R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jun 2007
Posts: 32,855
Thanks: 62,436
Thanked 62,620 Times in 20,161 Posts
Mentioned: 131 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 8816 Post(s)
Rep Power: 87
|
Tài Hóa Kinh Tế và Tài Hóa Miễn Phí.
Chúng ta cũng phải hiểu Tài Hóa Kinh Tế (Economic goods) và Tài Hóa Miễn Phí (Free goods) là ǵ. Tài hóa kinh tế được sản xuất với một giá phí (Production cost) nào đó, như sản xuất một chiếc xe hơi hay một tô phở. Ngược lại tài hóa miễn phí không có giá phí như nước biển hay không khí. Như vậy một tài hóa kinh tế không bao giờ trở thành một tài hóa miễn phí, nhưng ngược lại, một tài hóa miễn phí có thể trở thành một tài hóa kinh tế. Thí dụ người ta chế biến nước biển mặn thành nước ngọt như ở một số quốc gia thiếu nước uống. V́ nhu cầu con người vô hạn và tài nguyên hữu hạn, nên chúng ta phải tiết kiệm (To economize) và từ đó kinh tế học (Economics) mới xuất hiện. Có rất nhiều định nghĩa kinh tế học khác nhau, nhưng tựu trung định nghĩa sau đây được chấp nhận một cách phổ quát. “Kinh tế học là một khoa học nhằm nghiên cứu việc sử dụng tài nguyên hữu hạn để thỏa măn những nhu cầu vô hạn của con người.”
Do đó bất cứ một nền kinh tế nào, Tư Bản (Capitalist), Cộng Sản (Communist), Xă Hội (Socialist) hay Hỗn Hợp (Mixed) đều phải giải quyết ba vấn nạn cốt lơi sau đây: sản xuất ǵ (What)? sản xuất thế nào (How)? và sản xuất cho ai (For whom)? Nói cho dễ hiểu là phải chọn lựa sản xuất ǵ và bao nhiêu, dùng kỹ thuật nào để sản xuất hữu hiệu nhất và phân phối tài hóa ra sao để đạt được sự công bằng xă hội tối hảo.
Sự định h́nh nền kinh tế.
Nền kinh tế của một quốc gia được định h́nh bởi thể chế chính trị của quốc gia đó. Nói đúng hơn mức độ kiểm soát và can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế là yếu tố chủ yếu định h́nh. Nếu dùng thước đo can thiệp (Interference) th́ nền kinh tế cộng sản như Bắc Hàn (North Korea) có sự can thiệp tuyệt đối ở một đầu, đầu kia là nền kinh tế Hoa Kỳ có sự can thiệp của chính phủ ít nhất, c̣n hai nền kinh tế nằm giữa là xă hội và hỗn hợp. Ngày nay, trên thực tế không có nền kinh tế nào trên thế giới không có sự can thiệp của chính phủ, vấn đề là ít hay nhiều mà thôi.
Sự can thiệp của chính phủ liên quan tới ba vấn nạn kinh tế chủ yếu nêu trên, là sản xuất ǵ, sản xuất thế nào và sản xuất cho ai. Ba vấn nạn này được giải quyết hữu hiệu hay không tùy thuộc vào các yếu tố dưới đây: Ai là chủ đất đai, tư nhân hay nhà nước ; các phương tiện sản xuất như cơ sở hành chánh, cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ thuộc tư nhân hay nhà nước, thị trường có được tự do vận hành theo luật cung cầu hay bị chính phủ kiểm soát và định h́nh; có sự tự do cạnh tranh trong kinh doanh hay bị hạn chế bởi nhà nước v́ sự ưu đăi của nhà nước đối với các công ty quốc doanh v.v…
Có thể nói trong nền kinh tế cộng sản Bắc Hàn sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là tuyệt đối, trong khi đó nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ, chính phủ chỉ giữ vai tṛ hướng dẫn (Guiding) và điều chỉnh (Adjustment) qua luật lệ, các biện pháp kinh tế ngắn hạn (Short-term economic measures) hay các chính sách kinh tế dài hạn (Long–term economic policies) qua Chính Sách Tiền Tệ (monetary policies) Chính Sách Tài Chánh (Fiscal policies) hay cả hai.
