R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jun 2007
Posts: 32,836
Thanks: 62,385
Thanked 62,557 Times in 20,143 Posts
Mentioned: 131 Post(s)
Tagged: 1 Thread(s)
Quoted: 8814 Post(s)
Rep Power: 87
|
Phân chia lợi tức quốc gia.
Vấn đề kế tiếp là phân phối tổng lợi tức hay tổng sản lượng quốc gia, ai hưởng nhiều ai hưởng ít và làm thế nào đạt được công bằng xă hội tối hảo. Một số người cho rằng sự phân phối lợi tức hay sản lượng quốc gia lư tưởng và công bằng khi 20% dân số được hưởng 20% và 80% dân số được hưởng 80% tổng lợi tức hay sản lượng quốc gia. Điều này thiếu thực tế, không hợp lư và thiếu công bằng theo quy luật Hữu Dụng Biên Tế (Principle of marginal utility). Hữu dụng được tạm định nghĩa là sự thỏa măn hay khoái lạc. Thí dụ người viết đang đói, ăn bát cơm đầu tiên thấy rất khoái, giả định đo được 10 đơn vị hữu dụng, ăn bát thứ hai 8 đơn vị, bát thứ ba 7 đơn vị, bát thứ tư 4 đơn vị, bát thứ năm 0 đơn vị và bát thứ sáu trừ 1 đơn vị (--1), nghĩa là ăn bát thứ sáu người viết không c̣n cảm thấy khoái lạc nữa mà cảm thấy đầy bụng khó chịu, nên ai lấy đi cũng không màng. Qui luật này phải được áp dụng cho việc phân phối lợi tức hay sản lượng quốc gia.
Đối với người triệu phú, ngàn đồng đầu tiên có hữu dụng cao v́ để thỏa măn những nhu cầu cần thiết như thực phẩm, quần áo, y dược, tiện ích công cộng như điện nước, hơi đốt v.v…Những ngàn đồng kế tiếp ngày càng bớt hữu dụng hay giá trị và ngàn đồng cuối cùng, nếu mất đi, cũng không gây ra tiếc rẻ và đau khổ.
Dựa trên lập luận này, chính phủ áp dụng những loại thuế và thuế suất khác nhau trên lợi tức của người dân. Có ba thuế suất khác nhau, Lũy Tiến (Progressive) Tỷ Lệ (Proportional) và Tiệm Tiến (Regressive). Thí dụ ai có lợi tức 200 ngàn đô la một năm, 50 ngàn đô la đầu chịu thuế suất 10%, 50 ngàn đồng kế tiếp 20%, 50 ngàn đồng chót có thể phải trả 50% thuế suất. Theo thuế suất tỷ lệ, mọi người có lợi tức cao hay thấp đều phải chịu một thuế suất như nhau như 25%. Thuế suất tỷ lệ không công bằng theo quy luật Hữu Dụng Biên Tế nói trên.
Không có thuế suất tiệm tiến, nhưng có những sắc thuế tiệm tiến. Thuế lợi tức cá nhân và lợi tức doanh nghiệp là lũy tiến. Thuế tài sản (Property tax) là theo tỷ lệ, thuế được ước tính theo giá trị tài sản, thí dụ thuế suất tài sản 1.1% như ở California hiện nay. Thuế bán lẻ (Sale tax) là thuế tiệm tiến, người giàu hay người nghèo đều trả thuế suất như nhau khi mua một món hàng
Tất cả các chính phủ trong nền kinh tế tư bản đều nhằm phân chia lợi tức quốc gia để có giới trung lưu lớn, chiếm 90% dân số, c̣n lại hai đầu, người nghèo chiếm 5%, và người giàu chiếm 5% dân số. Như vậy 90% dân số tức giới trung lưu hưởng 90%, 5% dân số giàu và nghèo hưởng 5% tổng số lợi tức quốc gia mỗi nhóm.
Điều này dễ hiểu v́ giới trung lưu lớn bảo đảm sự ổn định chính trị và kinh tế trong một quốc gia.. Đây cũng là cái nôi xuất hiện các nhà lănh đạo quốc gia tài đức như George Washington, Winston Churchill, De Gaule và những lănh đạo độc tài, gian ác như Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh.
Tiền tệ và số cung tiền tệ.
