R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jun 2007
Posts: 32,853
Thanks: 62,426
Thanked 62,604 Times in 20,157 Posts
Mentioned: 131 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 8814 Post(s)
Rep Power: 87
|
Trường phái Kinh Tế Cổ Điển.
Trong thế kỷ XVIII có rất nhiều luồng tư tưởng kinh tế đơn lẻ đề cập tới mọi hoạt động kinh tế trong xă hội, và có nhiều Kinh Tế Gia (Economists) Triết Gia Kinh Tế (Economic philosophers) và Tư Tưởng Gia Kinh Tế (Economic thinkers) xuất hiện, phần lớn từ u Châu, đặc biệt từ Anh và Đức Quốc v́ hai quốc gia này thời đó có nền kinh tế khá phát triển. James Mill, Henry, George Marshall, David Ricardo với các bài khảo luận về Nguyên Lư Tiền Tệ và Thuế Vụ (Theory of Money and taxation). David Ricardo cũng là người sáng lập ra trường phái Kinh Tế Cổ Điển (The founder of the classical school of economics). Chúng ta phải c̣n kể tới Thomas Robert Malthus (1766-1834) người Anh với khảo luận nổi tiếng về Dân Số (Essay on the principle of population). Theo Malthus, thực phẩm tăng theo cấp số cộng, dân số tăng theo cấp số nhân do đó nhân loại sẽ có nạn Nhân Măn (Over population).
Sau hết, kinh tế gia đại diện cho trường phái kinh tế cổ điển nổi tiếng nhất thời đó là Adam Smith (1723-1790) người Tô Cách Lan (Scottish) với tác phẩm “Sự giàu có của các quốc gia” (Wealth of Nations) xuất bản năm 1776. Trong cuốn sách này Adam Smith tổng hợp và hệ thống hóa các tư tưởng kinh tế đương thời và từ cuốn sách này nền Kinh Tế Tư Bản (Capitalism) ra đời. Ông chủ trương chính sách bất can thiệp (Non-interference) hay không nhúng tay vào (Hand-off) của chính quyền vào nền kinh tế. Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh (Mechanism of free and competitive market) sẽ hướng dẫn (Guiding) các hoạt động kinh tế và điều chỉnh (Adjusting) các vấn nạn kinh tế (Economic problems) nếu có. Ngày nay, một trong những kinh tế gia nổi tiếng đại diện cho trường phái kinh tế cổ điển là giáo sư kinh tế gia Milton Friedman tại đại học Chicago, tiểu bang Illinois.
Trong thế kỷ XIX xuất hiện một số kinh tế gia có khuynh hướng xă hội cấp tiến như Friedrich Engels (1820–95) và Karl Marx (1818–83) cả hai đều là người Đức. Engels va Marx là đồng tác giả bản “Tuyên ngôn Cộng sản (Communist Manifesto–1884). Marx viết riêng cuốn sách nổi tiếng “Tư Bản Luận” (Das Capital–1867). Hai ông này Engels và Marx đả kích kịch liệt học thuyết kinh tế tư bản cổ điển v́ những bất công xă hội do nền kinh tế tư bản tạo ra, Marx cho rằng các nhà tư bản hay các ông chủ xí nghiệp thời đó bóc lột giới công nhân bằng cách trả mức lương rẻ mạt để kiếm lời tối đa mà ông cho rằng đó là Giá Trị Thặng Dư (Surplus Value) đề cập tới trong tác phẩm Tư Bản Luận của ông. Theo ông, giá trị thặng dư này chính là số lương của công nhân bị chủ nhân ăn cướp, v́ vậy phải trả lại cho công nhân.
Sau đây là những điểm chính yếu của trường phái kinh tế tư bản cổ điển. Trước hết chính phủ hay nhà nước tuyệt đối không được can thiệp vào nền kinh tế và hăy để cơ chế thị trường hướng dẫn các hoạt động kinh tế và điều chỉnh các vấn nạn kinh tế. Nền kinh tế tư bản lúc nào cũng ở thế quân b́nh (Equilibriun) giữa cung cầu và toàn dụng nhân công (Full employment), không có thất nghiệp (Unemployment). Đôi lúc có thiếu hụt (Shortage) hoặc thặng dư (Surplus) tài hóa nhưng chỉ là đoản kỳ, trong trường kỳ cơ chế thị trường sẽ điều chỉnh lại và lập lại thế quân b́nh.
