R11 Độc Cô Cầu Bại
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,165 Times in 13,136 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 162
|
PHẠM PHÚ MINH
Châu
Sách-Báo-CD-DVD
Giá Trị Cuộc Sống
Chuyện Lạ 4 Phương
Ái Cầm - Thái Tú Hạp
Đài Tưởng Niệm
Thuyền Nhân
Việt Nam
Tiếp Theo...
* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI
* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐĂ BỎ M̀NH TRÊN ĐƯỜNG T̀M TỰ DO
* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)
* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)
* BIỂN ĐÔNG LỤC B̀NH TRÔI
* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO
* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)
* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065
* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER
* CHUYỆN KỂ HÀNH TR̀NH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)
* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)
* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)
* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HĂI HÙNG
* CON ĐƯỜNG T̀M TỰ DO (Trần Văn Khanh)
* C̉N NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)
* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC
* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)
* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)
* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN
* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)
* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)
* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ
* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)
* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN
* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI T̀M TỰ DO (Lê Đinh Hùng)
* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT
*"HÀNH TR̀NH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI T̀M"
*HÀNH TR̀NH GIAN NAN T̀M TỰ DO
* HÀNH TR̀NH T̀M CON NƠI BIỂN ĐÔNG
* H̀NH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009
* H̉N ĐẢO BỊ LĂNG QUÊN (Meng Yew Choong)
* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”
* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI
* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)
* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI
* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM
* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK
* L̉NG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)
* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)
* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY
* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)
* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐĂ TRỞ T
PHẠM PHÚ MINH
Khuynh hướng tự nhiên của những kẻ gây tội ác là cố gắng xóa đi những dấu vết tội ác do ḿnh gây ra. Những kẻ cướp của giết người che giấu tội lỗi của ḿnh để tránh bị bắt bớ trừng phạt đă đành, những chế độ chính trị ác nghiệt cũng hay có khuynh hướng bôi xóa, thủ tiêu, che đậy những điều thất đức ḿnh đă làm. Đức quốc xă trong những ngày sắp bại trận đă ra sức tiêu hủy những hồ sơ liên quan đến các ḷ sát sinh giết người Do Thái; chế độ Stalin giết mấy ngàn sĩ quan Ba Lan trong ṿng bí mật tại rừng Katyn, qua bao nhiêu đời lănh tụ cộng sản vẫn giấu nhẹm đổ tội cho Đức quốc xă, cho đến bây giờ dù nước Nga đă nhận tội, hồ sơ tội ác đó vẫn chưa được công bố; đối với những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam trong thập niên 1950, Cộng Sản Việt Nam cũng ra lệnh xóa tan không c̣n dấu vết bằng cách không cho thân nhân dựng bia cho người đă chết; tập thể những trí thức thuộc Đệ tứ Quốc tế bị chế độ Hồ Chí Minh giết khoảng 1945, 46 tại miền Nam th́ cho đến gần đây các đao phủ vẫn c̣n sống cả, thế mà vẫn cứ chối quanh, người nọ chỉ người kia; vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế sờ sờ ra như thế, mà người cộng sản Việt Nam cũng không hề một lần mở miệng nhận việc ḿnh làm. Hiện tượng giấu nhẹm ấy cho thấy một điều: những kẻ gây tội ác biết đó là tội ác, và do một nỗi sợ, hoặc do một bản chất gian dối, không muốn cho người khác, đời nay hoặc đời sau, biết là ḿnh đă làm việc đó. Họ luôn luôn đóng vai đạo đức giả, nghĩa là bản chất th́ cực kỳ gian ác, mà bề ngoài th́ làm ra vẻ ḿnh là kẻ rất đạo đức.
Riêng những thảm cảnh người vượt biên gặp phải trên biển cả, trên đất liền từ năm 1975 đến đầu thập niên 1990, người cộng sản có thể coi là ḿnh vô can. Họ làm họ chịu, chúng tôi nào có mắc mớ ǵ? Chúng tôi chỉ lo xây dựng một Việt Nam Xă Hội Chủ Nghĩa, mấy người bỏ trốn đi là đă can tội phản quốc ("Yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội" - Lê Duẩn), vậy có bị cái ǵ th́ ráng mà chịu, chúng tôi không cần biết. Cùng những loạt đạn bắn theo ghe thuyền vượt biên, những lời chuỗi rủa xấu xa ném theo những người ra đi th́ nhiều vô số kể, đó là những lời xấu nhất mà mộtchế độ, một nhóm người có thể dùng để gửi đến những người công dân, người đồng bào tội nghiệp của ḿnh khi họ không c̣n con đường sống hợp với nhân phẩm, phải ra đi để t́m sự sống trong cái chết.