Nền móng của nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ.
Trong bài này người viết chỉ đề cập tới những nguyên lư và chính sách kinh tế trên b́nh diện vĩ mô hay tổng thể của nền kinh tế tư bản Hoa Kỳ.
Nền kinh tế Hoa Kỳ đặt trên những nền móng sau đây. Trước hết Quyền Tư Hữu (Private property right) nhất là tư hữu đất đai, là tuyệt đối được bảo đảm bởi hiến pháp. Con người kinh tế Hoa Kỳ đặt Tư Lợi (Self interest) trên hết và tư lợi là động lực (Motive) cho mọi hoạt động kinh tế. Thị trường phải có cạnh tranh tự do theo luật cung cầu. Tư nhân làm chủ các phương tiện sản xuất, không có công ty quốc doanh chỉ có tư doanh v́ đối với dân chúng Hoa Kỳ chỉ có tư nhân mới quản lư (To manage) một xí nghiệp hay một cơ quan một cách hữu hiệu (Efficiently) nhất. Theo người viết biết tại Hoa Kỳ chỉ có Bưu Điện và Đập Hoover là do chính phủ quản lư dưới h́nh thức cơ quan tự trị (Automous Authority). Dân chúng Hoa Kỳ quan niệm rằng sự quản trị của hệ thống công quyền (bureaucracy) kém hữu hiệu v́ “cha chung không ai khóc” và tiền bạc của chính phủ là “tiền chùa” nên dễ đưa đến lăng phí và nạn tham nhũng. Điều này thể hiện rơ trong nền kinh tế chỉ huy Việt Nam hiện nay.
Thước đo thành quả kinh tế.
Khi nói đến thành quả kinh tế của một nền kinh tế người ta thường nói tới Tổng Sản Lượng Quốc Gia Xổi (Gross National Product –GNP) và ít nói tới Tổng Lợi Tức Quốc Gia Xổi (Gross National Income). Thực ra đây chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Tổng sản lượng quốc gia xổi gồm Tài Hóa và Dịch Vụ và Tổng Sản Phí (Total production costs) của nó chính là tổng lợi tức xổi của người dân gồm tiền lương (Wages) tiền lăi (Interest) phải trả khi mượn vốn (Capital) để đầu tư, tiền thuê (Rent) khi thuê mướn cơ sở hành chánh, cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ và tiền lời kinh doanh (Business profit). Tiền lời kinh doanh này c̣n được gọi là lợi nhuận (Net profit) như ở Việt Nam. Theo Karl Marx 1818-83, nhà triết học kinh tế và xă hội người Đức, đó là Giá Trị Thặng Dư (Surplus value) trong cuốn sách của ông Tư Bản Luận (Das Capital) xuất bản năm 1867 ở Đức. Theo Marx tiền lời kinh doanh là tiền lương của công nhân bị chủ nhân bóc lột.
Ngược lại, chủ thuyết kinh tế tư bản coi tiền lời kinh doanh như là tiền thưởng cho khả năng quản trị (Ability of entrepreneurship). Thực ra chính các doanh nhân (Entrepreneurs) là chủ thể kết hợp các yếu tố sản xuất (Production factors) nhân công, cơ sở sản xuất, máy móc và dụng cụ để sản xuất tài hóa và dịch vụ nên tiền lời kinh doanh phải được coi như một sản phí. Như vậy sản phí của một tài hóa gồm tiền lương, tiền lăi, tiền thuê và tiền thưởng tài quản trị.