Một vấn đề quan trọng nữa, nếu không được đề cập tới, th́ quả là một thiếu sót, đó là vấn đề Tiền Tệ. Người viết sẽ lần lượt tŕnh bày về lịch sử, vai tṛ, giá trị, tốc độ lưu hành và số cung tiền tệ.
Thời cổ xưa, khi chưa phát minh ra tiền tệ, người ta trao đổi tài hóa với nhau qua việc trao đổi bằng hiện vật (Barter exchange). Thí dụ một người tiêu thụ nào đó muốn trao đổi một đôi giày mới lấy một con gà để nuôi, họ phải t́m một người tiêu thụ nào khác muốn có một đôi giày mới. Việc trao đổi này quá bất tiện về thời gian và không gian. Cả hai phải mất thời gian đi t́m ở đâu. Vă lại đổi theo tỷ lệ nào, v́ đôi giày mới trị giá 5 đô la, nhưng con gà trị giá 10 đô la, không lẽ chặt đôi con gà ra. Việc trao đổi này được gọi là trao đổi bằng Tiền Tài Hóa (Commodity money)
Sự trao đổi hay mua bán bằng tiền tài hóa xuất hiện từ xa xưa, khi các hoạt động kinh tế tập trung vào nông nghiệp. V́ vậy người ta đă dùng súc vật (Cattle) để làm tiền trong các giao dịch thương mại. Trao đổi bằng tiền tài hóa gây bất tiện như trên, nên qua thời gian, một loại tiền khác xuất hiện. Đó là tiền Giấy Biên Nhận (Money receipts). Tiền thân của tiền giấy (Paper money) sau nầy là những biên nhận của các chủ nhân đúc tiền và giữ dùm kim loại vàng bạc (Goldsmiths)
Những người có quư kim như vàng bạc đến nhà đúc tiền thành những đơn vị nhỏ tùy theo sức nặng để dễ trao đổi và nhận một giấy biên nhận (Receipt). Những chủ quư kim này dùng giấy biên nhận để trả khi mua vật dụng nào đó. Người bán vật dụng chấp nhận các biên nhận này v́ họ biết rằng có thể đổi thành quư kim nơi các chủ đúc tiền hay giữ hộ quư kim. Một số chủ đúc tiền khôn ngoan nhận thấy chỉ khoảng 35% số quư kim gửi phải trả ra, nên họ cho mượn 65% quư kim c̣n lại để kiếm lời. Những người này trở nên rất giàu có hồi đó.
Sau này, thấy có lời, các ngân hàng thương mại tư nhân nhảy vào kinh doanh và từ từ thay thế các tiệm đúc và giữ kim loại và cũng phát hành các biên nhận. Để thống nhất và kiểm soát việc lưu hành các biên nhận của các ngân hàng thương mại tư nhân, ngân hàng trung ương quốc gia được thiết lập để thu mua quư kim trong dân chúng và phát hành một loại tiền giấy hợp pháp và thống nhất (Legal tender} có mệnh giá (Face value) khác nhau và tiền giấy bắt đầu chính thức lưu hành từ đó.
Lúc đầu, khi các nền kinh tế chưa phát triển mạnh, khối tiền tệ được bảo đăm 100% bằng quư kim bởi ngân hàng trung ương. Từ lúc này, tiền giấy được phát hành theo Kim Bản Vị (gold standard). Các nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh, tổng sản lượng tài hóa và dịch vụ ngày càng tăng, nên cần thêm nhiều tiền hơn tương ứng với tổng sản lượng quốc gia và duy tŕ ổn định giá cả. Sự bảo đảm 100% bằng quư kim của ngân hàng trung ương giảm xuống 35% và sau cùng bị bỏ hẳn.
Tiền tệ có ba vai tṛ. Trước hết là một phương tiện trao đổi (Medium of exchange). Hai là đơn vị đo lường (Standard unit). Thí dụ một quả cam giá 50 xu, một đôi giày giá 5 đô la. Ba là vai tṛ tồn trữ tài sản (Store of wealth). Cá nhân nào cũng giữ tài sản bằng một số tiền mặt (Cash) trong nhà hay trong ngân hàng pḥng hờ những bất trắc chứ không tồn trữ tài vật nhiều.