Nhưng nhờ ơn tổ tiên pḥ hộ, nhờ cánh tay đưa ra của phần nhân loại không theo chủ nghĩa cộng sản, mấy triệu người Việt Nam trong khoảng 15 năm, đă t́m được đất sống, sau khi khoảng nửa triệu đă vùi thây dưới biển cả, trong rừng sâu. Người ra đi lặng lẽ chịu đựng những thảm cảnh của chính ḿnh và thân nhân, lặng lẽ lo gầy dựng cuộc sống mới trong tự do mà ḿnh đă t́m được cũng nhờ cuộc sống tự do ấy, người Việt Nam tị nạn cộng sản vun bồi được dời sống tinh thần và đạo đức, không quên ơn ông bà tổ tiên, không quên thân nhân và đồng bào ruột thịt c̣n sống ở quê nhà, và nhất là không quên cái ơn lớn lao mà dân và chính phủ các nước đă cưa mang, giúp đỡ ḿnh trong cuộc đi t́m tự do thập tử nhất sinh diễn ra cách đây mấy mươi năm. Chính trong tinh thần ấy mà vào đầu năm nay, nhiều phái đoàn người Việt Nam tị nạn cộng sản từ khắp thế giới đă mở những cuộc "hành hương" về những bến bờ đă đón tiếp ḿnh từ tay biển cả trong các cuộc vượt biên xưa. Và như một cử chỉ cụ thể để tỏ ḷng biết ơn các quốc gia đă cứa vớt ḿnh, người Việt tị nạn cộng sản đă xin phép chính quyền sở tại đặt những tấm bia kỷ niệm tại nơi ngày xưa đă là trại tạm trú đầu tiên của những người đặt chân lên được đất sống. Với tấm ḷng có trước có sau, người tị nạn chỉ ghi lại những lời tri ân hay lời tưởng niệm, là những thứ người ta nghĩ là có thể tồn tại với thời gian v́ ư nghĩa nhân bản phi chính trị nhất thời của nó. Chẳng hạn lời dịch sau đây từ tấm bia viết bằng tiếng Anh, dựng trên đảo Bidong thuộc tỉnh Terengganu thuộc nước Mă Lai Á vào tháng Ba 2005:
"Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt đă thiệt mạng trên đường t́m tự do (1975-1996). Dù họ đă chết v́ đói, khát, bị hăm hiếp, bị kiệt sức hoặc v́ một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên b́nh vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lăng. Các cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005."
Và những ḍng chữ mặt bia bên kia:
"Đễ nhớ ơn những nỗ lực của Phủ Cao Ủy tị nan Liên Hiệp Quốc, Hồng Thập Tự Quốc Tế và Hội Lưỡi Liềm Đỏ Malaysia và các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, chính phủ và nhân dân Malaysia cùng các quốc gia đă cung cấp nơi tạm trú đầu tiên cũng như nơi tái định cư. Chúng tôi cũng xin bày tỏ tri ân đến hàng ngh́n cá nhân khác từng làm việc hết ḿnh để giúp đỡ người tị nạn Việt Mam.
Các Cộng Đồng người Việt Hải Ngoại”
Một tấm bia tưởng niệm những người đă chết thảm trên đường đi t́m tự do và tri ân sự giúp đỡ cho những người sống sót: chừng đó đă đủ để chính quyền cộng sản Việt Nam vận dụng các thủ thuật ngoại giao để xóa bỏ nó đi. Họ đă vận động với chính phủ Mă Lai Á để phá bỏ tấm bia trên đảo Bidong, với chính phủ Indonesia để phá bỏ tấm bia tương tự trên đảo Galang. Với lợi ích ngoại giao trước mắt th́ các chính phủ liên hệ thấy không có vấn đề lớn lao ǵ để không thỏa măn các đ̣i hỏi xem ra không quan trọng ǵ mấy đối với họ. Và thế là các tấm bia chứa đựng biết bao tâm t́nh, biết bao tấm ḷng thành kính và thương yêu trước hương hồn của những người đồng bào kém may mắn đă bỏ thây trong biển cả, đă hoặc sắp bị triệt hạ. Chỉ v́ Hà Nội muốn như thế.
