View Single Post
Old 10-15-2019   #480
florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
 
florida80's Avatar
 
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Thanks: 7,446
Thanked 47,150 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
Default

Bởi thế, thật lạ lùng khi gần đây vài học giả (như bà Rhys Davids và những người khác)[10] đă cố - một cách vô vọng - xen ư tưởng về ngă vào trong giáo lư Phật, một điều hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Những vị học giả này kính trọng, ngưỡng mộ và sùng thượng đức Phật và giáo lư Ngài. Họ ngưỡng mộ Phật giáo. Nhưng họ không thể tưởng tượng được rằng đức Phật, người họ xem là tư tưởng gia sâu sắc và minh bạch nhất, lại có thể phủ nhận hiện hữu của Àtman, linh hồn hay ngă mà họ rất cần đến. Họ không biết rằng họ đang t́m sự ủng hộ của Phật cho nhu cầu này, nhu cầu một hiện hữu bất diệt - dĩ nhiên không phải trong một cái ngă nhỏ nhen cá biệt với một chữ n thường, mà trong cái Ngă với một chữ N hoa.
.
Tốt hơn, người ta nên nói thật rằng họ tin vào Àtman hay Ngă, hoặc người ta có thể nói ngay rằng Phật hoàn toàn sai lầm khi phủ nhận hiện hữu của một cái Ngă. Nhưng chắc chắn không ai nên đưa vào trong đạo Phật một ư tưởng mà Phật không bao giờ chấp nhận, như chúng ta có thể thấy từ những nguyên bản Pàli c̣n lại.
.
Những tôn giáo tin có Thượng đế và linh hồn không giấu diếm hai khái niệm ấy, trái lại c̣n tuyên bố chúng ra, lặp đi lặp lại nhiều lần bằng những từ ngữ hùng hồn nhất. Nếu quả t́nh Phật cũng chấp nhận hai ư tưởng ấy, hai ư tưởng tối quan trọng trong mọi tôn giáo, th́ chắc chắn Ngài đă công khai tuyên bố chúng như Ngài đă tuyên bố những điều khác, chứ không để cho chúng bị ẩn khuất để chỉ được khám phá ra 25 thế kỷ sau khi Ngài mất.
.
Người ta đâm ra nóng nảy khi nghĩ rằng qua giáo lư Vô ngă của Phật, cái Tôi mà họ tưởng tượng ḿnh có, sẽ bị phá hủy. Đức Phật không phải là không biết đến điều này.
.
Một hôm, một vị Tỳ kheo hỏi Ngài:

"Bạch đức Thế Tôn, có khi nào người ta bị dày ṿ bối rối v́ không t́m thấy được trong ḿnh một cái ǵ trường cửu?"

Đức Phật trả lời:

- Quả có như vậy, này Tỳ kheo. Khi một người có ư nghĩ "Vũ trụ là Àtman, sau khi chết ta sẽ là cái ấy, trường cửu, c̣n măi, kéo dài, bất biến, ta sẽ tồn tại như thế cho đến vô cùng", mà được nghe Như Lai hay một đệ tử của Như Lai giảng lư thuyết đưa đến sự phá hủy hoàn toàn mọi quan điểm tư duy... đưa đến sự dập tắt khát ái, đưa đến giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn; người ấy sẽ nghĩ: "Thế là ta sẽ trở thành hư vô, ta sẽ bị hủy diệt, ta sẽ không c̣n nữa." Do vậy nó rên rỉ, lo lắng, đấm ngực than khóc, và đâm ra hoảng hốt. Như thế, này Tỳ kheo, quả có trường hợp người ta bị dày ṿ khi không t́m thấy được trong nó một cái ǵ trường cửu [11].
.
Ở một đoạn khác, đức Phật dạy:

"Hỡi các Tỳ kheo, ư nghĩ "ta sẽ không c̣n tồn tại, không có ǵ nữa" làm cho những người ngu sợ hăi."[12]

Những người muốn t́m một cái "Ngă" trong Phật giáo lư luận như sau: Quả thật đức Phật đă phân tích con người ra sắc, thọ, tưởng, hành, thức (Ngũ uẩn), và bảo rằng không có ǵ trong những thứ ấy là Ngă. Nhưng Ngài không bảo tuyệt đối không có Ngă, nơi con người hay nơi nào khác ngoài năm uẩn.

Lập trường này không đứng vững được v́ hai lẽ:
.
- Lẽ thứ nhất là theo giáo lư Phật, con người chỉ là năm uẩn kết hợp không là ǵ khác. Không có chỗ nào Phật bảo c̣n có cái ǵ khác ở trong con người, ngoài năm uẩn.
.
- Lẽ thứ hai là nhiều lần Phật đă bác bỏ, bằng những lời lẽ minh bạch, hiện hữu của Àtman, linh hồn hay Ngă trong hay ngoài con người, hay bất cứ ở đâu trong vũ trụ. Đây là vài ví dụ:
.
Trong kinh Pháp cú (Dhammapada) có ba bài kệ vô cùng quan trọng và cốt yếu trong giáo lư Phật : bài 5, 6, 7 chương 20 (hay những câu thơ số 277, 278, 279).