Thực ra trong thực tế, tổng sản lượng quốc gia xổi (GNP) không phải là thước đo lường chính xác thành quả kinh tế trong năm v́ nó chưa trừ đi những hư ṃn, hao hụt và già cỗi của các phương tiện sản xuất như cơ sở, máy móc và dụng cụ được sử dụng trong tiến tŕnh sản xuất. Các phương tiện này cũng là một phần của tổng sản lượng quốc gia xổi. Do đó phải trừ ra khỏi Tổng Sản Lượng Quốc Gia Xổi giá phí chiết cựu (Depreciation cost) để được Tổng Sản Lượng Quốc Gia Thuần (Net National Product – NNP). Đây mới là thước đo thành quả kinh tế đích thực.
Hăy lấy một thí dụ làm sáng tỏ. Hai quốc gia A và B có tổng sản lượng quốc gia xổi bằng nhau, nhưng quốc gia A sản xuất hữu hiệu hơn nhờ nhân công bảo tŕ cơ sở, máy móc và dụng cụ tốt, nên ít hư hỏng, giảm bớt chi phí sửa chữa. Trái lại trong quốc gia B, cơ xưởng sản xuất, máy móc và dụng cụ không được bảo tŕ tốt nên phí tổn sửa chữa cao hơn. Do đó, chúng ta phải kết luận quốc gia A có thành quả kinh tế cao hơn quốc gia B, nói cách khác quốc gia A có tổng sản lượng quốc gia thuần cao hơn quốc gia B trong năm.
Một thước đo chính xác thành quả kinh tế nữa là thước đo theo tiêu chuẩn đầu người (Per Capita). Nhiều người hoảng sợ Trung Quốc hiện nay là cường quốc kinh tế thứ nh́ sau Hoa Kỳ trên thế giới. Tổng Sản Lượng Xổi của Trung Quốc hiện nay gần bằng của Hoa Kỳ, chưa nói tới Tổng Sản Lượng Quốc Gia Thuần, chắc chắn Trung Quốc c̣n thua xa. Nhưng người đọc nên nhớ rằng Trung Quốc có 1.4 tỷ người trong khi Hoa Kỳ chỉ có 350 triệu người. Như vậy số lượng Tài Hóa và Dịch Vụ mà một người được hưởng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ c̣n cách nhau rất xa. Nói khác đi mức sống (Standard of living) của một người dân c̣n cách nhau trời vực giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Ngoài ra con người không chỉ sống bằng vật chất mà cần món ăn tinh thần nữa như tự do tư tưởng, tôn giáo, báo chí, chính trị, lập hội, văn học và nghệ thuật v.v…
Một thước đo thành quả kinh tế khác nữa hết mức trung thực là Lợi Tức Khả Dụng (Disposable income). Đây mới là lợi tức hay tiền mà một cá nhân mang về thực sự để chi tiêu trong gia đ́nh. Đây là lợi tức sau khi trừ thuế lợi tức cá nhân (Individual income tax) và thuế lợi tức doanh nghiệp (Corporale income tax). Hai loại thuế này chiếm khoảng 80% tổng số thuế thu vào cho ngân sách quốc gia Hoa Kỳ. V́ thước đo này trung thực và chính xác nên các kinh tế gia thường dùng nó trong các bài toán kinh tế.
Ư niệm về kinh tế gia đ́nh có từ xa xưa và theo thời gian phát triển trong các bộ lạc hay quốc gia. Vào thời đó các hoạt động kinh tế cũng đă được phân công hóa trong gia đ́nh. Người chồng đi săn bắn thú rừng hay đi lưới cá để kiếm lương thực nuôi gia đ́nh. Người vợ lo việc nội trợ trồng trọt rau quả quanh nhà, hoặc nuôi thêm ít gia súc như heo hay gà vịt để phụ thêm vào bữa cơm gia đ́nh. Các hoạt động kinh tế nhằm nuôi sống gia đ́nh và nếu c̣n dư đem trao đổi lấy các vật dụng khác. Danh từ Kinh Tế Học có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp"Oiko-nomia”. Oiko có nghĩa là gia đ́nh (Household), nomia có nghĩa là chính sách (Policy). Vậy chúng ta có thể hiểu Oiko-nomia là môn học các sinh hoạt kinh tế gia đ́nh.
|