Hà Nội nhằm cái ǵ trong sự vận động này ? Muốn giữ một "lư lịch sạch sẽ" trong lịch sử ? Muốn giữ một "bộ mặt sạch sẽ" trước thế giới ? Muốn không ai được hiểu rằng sở dĩ người Việt Nam phải bỏ nước ra đi là do chính sách tịch thu tài sản ruộng vườn, “đánh tư sản” một cách triệt để, do chính sách kỳ thị một cách khốc liệt không cho con cái của quân nhân công chức Nam được ăn học trong chế độ mới của họ, do giam hăm tù đày hàng triệu người, do tước đoạt hết quyền tự do và quyền làm ăn sinh sống của cả một xă xă hội miền Nam để lùa mọi người vào cái trại lính mà họ gọi là xă hội chủ nghĩa?... Mấy triệu người vượt biên t́m tự do chính là lời tố cáo tội ác của họ, nhưng họ vẫn muốn trốn tránh những vết tích cụ thể trong ṿng Đông Nam Á chứng tỏ là đă có thảm cảnh của người Việt Nam trong sóng nước đại dương thuộc vùng này. Khi vận động phá bỏ những tấm bia kỷ niệm ấy, họ có biết rằng họ đang xúc phạm đến những người đồng bào đă chết hay không? Họ đang dùng cái thứ đạo lư ǵ vậy?
Thực ra, đối với người cộng sản, dùng chữ “đạo Lư” th́ hơi quá đáng, v́ đó là thứ họ không có, không cần có. Với họ, chỉ có thủ đoạn và mánh khóe, cái thứ thủ đoạn của Stalin với dân Ba Lan, của Hồ Chí Minh đối với nhóm Đệ tứ và với những người bị đảng cộng sản quy cho cái tội địa chủ ác ôn, của cách đối xử cực kỳ ác độc đối với đồng bào miền Nam sau 1975... và bây giờ, hành động mới nhất, vào tháng Năm, tháng Sáu năm 2005, là vận động xóa bỏ dấu vết các bia tưởng niệm người chết trên đường trốn chạy tại các nước Đông Nam Á.
Năm ngoái, đảng cộng sản Việt Nam ra nghị quyết 36, kêu gọi người Việt tị nạn ở nước ngoài quên đi quá khứ, cùng hợp tác với họ để xây dựng đất nước. Nhiều người đă nh́n thấy đây như là một cử chỉ ḥa giải, kêu gọi cùng thông cảm những lỗi lầm trong quá khứ của nhau và bỏ qua hết, để cùng nhắm về một mục tiêu tốt đẹp làm cho đất nước giàu mạnh và hạnh phúc. Sau hơn nửa thế kỷ thù hận, người Việt Nam nào mà chẳng mong ước điều ấy? Người Việt ở nước ngoài đă chẳng tích cực gửi tiền bạc về giúp đỡ đồng bào trong nước đó sao? Và thiếu ǵ người chỉ v́ thiện chí xây dựng đă đầu tư tài sản và trí tuệ để xây dựng công cuộc làm ăn tại Việt Nam (dù rốt cuộc nhận lănh những hậu quả vô cùng đau đớn: tài sản mất hết, thân bị tù tội chỉ v́ sự tham lam và xảo trá của chính quyền trong nước, ai mà chẳng thấy nhan nhản những trường hợp ấy?) Nhưng nếu tưởng nghị quyết 36 bày tỏ sự thực tâm của những người cộng sản là lầm. Nghị quyết ấy chỉ là một mệnh lệnh theo thói quen cai trị bằng mệnh lệnh của chế độ ấy, chứ bản chất tấm ḷng của người cộng sản với đám người Việt hải ngoại th́ vẫn không có ǵ thay đổi: nghi kỵ, hiềm thù, đố kỵ, họ chỉ muốn người Việt ở nước ngoài đóng góp tiền bạc và trí tuệ cho họ, c̣n ngoài ra không bao giờ coi tập thể người này là những người đồng bào với những tâm t́nh chung, ước nguyện chung có quyền nói chuyện ngang vai vế với họ về những vấn đề của đất nước. Họ đă biết v́ sao mà có tập thể người tị nạn Việt Nam trên khắp thế giới ngày nay chứ? Họ thừa biết bằng cách nào đám người đó hiện diện ở nước ngoài chứ? Họ dư biết những nỗi đau thương mà người đi t́m tự do phải chịu chứ? Họ biết rất rơ hằng trăm ngàn đồng bào đă bỏ ḿnh ngoài biển chứ? Thế mà