Hai câu thơ đầu nói:

"Tất cả hành là vô thường" (sabbe samkhàrà aniccà) và
"Tất cả hành là khổ" (sabbe samkhàrà dukkhà).

[hành hay hữu vi, là những ǵ có sinh, trú và diệt; được kết hợp do các điều kiện - Dịch giả]
.
Câu thứ ba là:

"Tất cả pháp vô ngă" (sabbe dhammà anattà)[13].
.
Cần chú ư đặc biệt ở đây rằng trong hai câu đầu, chữ samkhàrà - "những sự vật có điều kiện" - đă được dùng. Nhưng trong câu thứ ba thay v́ chữ samkhàra, chữ dhammà đă được dùng. V́ sao câu thơ thứ ba đă không dùng chữ hành, samkhàrà, "sự vật có điều kiện", như hai câu trước, mà lại dùng danh từ pháp, dhammà thay vào? Chính đấy là điểm quan trọng nhất của vấn đề.
.
Danh từ hành, samkhàra[14] ám chỉ Ngũ uẩn, mọi sự vật và trạng thái bị giới hạn, phụ thuộc lẫn nhau, tương đối, mọi "pháp" vật lư cũng như tâm lư (sắc pháp và tâm pháp). Nếu câu thơ thứ ba nói: "Mọi hành (sự vật bị giới hạn) là vô ngă" th́ người ta có thể nghĩ sự vật bị giới hạn là vô ngă, tuy nhiên có thể có một cái Ngă ở ngoài những sự vật bị giới hạn đó, ở ngoài Ngũ uẩn. Chính để tránh sự hiểu lầm mà danh từ pháp (dhammà) đă được dùng trong câu thơ thứ ba.
.
Danh từ pháp có phạm vi rộng lớn hơn hành rất nhiều. Không có danh từ nào trong thuật ngữ Phật học lại có phạm vi rộng hơn chữ pháp. Nó bao gồm không những những sự vật và trạng thái có điều kiện, mà c̣n cả cái vô điều kiện, cái tuyệt đối, Niết-bàn; không có ǵ ở trong hay ở ngoài vũ trụ, tốt hay xấu, hữu vi (có điều kiện) hay vô vi (không điều kiện), tương đối hay tuyệt đối..., mà không được bao gồm trong danh từ này. Bởi vậy, thật quá rơ ràng, theo câu "tất cả pháp vô ngă" th́ không có Ngă, không có linh hồn, không những chỉ ở trong Ngũ uẩn, mà c̣n bất cứ ở đâu ngoài ngũ uẩn hay tách biệt với ngũ uẩn[15].
.
Theo giáo lư nguyên thủy, điều này có nghĩa rằng không có ngă ở trong con người (puggala) hay trong các pháp. Triết lư đại thừa cũng có một lập trường y hệt, không có một dị biệt nào về điểm đó, nhấn mạnh trên sự vô ngă của các pháp cũng như vô ngă của con người (pháp vô ngă, dhammanairàtmya và nhân vô ngă, pudgalanairàtmya).
.
Trong kinh Xà dụ Alagadddùpamasutta (Trung bộ I), Phật dạy môn đệ:

"Hỏi các Tỳ kheo, các ông có thể bám lấy một ngă luận (thuyết về ngă) nếu điều ấy không phát sinh sầu, bi khổ, ưu, năo. Nhưng này các Tỳ kheo, các ông có thấy một ngă luận nào như thế hay không, một ngă luận mà khi chấp nhận nó, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu, năo?

- Bạch đức Thế Tôn, nhất định là không.

- Chính thế, hỏi các Tỳ kheo, Như Lai cũng vậy. Này các Tỳ kheo, Như Lai không thấy một ngă luận nào mà nếu chấp nhận, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu, năo."[16]
.
Nếu Phật đă chấp nhận một ngă luận nào, th́ chắc chắn ngài đă giảng ra đây, v́ ngài bảo các Tỳ kheo hăy chấp nhận một ngă luận nếu luận thuyết đó không phát sinh đau khổ. Nhưng theo ngài, không có một thuyết nào như thế, và bất cứ một ngă luận nào, dù tinh tế và cao siêu đến đâu cũng chỉ là giả danh và tưởng tượng, sinh ra mọi vấn đề rắc rối, kéo theo những sầu, bi, khổ, ưu năo.
.
florida80_is_offline  
 
Page generated in 0.07778 seconds with 9 queries