Vậy trong nền kinh tế, trị giá đích thực của tiền tệ là ǵ? Đó không phải là khối quư kim vàng bạc hay khối ngoại tệ (Foreign currency) giữ trong ngân hàng trung ương. Giá trị của khối tiền tệ đích thực là tổng sản lượng quốc gia (GNP), v́ tiền tệ là để mua tài hóa và dịch vụ. Một nền kinh tế nếu không tiếp tục gia tăng khả năng hay tiềm năng sản xuật nội địa sẽ thiếu hụt tài hóa và dịch vụ mà dân chúng cần, th́ cũng lấy vàng hay ngoại tệ cứng (Hard foreign currency) để nhập cảng thêm hàng hóa để tránh lạm phát. Ngoại tệ cứng như đô la Mỹ có thể mua tài hóa dồi dào và đa dạng trong nền kinh tế phát triển Hoa Kỳ. Không ai dại tồn giữ ngoại tệ mềm (Soft foreign currency) như tiền đồng Việt Nam hiện nay.
Tốc độ lưu hành (Velocity) tiền tệ là số lần chuyển tay một đơn vị tiền tệ như một đô la trong một thời gian thường là một năm. Số lần chuyển tay này làm tăng tổng số chi tiêu của giới tiêu thụ, nên giá cả trung b́nh tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở trong t́nh trạng tŕ trệ hay suy trầm, tốc độ lưu hành giảm, gây nên tổng chi tiêu của giới tiêu thụ giảm và làm giá cả trung b́nh có thể giảm. Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tổng chi tiêu của giới tiêu thụ tăng, tạo áp lực trên giá cả trung b́nh hay lạm phát v́ tổng sản phí do tiền lương lao động, tiền lăi, tiền thuê và giá phí nguyên liệu đều tăng. Nói tóm lại sự tăng trưởng kinh tế và áp lực lạm phát thường biến đổi song hành cùng chiều với nhau. V́ vậy, ngân hàng dự trữ liên bang phải điều chỉnh khối lượng tiền tệ thích ứng qua tỷ lệ tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các hoạt động thị trường mở (Open market operations). Điều này cho thấy sự tương giao và cộng tác giữa chính phủ và vị chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang tối quan trọng. Tuyệt đối tránh cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
Giá trị của một đồng tiền như đô la Mỹ, đồng Yen của Nhật, đồng Euro của u châu v.v.. là sức mua (Purchasing power) của nó. Thí dụ một đô la Mỹ mua được một ổ bánh ḿ, nhưng phải mất 23 ngàn đồng Việt Nam mới mua nổi v́ hối suất hiện nay là một đô la Mỹ ăn 23 ngàn đồng Việt Nam.
Người viết c̣n nhớ năm 1979, một đồng tiền Bắc Việt trị giá bằng 5 trăm đồng thời Việt Nam Cộng Ḥa trong lần đổi tiền lần thứ nhất, và 100 đồng Bắc Việt có thể đổi được một trăm đô la Mỹ hay mua được gần một lượng vàng. Quư vị người đọc nh́n thấy đồng bạc Việt Nam hiện nay mất giá thảm thiết như thế nào ? Đó là t́nh trạng lạm phát phi mă. Không có ǵ lạ ! Ở Việt Nam, người ta đă từng gọi là tiền cụ Hồ, v́ chính phủ cộng sản độc tài thả cửa in tiền bừa băi, mà không lo gia tăng sản xuất tài hóa nội địa, ỷ lại vào nhập cảng và giết chết các xí nghiệp sản xuất nội địa.
Điểm cuối cùng là khối lượng hay số cung tiền tệ (Money supply) gồm tiền mặt (Cash), tiền cắc kim loại (Coins) đang lưu hành và tiền kư thác chi phiếu (Checkable deposit) trong hệ thống ngân hàng. Cũng cần biết tiền mặt, tiền cắc và tiền chi phiếu có sức thanh khoản 100% (Liquidity) nghĩa là có thể mua tài hóa trực tiếp. Cổ phiếu (Stocks) trái phiếu (Bonds) như công khố phiếu (Treasury bonds) v..v…là loại tiền gần giống như tiền (Near money) v́ phải đổi ra tiền mặt hay chi phiếu (Checks) mới mua được tài hóa và dịch vụ.
Trong tương lai, người ta dự đoán có một loại tiền mới “Electronic money” hay “E-cash” xuất hiện. