Bí ẩn của sự Giác Ngộ
Đây là một phần bản dich quyển The Mystique of Enlightenment của UG Krishnamurti, được thu thập và ghi lại bởi Rodney Arms (
www.ugkrishnamurti), trong quyển sách này có những đoạn UG Krishnamurti tường thuật lại kinh nghiệm diễn biến tâm linh chứng ngộ kéo dài một thời gian 7 ngày của ông, mà ông goi đó là một vụ "bùng nổ" bên trong . Nhận thấy, kinh nghiệm chứng ngộ 7 ngày mà ông đă trải qua và kể lại là những thông tin bổ ích để tham khảo, xin chia sẻ với các bạn.Thông tin thêm Ông này là UG Krishnamurti khác với ông Jiddu Krishnamuri là ông thầy nỗi tiếng có rất nhiều sách nhiều người đă biết.
I. Sơ Lược tiểu sử U.G. Krishnamurti. Tên đầy đủ của UG là Uppalori Gopala Krishnamurti. Bạn bè và những người ngưỡng mộ ông thường gọi ông một cách thân thương là UG. Ông sanh ngày 9 tháng 7 năm 1918 trong một gia đ́nh ḍng dơi Bà la môn ở Masulipatam, một thị xă miền ven biển thuộc tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ. Khi UG chỉ vừa chào đời được 7 ngày th́ mẹ của UG qua đời, và UG được nuôi dưỡng, dạy dỗ bởi ông ngoại. Ngoại của UG là một luật sư danh tiếng, giàu có, và là một thành viên nổi bật của hội Thông Thiên Học. UG trưởng thành trong môi trường đặc thù của Thông Thiên Học và lại có tín ngưỡng, thực hành theo Ấn độ giáo chính thống. Thậm chí khi c̣n là một cậu bé, UG là một kẻ hay nổi loạn, chống đối, lỗ măng nhưng thật thà đối với những ǵ anh ta đă làm.
UG hoàn tất tiểu học và trung học ở thị xă Gudivada và sau đó lấy bằng cử nhân danh dự về Tâm lư và Triết học tại Đại Học Madras. Nhưng, sự học hỏi nghiên cứu về các hệ thống triết lư đa dạng và tâm lư học tây phương chỉ gây chút ít ấn tượng đối với UG. “Cái tâm thức mà mấy cha nội này đang lư giải th́ nó nằm ở đâu vậy?”, có một lần UG đă hỏi vị giáo sư Tâm Lư học của ḿnh như thế. Có điều ǵ đó lạ thường nơi một sinh viên chỉ vừa mới 20 tuổi đầu, đặc biệt là học thuyết của Freud đă được xem như là thành tựu mới nhất nói về tâm thức nhân loại vào thời đó.
Khoảng thời gian từ 14 tuổi đến 21 tuổi, UG thỉnh thoảng đến học và thực hành thiền định và yoga với Swami Sivananda ở Rishikesh. UG có nhiều thể nghiệm và linh ảnh kỳ diệu khi tu tập ở đó, tuy nhiên UG đă đặt nghi vấn về tính chất thực hư của những kinh nghiệm tâm linh này, v́ UG nghĩ rằng anh có thể nhận thức ra được chúng chính là nền tảng kiến thức hiểu biết mà UG đă có trước đó rồi.
Năm 1939, khi được 21 tuổi, UG đến gặp gỡ vị đạo sư Sri Ramana Maharshi và hỏi ông, “ông có thể trao cho cho tôi cái gọi là “giải thoát” không?” Ramana đáp, “tôi có thể trao cho anh cái-đó, nhưng anh có khả năng nắm bắt cái-đó được không?” Câu trả lời của Ramana gây chấn động UG như “tiếng sét” và khiến cho UG quyết định bắt đầu cuộc hành tŕnh t́m kiếm chân lư không mệt mỏi, không nản ḷng, và cuối cùng không ngờ UG đă đạt được quả vị chứng ngộ giải thoát hoàn toàn vào năm UG 49 tuổi (năm 1967).Sau khi rời đại học, UG gia nhập hội Thông Thiên Học với vai tṛ diễn giả và ông đi ṿng quanh Ấn độ để thuyết giảng về Huyền bí học. Ngay cả sau khi lập gia đ́nh với bà Kusuma Kumari vào năm 1943, ông vẩn c̣n tiếp tục làm việc cho hội Thông Thiên Học và đă có nhiều buổi thuyết giảng ở các quốc gia Châu Âu. Măi đến năm 1953 ông nhận thức ra được rằng những chuyện ông đang làm là sai lầm đối với việc t́m kiếm chân ngă, nên ông đă phẫn nộ rời bỏ chức vụ. Sau đó ông gặp Jiddu Krishnamuri, là bậc đạo sư tâm linh khét tiếng về việc truyền bá tư tưởng phủ nhận mọi truyền thống giáo điều, tôn sùng thần tượng, và tập tục quy ước xă hội vào lúc bấy giờ. Trong ṿng 2 năm, UG thường hay có những cuộc hội thoại với J. Krishnamurti, và hai người đă có nhiều cuộc tranh luận dữ dội về những vấn đề tâm linh. Sau cùng UG đă từ chối đường lối của J. Krishnamurti, và gọi đó là “một chuyến hải tŕnh hư ảo..”
