu “ngoại sử” chuyện thời Pháp đô hộ, nhưng nhân vật Phùng Kim Huê là tưởng tượng của tác giả. Tiền Lê Mạt Vận (1932) của Phạm Minh Kiên cũng như Việt Nam Lê Thái Tổ (1929) của Nguyễn Chánh Sắt đều là tiểu thuyết “dă sử”. Những người viết tiểu thuyết lịch sử thời này là những vị có tinh thần dân tộc cao thấy không thể thắng ngoại xâm Pháp bằng vũ khí đă dùng sách báo làm phương tiện chống thực dân. Riêng trong Nam có phong trào viết truyện sử ta để phản ứng lại sự tràn ngập của truyện Tàu. Thời đầu thế kỷ, các tiểu thuyết lịch sử nói chung phần lớn viết theo truyện Tàu, có lớp lang chương hồi, văn hăy c̣n biền ngẫu và “tải” những luân lư căn bản và gợi ư thức dân tộc, ḷng yêu nước, đề cao tinh thần anh hùng nghĩa hiệp.

Đến hai thập niên 1930-40, tiểu thuyết lịch sử đă tiến bước “lăng mạn hóa” với Khái Hưng và Lan Khai rồi “tiểu thuyết hóa” với Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc,… và “sử hóa” với Ngô Tất Tố, Hoa Bằng,.. Đất nước bị trị, giới trí thức đi vào con đường văn hóa, mượn chuyện quá khứ để giáo dục, kư thác tâm sự, nhắc nhở, soi gương hoặc chống lại cái trật tự xă hội đang có mà đáng ra không đáng có, như Lan Khai tâm sự trong Lời Giới Thiệu cuốn Bà Chúa Chè của Nguyễn Triệu Luật : “… Đọc nó (…) ta c̣n phát sinh một u hoài đối với dĩ văng và nhớ tiếc cái tổ quốc cũ kỹ của chúng ta, với tất cả mọi điều hay dở của nó, cái tổ quốc mà nay ta không c̣n!…” (2). Ở đây tiểu thuyết lịch sử làm sống lại quá khứ với u hoài, tiếc nuối! Khái Hưng và Lan Khai là văn chương hơn cả. Với Lan Khai, tiểu thuyết lịch sử là chuyện t́nh lồng trong một khung cảnh lịch sử, với một số nhân vật xa gần với nhân vật có thật trong lịch sử. Tâm sự Lan Khai bi quan và t́nh yêu là động cơ của mọi biến cố và biến thiên của lịch sử ! Hai ông không có ư phản ánh trung thành lịch sử, họ đă lăng mạn hóa các nhân vật lịch sử, lăng mạn cả những hành động anh hùng, đẹp nhưng hết hợp thời, vớt vát, vẫn phảng phất khung cảnh chương hồi của Thủy Hử, Tam Quốc Chí, nhưng cũng đă thấy có sự kết hợp hài ḥa với lối trường thiên tiểu thuyết của A. Dumas. Thời đệ nhị thế chiến, Chu Thiên có Bóng Nước Hồ Gươm, Bút Nghiên,… Phan Trần Chúc có Sau Lũy Trường Dục (1942), Hồi Chuông Thiên Mụ (1943),.., Hoa Bằng có “lịch sử kư sự” Quang-Trung Nguyễn Huệ (1944),..

Sau ngày “thống nhất” 1975, một loạt tiểu thuyết lịch sử uốn cong sự thật bởi kẻ thắng, hoặc do thù hận chính trị, cá nhân, hoặc v́ thị hiếu độc giả; đây là một loại “văn chương” giỡn chơi với một số mảnh vụn của quá khứ, những mảnh vụn càng đầy tha hóa, bệnh hoạn, càng dễ thành tiểu thuyết: Đệ Nhất Phu Nhân của Hoàng Trọng Miên (1988, nhưng đă khởi đăng kỳ nhật báo trước 1975), Ván Bài Lật Ngửa của Nguyễn Hưởng Triều, Ông Cố Vấn (1989) của Hữu Mai, v.v. Cởi Trói (1986) là một giai đoạn tiếp nối “nền” văn nghệ sử thi, minh họa cứng ngắc của bốn thập niên trước đó, Nguyễn Huy Thiệp viết một số truyện lịch sử hoặc dă sử (Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết) khi đăng lên báo đă là những tiếng bom làm một số ngự sử của chế độ mất ăn mất ngủ. Ông nêu vấn đề hợp lư “xét lại” nhưng không công khai “đánh giá” nhân vật lịch sử: họ đă từng hiện hữu, tốt xấu mặc họ, nếu có công hay tội là đối với dân tộc, c̣n “chúng ta”, hôm nay cô đơn với luật nhân quả, với trách nhiệm hôm nay! Nguyễn Huy Thiệp coi lịch sử là hài kịch, bi hài th́ đúng hơn, v́ người đọc “thấy” được bóng tối vẫn vây bủa hiện tại, ông “báo động” thời đại đang sống phi lư, bạo động, không văn hóa ! Một xă hội “thứ ḷng tốt nhỏ, không cứu được ai” (VL), và lịch sử cũng như thế lực thế giới “nền chính trị thế giới giống như món nộm suồng să” (VL). Sau đó ông đến gần Nguyễn Trăi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, … Xử dụng lịch sử để nói chuyện hiện thực, Nguyễn Huy Thiệp khiến người đọc cảm nhận sự khác biệt giữa tâm t́nh các thế hệ: anh hùng bách chiến bách thắng và thần thánh cũng có lúc bất lực trong đời thường. Hóa ra có một lớp phấn son hay cương ẩu…! Nguyễn Huy Thiệp “đụng chạm” đến những nhân vật lịch sử bất khả xâm phạm như Nguyễn Huệ, anh hùng áo vải, anh hùng dân tộc, v́ với một chế độ xem Gia Long đă “mở đầu triều đại gần 100 năm nô lệ của dân tộc ta“, do đó tiểu thuyết hóa lịch sử về Nguyễn Huệ như Nguyễn Huy Thiệp là “xúc phạm danh dự dân tộc” (3)! Nguyễn Huy Thiệp và một số tác giả bắt người đọc phải lựa chọn, bị động, tham gia vào tác phẩm, tác giả đă “dám” làm việc “nói ra” những ưu tư, tư duy về lịch sử, người đọc cũng có phần nào trách nhiệm – bằng chứng những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đă gây tranh luận trong nước và thúc đẩy t́m hiểu, không phải chỉ riêng tác phẩm của một tác giả, Nguyễn Huy Thiệp – mà c̣n là lịch sử, chiến tranh, đất nước, tương quan với tha nhân, với thế giới, con người Việt Nam v.v. Văn chương có tư duy vốn ngầm chứa đặc tính đối thoại và lưu tiếp 2 đường đi về.

Trước khi có hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, ngoài nước đă có Nguyễn Mộng Giác và Trần Trung Quân và trong nước có Hoàng Công Khanh (Sớm Biệt Một Chiều Thu, Hoàng Hậu 2 Triều Dương Vân Nga, Vằng Vặc Sao Khuê, Vua Đen Mai Hắc Đế,…), Vũ Xương (Sáo Trúc Chí Linh), Hà Ân (Tổ Quốc Kêu Gọi,..), v.v ; nhưng phải đợi đến những năm cuối thế kỷ mới thật sự có hiện tượng “tiểu thuyết lịch sử”, với Trần Vũ, Trần Long Hồ, Hồ Minh Dũng, Trần Nghi Hoàng, Nam Dao, Xuân Vũ, … Hoàng Khởi Phong mới bắt đầu bộ Người Trăm Năm Cũ nhiều hứa hẹn. Yên-Tử cư-sĩ Trần Đại Sỹ viết nhiều tiểu thuyết lịch sử nhất ở hải ngoại : Anh Hùng Lĩnh Nam, Động Đ́nh Hồ Ngoại Sử, Cẩm Khê Di Hận, Anh Hùng Tiêu Sơn, Thuận Thiên Di Sử, B́nh Dương Ngoại Sử, Bảo Ḥa Ngoại Truyện, Nam Quốc Sơn Hà,… Lê Minh Hà viết lại chuyện Lưu B́nh Dương-Lễ với cái nh́n hiện đại và thực tế hơn (“Châu Long”. Diễn Đàn 98, 7&8-2000). Thị Lộ và Nguyễn Trăi của Hồ Minh Dũng (Thị Lộ, Câu Nam Ai Thất Lạc) cũng đem đến cho người đọc cảm tưởng mới về các nhân vật lịch sử đó! V.v. Ngự sử chế độ phê Nguyễn Huy Thiệp “xuyên tạc lịch sử” th́ Sông Côn Mùa Lũ được dễ chấp nhận hơn. Trong nước, hàng loạt tiểu thuyết lịch sử được viết bởi các nhà văn cạn đề tài chiến tranh chống Mỹ Ngụy và “xây dựng xă hội chủ nghĩa” hoặc họ ư thức được những lỗi thời và vô bổ? Đại hội Nhà Văn lần thứ 6 tháng 4-2000 đă chính thức thúc đẩy “chiến dịch” viết tiểu thuyết lịch sử. Việc sáng tác về các đề tài lịch sử đă được Ban Chấp hành Hội Nhà văn đề ra như là một phương hướng nhiệm vụ cần thiết cho ngũ niên tới, 2000-2005. Phương hướng nhiệm vụ thứ năm: “Tiếp tục ḍng chảy không đứt đoạn của kư ức văn hóa, Hội Nhà Văn tạo mọi điều kiện đăy mạnh sáng tác về đề tài lịch sử và chiến tranh cách mạng…” (4). Nguyễn Hữu Sơn – thuộc Viện văn-học và là người gần đây đă có một số công tŕnh san định thơ văn cổ cũng như biên soạn một số tuyển tập như về tạp chí Tri tân, tạp chí Văn Học, v.v., trong bài “Sáng tác về đề tài lịch sử” đă ghi nhận có một phong trào viết tiểu thuyết lịch sử và ông giải thích : “…Điều này có lư do bởi sự cộng hưởng cảm hứng của dân tộc chiến thắng vừa trăi qua mấy cuộc chiến tranh lớn; bởi tâm lư tự cường mong muốn khẳng định bản lĩnh văn hóa dân tộc trong bước chuyển gia tốc giao lưu và hội nhập quốc tế; hơn nữa được kích thích bởi những định hướng lớn của Đảng và Nhà Nước trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc truyền thống dân tộc khiến cho tâm thế sáng tác ‘hướng về cội nguồn’ ở các nhà văn càng có dịp nảy nở và phát triển…”. Ông kêu gọi nên có một hội đồng văn học “quan tâm đến mảng sáng tác về đề tài lịch sử nói chung” và cuối bài đề nghị “nới rộng quan niệm “đề tài lịch sử”, việc nh́n nhận đề tài chiến tranh cách mạng trong “thời gian lớn” của lịch sử ngàn năm không chỉ tạo cho chúng ta tầm nh́n biện chứng, toàn cảnh về đề tài lịch sử nói chung mà cũng chính là sự đúc kết kinh nghiệm – một cách chuẩn bị có tính chiến lược tốt nhất cho bộ phận sáng tác về đề tài lịch sử dân tộc trong những thập kỷ tới” (5).