họ không xem tâm t́nh của người tị nạn ra cái ǵ cả, một tấm bia tưởng niệm người đă chết họ cũng không tha! T́nh nghĩa đồng bào với nhau ở đâu? Đối với họ t́nh nghĩa đó chỉ được hiểu bằng một động tác: đóng góp đô la cho họ. Họ kêu gọi người tị nạn quên quá khứ, nhưng c̣n họ? Cái quá khứ rất gần, họ đă hành hạ dân chúng ra sao sau ngày 30.4.1975 họ có quên đâu? Họ biết rơ nửa triệu người bỏ ḿnh trên biển là do chính họ gây ra, nhưng họ không bao giờ có một cách cư xử hợp đạo lư, chỉ muốn khỏa lấp mọi chuyện bằng cách kêu gọi "quên đi" trong khi cái nguyên nhân gây ra thảm cảnh th́ họ vẫn c̣n giữ nguyên: một chế độ toàn trị bằng bạo lực và sự xảo trá. Họ vừa mang một ḷng kiêu hănh thô lỗ rằng chính họ mới là chủ nhân ông của đất nước, vừa mang một mặc cảm tội lỗi, lúc nào cũng muốn che đậy tội ác của ḿnh, lúc nào cũng mong xóa di dấu vết tội ác ấy khi họ kêu gọi người tị nạn hăy quên quá khứ đi, họ muốn người tị nạn quên những tội ác của họ đă làm khiến đồng bào phải chạy trốn, nhưng về phần họ th́ họ vẫn nhớ rất rơ, và làm bất cứ động tác nào để tẩy xóa, che đậy tội ác của chính họ, dù động tác ấy xúc phạm một cách thô bạo đến tâm t́nh của người Việt ở nước ngoài.
Đến thời điểm này, tại sao không dối xử với nhau một cách tử tế? Tôi nghĩ nếu chính quyền cộng sản Việt Nam c̣n có t́nh đồng bào và biết tôn trọng nỗi đau thương của người tị nạn th́ nên giúp trùng tu các khu tưởng niệm, thậm chí cử một phái đoàn đến thấp một nén nhang trước các tấm bia như là một cử chỉ thiện chí, th́ hiệu quả của công việc ấy sẽ gấp trăm gấp ngàn lần cái nghị quyết 36 hách dịch và vô hồn kia. Nước Đức, sau khi chế độ quốc xă sụp đổ, vẫn giữ lại một vài dấu vết các ḷ thiêu người mà nước này đă dùng để giết người Do Thái như một bài học ô nhục mà một chế độ chính trị của dân tộc Đức đă làm. Họ có can đảm giữ lại để làm tấm gương cho hậu thế. Sự kiện ba triệu người Việt Nam đi ra sông trên khấp thế giới và nửa triệu vùi thây trong ḷng đại dương là sự kiện có một không hai trong lịch sử nước ta, không khác ǵ việc sáu triệu người Do Thái bị giết trong ḷ thiêu của Đức Quốc xă. Biến cố người Việt ra đi sinh sống khắp nơi trên thế giới trong the kỷ 20 có một ư nghĩa vĩ đại về mặt lịch sử, sau những thế kỷ Nam tiến để tạo thành nước Việt Nam ngày nay. Chính quyền cộng sản đă không làm ǵ để đánh dấu biến cố đó ngoài việc kêu gọi người ta hăy quên nó đi, đó là về phần của họ. Về phần người đi tị nạn và cả thế giới văn minh nữa, phải ghi lại trang sử ấy, họ đă làm nhiều cách, các thế hệ loài người mai sau sẽ biết rơ sự kiện đó trong không biết bao nhiêu tài liệu nằm trên những tượng đài, những kệ sách trong thư viện, và nhất là nằm trong ḷng con cháu của lớp người ra đi ấy, trong hay ngoài nước Việt Nam. Xóa làm sao được. Cái ác làm sao thắng được lẽ thiện ở đời. Những tấm bia hiền lành thấm đẫm t́nh người của người tị nạn dựng ở Bidong, Galang đă bị những kẻ thiếu nhân tính âm mưuphá hủy đi. Nhưng họ nên nhớ rằng t́nh người mới là cái bất diệt, c̣n sự gian trá, xảo quyệt chẳng qua chỉ là những màn che đậy nhất thời, mà trong thế giới ngày nay, càng che đậy càng lộ ra cái tâm lư ti tiện và sự tội nghiệp của con thú cộng sản cuống quít trong bước đường bạo lực cuối cùng của nó.
Và người cong sản hăy đừng bao giờ quên bước đi của những người đi t́m tự do sau 1975 chính là một tiên tri và là bước hướng dẫn cuộc đổi mới của chính quyền cộng sản Việt Nam từ giữa thập niên 1980. Cuộc trốn đi của người đi t́m tự do, sự bỏ ḿnh lớn lao của họ trên biển cả như có một lời nhắn để lại sau lưng: hăy đi theo bước của chúng tôi, Việt Nam sẽ không c̣n con đường nào khác ngoài con đường đến với thế giới văn minh. Chính quyền cộng sản đă đi theo đúng lời nhắn bảo thiêng liêng ấy, đi theo đúng bước chân ấy, và quả nhiên đă t́m thấy con đường sông. Thế th́ thay v́ vội khoe khoang v́ một ít bề ngoài hào nhoáng do những công ty các nước tư bản mang lại, hăy khiêm tốn lắng nghe lời của những - oan hồn trên biển, rằng Tự Do mới là ch́a khóa then chốt để mở cánh cửa Hạnh Phúc và Thịnh Vượng cho dân tộc chúng ta. Chính v́ Tự Do mà nửa triệu người đă bỏ ḿnh, lời nguyền đó sẽ linh thiêng và ứng nghiệm lắm!
Sao lại thô bao với nhau, nhất là với những người đă chết? Chính cái chết của họ đă đóng góp tích cực cho một ư hướng tinh thần chúng ta cần đi theo. Ngay cả những người lính Việt Nam Cộng Ḥa và Mỹ đă chết trên chiến trường Việt Nam từ bốn mươi năm trước, cũng đă đóng góp phần rất quyết định cho Việt Nam ngày nay. Một con cá quẫy đuôi bên này đại dương c̣n gây ảnh hưởng đến bên kia đại dương, huống chi một cuộc chiến lớn như thế họ lại không bằng cách này hay cách khác, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản trên thế giới? Và thử tưởng tượng, nếu chủ nghĩa cộng sản không sụp đổ ngay nơi thành tŕ của nó là liên xô và các nước Đông Âu, th́ liệu Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc... và nhất là Việt Nam, có được như ngày nay? Hay là vẫn ́ ạch với tem phiếu, với khẩu hiệu, với hộ khẩu với phân phối xếp hàng cả ngày, với các kế hoạch năm năm kế tiếp nhau mà vẫn dẫm chân hoài một chỗ?... Những lănh tụ cộng sản Việt Nam bây giờ là triệu phú đô la hăy nhớ ơn các chiến sĩ chông cộng đă bỏ ḿnh trên chiến trường Việt Nam thuở xưa, những thuyền nhân xấu số đă bỏ ḿnh trên đường đi t́m tự do, v́ chính những chiến đấu cho tự do đó đă làm thay đổi bộ mặt thế giới và giúp cho các “đổi mới” ở Việt Nam ngày nay được phần nào thành tựa. Suy nghĩ như thế không có ǵ là ngược đời đâu, đó là kết quả hiển nhiên có tính cách nhân quả của cuộc diện thế giới, khu vực và từng nước.
Trong sự ràng buộc nhân quả chằng chịt ấy mà chính quyền Việt Nam vẫn cứ khư khư chỉ biết có đảng của ḿnh, và có thái độ cực kỳ chật hẹp đối với bao nhân tố khác đă xây dưng nên bộ mặt thế giới ngày hôm nay th́ quả là đáng tiếc. Hăy tôn trọng những người đă chết, nhất là những cái chết ấy đă gây một cảm hứng vô song trong công cuộc xây dựng cho con người c̣n lại trên thế giới này, là ư thức Tự Do. Không có tự do sẽ không có thịnh vượng và hạnh phúc, đó là điều chắc chắn. Hăy đi qua Bidong, Galang, đến những tượng đài tưởng niệm thuyền nhân đă bỏ ḿnh, thành tâm thắp hương tưởng niệm linh hồn của họ, đó là hành vi duy nhất ḥa giải với quá khứ và hiện tại, và mở được cửa đến một tương lai sáng sủa.
|