Trong suốt khoảng thời gian này, UG cũng có trải qua một thể nghiệm biến đổi thân tâm thần kỳ, mà ông gọi đó là “kinh nghiệm về Cái Chết”. Nhưng ông xem nhẹ kinh nghiệm đó và “quét sạch nó sang một bên”, và tiếp tục thăm ḍ, tra xét, kiểm nghiệm, hoài nghi mỗi một kinh nghiệm tâm linh cho đến khi nào ông đạt được giác ngộ thực sự.
Thời gian trước năm 1967 ( năm ông đạt được giác ngộ giải thoát) ông có rất nhiều kinh nghiệm tâm linh, ông có năng lực có thể nh́n thấy tiền kiếp, hiện tại và tương lai của người khác. Ông nói: “Cái khoảnh khắc mà tôi gặp một người, tôi có thể thấy được toàn bộ quá khứ, hiện tại, và vị lai của người đó. Nhưng tôi không sử dụng năng lực này. Tôi tự hỏi, ‘tại sao tôi lại có năng lực này?’. Thỉnh thoảng tôi nói những điều nào đó, và chúng xảy ra đúng như vậy. Tôi vẫn chưa thể thể hiểu rơ và nghĩ ra được căn nguyên hoạt động của năng lực đó? Tôi cũng không có hứng thú với nó. Làm thế nào mà tôi nói điều ǵ đó, và nó luôn xảy ra y như vậy? Tuy nhiên, nó đă mang lại vài hậu quả không vui ḷng, và gây nên sự buồn phiền cho một ít người.”
Năm 1955, UG đưa gia đ́nh sang Hoa Kỳ để chữa bệnh cho con trai của ông. Khi nguồn tài chánh của ông cạn kiệt, ông để gia đ́nh vợ con trở về Ấn Độ, c̣n ông th́ ở lại tiếp tục hành tŕnh tâm linh. Không tiền không bạc, ông sống lang thang, trôi nổi từ nơi này đến nơi khác, London, Paris... Sau cùng t́nh cờ ông quen biết với cô Valentine de Kerven, và tạm trú thân ở nhà cô Valentine ở Saanen, Thụy Sĩ. Vào khoảng thời gian trú ngụ tại nhà cô Valentine, những kinh nghiệm tâm linh lạ thường đă xảy đến cho ông, nó là sự khai mào cho “cái chết – thoát thai hoán cốt” vào ngày sinh nhật ông đúng 49 tuổi (1967), và là sự bắt đầu khó thể tin được về những thể nghiệm thay đổi chuyển hóa bên trong cơ thể ông đă khiến ông “nhảy một bước vào cái Tâm Thái (mảnh đất Như Lai – nói theo thiền tông), cái Tâm Thái mà cho đến nay vẫn c̣n khó hiểu trong khuôn khổ hiểu biết về truyền thống huyền bí và khai ngộ của chúng ta. Liên tục trong 7 ngày, sau bảy lần thay đổi xảy ra, ông đạt được trạng thái mà ông gọi là “Tánh Tự Nhiên” (Natural State). Nó là một sự biến đổi tế bào trong cơ thể, một con người được chuyển hóa, tái sinh, mới mẻ toàn diện.
UG rời khỏi thế giới này vào lúc 2:30 PM, ngày 22 tháng 3 năm 2007 tại Vallecrosia, nước Ư. Ông hưởng thọ 88 tuổi. Bạn bè và nhiều người ngưỡng mộ ông khắp nơi trên thế giới đă gởi lời bày tỏ thương tiếc sự ra đi của ông.II. Cơ duyên đưa UG đến giác ngộ rốt ráo (July 1967): Lời kể lại của U.G. Krishnamurti khi ông trú ngụ tại nhà cô Valentine.