V́ những lư do trên mà bên cạnh các hiện tượng sách dịch, học-làm-người, tiểu thuyết ái t́nh “rẻ tiền”, tiểu thuyết lịch sử đang tràn ngập thị trường trong nước. Riêng đầu năm 2000 đă có nào là Câu Sấm Về Ngàn Lau Tím của Ngô Văn Phú, nào Bóng Nước Hồ Gươm của Chu Thiên và bộ Hoàng-Lê Nhất Thống Chí tái bản. Năm 1999 đă có Quận He Khởi Nghĩa của Hà Ân, Lê Văn Duyệt – Từ Nấm Mồ Oan Khuất Đến Lăng Ông, Phan Thanh Giản, Nỗi Đau Trăm Năm của Hoàng Lại Giang, Ngôi Đ́nh Bản Chang của Đích Ngọc Lân, Ngô Quyền của Nguyễn Anh, Nữ Tướng Tây Sơn của Quỳnh Cư, Mười Hai Sứ Quân của Vũ Ngọc Đỉnh gồm 8 cuốn; Huyền Trân Công Chúa và Vương Triều Sụp Đổ đều của Hoàng Quốc Hải được tái bản lần 2 và 3. Gần toàn bộ tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật cũng được in lại cuối năm 1998. Nh́n chung, các tiểu thuyết lịch sử này cho thấy có một nhu cầu nh́n lại quá khứ, học hỏi, xem lại chân dung những nhân vật lịch sử, sau một thời gian dài ca một điệu, văn một bản. Hiện tượng tiểu thuyết lịch sử về một phương diện nào đó cũng giống như hiện tượng giành “chính nghĩa” và theo thiển ư chuyện đại hội nhà văn tháng 4 năm 2000 cũng chỉ là theo thời để làm chủ chuyện làm vậy thôi! Trong đường hướng th́ người đọc sẽ chỉ “nh́n thấy” lịch sử đă phải-là, như trước đó người quản lư xuất bản cũng đă “thấy” hợp chỉ đạo, không có vấn đề! “Sự cố” Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn phiền hà phải chăng v́ liên hệ đến lịch sử gần, nhân chứng hăy c̣n tại thế, “triều đại” vẫn chưa … đổi! Con người Việt Nam bén nhậy chuyện gần, thành ra thường thoải mái nói chuyện xa, đua nhau viết về thời Trịnh Nguyễn, Nguyễn Huệ, Gia Long, Mạc Đăng Dung, Thị Lộ, v.v. Đỡ hậu hoạn! Như thế phải chăng hiện tượng tiểu thuyết lịch sử như hiện nay nhằm đáp ứng một nhu cầu thực sự của người Việt đă và đang mất hết mọi gốc rễ, tin tưởng, văn hóa, mất hết mọi huyền thoại,… nên mơ ước “thoái nhập” trong một quá khứ chung?


(c̣n tiếp)
florida80_is_offline   Reply With Quote
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	lich.png
Views:	0
Size:	125.4 KB
ID:	1390610  
Quay về trang chủ Lên đầu Xuống dưới Lên 3000px Xuống 3000px