Các kinh tế gia cổ điển đem ra một luận cứ nữa là “số cung tạo ra số cầu” (Supply creates demand), nghĩa là các nhà sản xuất, người cung ứng (Suppliers) thường tạo ra nhu cầu tài hóa mà người tiêu thụ (Consumer) cần, như trong thí dụ điện thoại thông minh trên thị trường hiện nay. Các hăng điện thoại như Apple hay Samsung luôn luôn thay đổi mẫu mă để câu khách, và đó cũng là lư do tại sao ban nghiên cứu thị trường giữ vai tṛ quan trọng trong các công ty sản xuất.
Về tiền tệ và giá cả với phương tŕnh MV = PT trong đó M là khối lượng tiền lưu hành V là tốc độ lưu hành của đơn vị tiền tệ như một đô la chẳng hạn, P là giá cả trung b́nh và T là khối lượng tài hóa trao đổi. Từ phương tŕnh trên, các kinh tế gia cổ điển đi đến kết luận giá cả tăng hay giảm là do khối lượng tiền tệ tăng hay giảm, nói khác đi khối tiền tệ là nguyên nhân của việc tăng hay giảm của giá cả.
Như chúng ta biết Y1 Tổng Lợi Tức Quốc Gia, Y2 Tổng Sản Lượng Quốc Gia là hai mặt của một thực thể, cũng như hai mặt của một đồng tiền trong hai phương tŕnh Y1 = C+S và Y2 = C2+I+G . Trong phương tŕnh Y1 tổng lợi tức quốc gia dùng để tiêu thụ công và tư (C), c̣n lại tiết kiệm (S), và chúng ta đă biết tổng lợi tức quốc gia gồm tiền lương (Wages), tiền lăi (Interests) tiền thuê (Rents) và tiền lời kinh doanh (Business profits) và các loại lợi tức này chính là các loại sản phí của tổng sản lượng quốc gia. Trong phương tŕnh Y2 tổng sản lượng quốc gia gồm chi tiêu hay tiêu thụ tư nhân (Consumption) (C2), chi tiêu cho đầu tư của xí nghiệp (Investment) và chi tiêu hay tiêu phụ của chính phủ (Government).
Như vậy chúng ta có Y1 = Y2 , tiêu thụ tư nhân và chính quyền (C) th́ bằng tiêu thụ tư nhân (C2) cộng với chi tiêu hay tiêu thụ của chính quyền (G)(Government). Từ đó suy ra C = C2+G và tiết kiệm (S) bằng đầu tư (I).
Nói tóm lại, các kinh tế gia cổ điển cho rằng tiền tiết kiệm của dân chúng luôn luôn bằng tiền đầu tư của xí nghiệp, v́ dân chúng gửi hết tiền tiết kiệm vào các ngân hàng và các ngân hàng này cho các xí nghiệp sản xuất vay vốn để đầu tư. V́ vậy nền kinh tế luôn luôn ở thế quân b́nh giữa cung cầu tài hóa và toàn dụng nhân công.
Nền kinh tế Hoa Kỳ có tăng trưởng kinh tế (Economic growth) khá cao trong thời kỳ Đệ Nhất Thế Chiến (1914–1917) nhờ các xí nghiệp quốc pḥng, sản xuất vũ khí, các trang bị quân sự và lương thực. Nền kinh tế đạt được mức toàn dụng nhân công, thất nghiệp kể như không có.
Nhưng những năm sau thế chiến chấm dứt, kỹ nghệ chiến tranh giảm sút, quân nhân giải ngũ đông cộng với gánh nặng thương phế binh, nền kinh tế bắt đầu rơi vào t́nh trạng tŕ trệ (Stagnancy) rồi suy thoái (Recession) cuối cùng rơi vào cuộc Đại Khủng Hoảng ( Great depression) kinh tế vào năm 1929 và kéo dài đến hết năm 1933.
Cho đến nay các kinh tế gia cũng chưa giải thích được những lư do nào dẫn đến cuộc đại khủng hoảng hồi đó. Chỉ thấy rằng đùng một cái thị trường chứng khoán sụp đổ, dân chúng hoảng loạn (Panic) chạy đến các ngân hàng thương mại rút tiền làm các ngân hàng khánh kiệt đưa đến cả hệ thống ngân hàng tan ră. Lúc đó, Hoa Kỳ chưa có Ngân Hàng Trung Ương (Central bank), ngày nay gọi là Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang (The Federal Reserve Bank–The FED). Hàng hóa th́ tràn ngập thị trường nhưng không có người mua v́ không có tiền do thất nghiệp cao, chiếm 20% lực lượng lao động.
|