Suốt trong khoảng thời gian đó (tôi gọi nó là thời kỳ thai nghén), đủ mọi thứ loại thể nghiệm tâm linh xảy đến bên trong cơ thể tôi – nhức đầu, những cơn đau đầu liên tục không ngừng nghỉ, những cơn đau khủng khiếp bên trong năo bộ. Tôi đă nuốt hàng ngàn viên thuốc Aspirin, nhưng thuốc men không giúp ích cho tôi bớt đau chút nào cả. Đó không phải là chứng “đau nhức nửa đầu” (migraine) hoặc những triệu chứng đau đầu mà y học đă biết, nhưng là những cơn nhức đầu như búa bổ. Trong thời gian bị cơn đau đầu hành hạ, ngày nào tôi cũng đều uống nhiều viên Aspirin và từ 15 cho đến 20 tách cà phê để mong giảm bớt cơn đau phần nào! Có một ngày Valentine than phiền “Anh làm cái ǵ vậy! Ngày nào anh cũng uống tới 15 tách cà phê. Anh có biết nó cũng là tiền bạc không? Từ 300 cho đến 400 francs mỗi tháng đó.” Dù thế nào đi nữa, nó cũng là một điều dễ sợ cho tôi.
Có nhiều chuyện buồn cười xảy đến cho tôi. Tôi c̣n nhớ là khi tôi chà sát trên thân thể tôi, th́ có đốm sáng lóe lên giống như chất lân tinh phát sáng lên vậy. Valentine đă từng có lần chạy ra khỏi pḥng ngủ của cô để xem xét – v́ cô cứ nghĩ là có chiếc xe nào đó chạy đến con đường trước nhà vào giữa đêm. Hể mỗi lần tổi trở ḿnh lăn trên gường th́ có ánh sáng lấp lánh phát ra, (UG cười ) thật ngộ nghĩnh – “Cái ǵ đây vậy?” Nó là điện – đó là tại sao tôi lại bảo nó là từ trường điện. Tôi cứ tưởng nguyên nhân do bởi chất ni-lon của áo quần tôi mặc có tích chứa tĩnh điện gây ra, rồi tôi tạm dừng sử dụng đồ vật có chất ni-lon. Tôi là người thuộc chủ nghĩa hoài nghi cực đoan, “từ đầu tới chân”, tôi không bao giờ tin tưởng bất cứ điều ǵ cả; thậm chí nếu tôi thấy phép lạ xảy xảy ra trước mặt tôi, tôi cũng không vội chấp nhận – chẳng hạn như sự cấu tạo, bản chất của tôi đây. Sự kiện trên hoặc điều nào tương tự như thế chưa bao giờ được tạo ra và xảy đến cho tôi trước đây...
Những sự thể rất lạ lùng xảy đến với tôi, nhưng tôi chưa bao giờ cho là chúng có liên quan đến những điều gọi là tự-do tự-tại hoặc giải thoát, bởi v́ vào thời gian đó toàn thể mọi sự biến mất khỏi cơ thể tôi. Tôi đă vươn tới cái điểm mà tôi tự nhủ “Tất cả các bậc minh sư và cứu thế đều là vớ vẩn – v́ vậy tôi không c̣n thích thú điều ǵ tương tự như vậy nữa,” v́ thế nó biến mất khỏi bản thân tôi hoàn toàn. Những điều kỳ dị khác thường vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng tôi không bao tự nhủ là “Ô, (UG cười ) tôi đang đi đến nơi ĐÓ, tôi gần tới Đó.” Cái ĐÓ không có xa hay gần, cũng không có cận kề hay sát bên chỗ Đó. Không có ai tiến gần tới nơi Đó được, bởi v́ anh ta chuẩn bị, nên anh ta khác biệt với Nó. Không thể có sự sẵn sàng để đạt được cái Đó. Nó chỉ hích trúng vào bạn, giáng mạnh vào bạn như là sức nặng một tấn gạch vậy.Vào tháng 4 năm 1967, tôi t́nh cờ đến Paris trong khi Jiddu Krishnamurti cũng ngẫu nhiên có mặt ở đó. Một vài người bạn của tôi gợi ư “Tại sao tôi không đi lắng nghe bạn cũ (J.K) của tôi giảng thuyết? Anh ta có một buổi hội thảo ở Paris.” Tôi nói, “Được thôi, tôi đă không nghe anh ấy nói chuyện nhiều năm rồi – gần như đă 20 năm – để tôi đến đó nghe thử.”
Khi tôi đến hội trường, họ yêu cầu tôi trả hai đồng francs (tiền Pháp) để vào cửa. Tôi nói “Tôi không bằng ḷng trả hai đồng francs để nghe J. Krishnamutri giảng thuyết. Không, thôi chúng ta hăy đi nơi khác và làm chuyện ǵ vớ vẩn chơi. Hăy đến ṣng bạc xem vũ thoát y. Đi nào, chúng ta chỉ mất hai mươi đồng francs để đến đó.” V́ vậy, chúng tôi đến ṣng bạc “Casino de Paris” xem chương tŕnh khiêu vũ. Tôi có được một kinh nghiệm rất lạ lùng vào thời gian đó: Tôi không biết được rơ tôi chính là người vũ công hay là có một người vũ công nào khác đang khiêu vũ trên sàn nhảy. Một kinh nghiệm rất là kỳ quặc đến với tôi: có một loại chuyển động kỳ dị như thế nào đó bên trong người tôi. (Sự chuyển động kỳ dị này bây giờ đă trở thành quen thuộc tự nhiên đối với tôi rồi.) Không có sự phân cách lúc đó: không có người quan sát đang nh́n ngắm người vũ công. Vấn đề là tôi không biết có phải tôi chính là người vũ công trên sàn nhảy hay là một người vũ công nào khác trên sàn nhảy đă khiến tôi suy nghĩ nhức óc, làm phiền phức tôi lúc đó – sau đó chúng tôi rời khỏi ṣng bạc...
Câu hỏi “Cái trạng thái đó là ǵ?” đă tạo nên một cường độ mănh liệt trong tôi – không phải cường độ về cảm xúc – tôi càng cố gắng t́m câu trả lời cho câu hỏi th́ tôi càng thất bại, và cường độ của câu hỏi lại càng tăng lên mạnh mẽ thêm. Nó cũng giống như là (tôi luôn luôn dùng sự so sánh như vầy) vỏ hạt gạo (trấu): Nếu có một đống trấu bắt lửa, nó tiếp tục cháy ngầm âm ỉ bên trong; bạn không nh́n thấy lửa cháy ra phía ngoài, nhưng khi bạn chạm vào, dĩ nhiên, nó sẽ làm bạn bị phỏng. Giống y cách thức như thế, câu hỏi vẫn cứ tiếp tục diễn tiến: “Cái trạng thái đó là ǵ? Tôi muốn hiểu, đạt được nó. Chỉ thế thôi. J. Krishnamurti có lần nói rằng ‘Không có đường lối hay phương pháp nào để tôi có thể đạt đến được’, nhưng tôi vẫn cứ muốn biết cái trạng thái đó nó như thế nào, cái Tâm Thái mà Phật Thích Ca, Sankara, và các vị đạo sư khác đă hội nhập vào trong nó.”
Sau đó, một giai đoạn khác xảy ra vào tháng 7 năm 1967. Jiddu Krishnamurti lại đến Saneen thuyết giảng. Các bạn của tôi lôi kéo tôi đến đó và nói “buổi nói chuyện của J. Krishnamurti lần này miễn phí, tại sao tôi không đi nghe thử xem sao?” Tôi nói “Cũng được, tôi sẽ đi nghe J.Krishnamurti giảng thuyết.” Khi tôi lắng nghe J. Krishnamurti nói, th́ có cái ǵ đó là lạ, khôi hài xảy đến cho tôi – cái cảm giác kỳ lạ mà J. Krishnamurti đang diễn tả là trạng thái của tôi, chứ không phải của J. Krishnamurti. Tại sao tôi lại muốn biết tâm thái của J. Krishnamurti chứ? Anh ta đang diễn tả một trạng thái ǵ đó, vừa vận hành, vừa tỉnh thức, vừa tịch lặng – “Trong trạng thái tịch lặng đó, không có tâm ư; chỉ có hành-động mà thôi” – tất cả mọi thứ đại loại như vậy. Vậy là “Tôi hiện đang ở trong tâm thái đó. Thật là quái quỉ ǵ đâu, tại sao tôi lại phải tiêu phí hết ba bốn mươi năm để đi nghe những người khác thuyết giảng, và cố gắng cứ muốn đi t́m hiểu cái tâm thái của J. Krishnamurti hay là của một ai khác, như Phật Thích Ca, Chúa Giê-su? Tôi ở trong tâm thái, cảnh giới đó mà. Bây giờ tôi đang an trú trong tâm thái đó.” Thế nên, tôi bước ra khỏi hội trường và không bao giờ trở lại nữa.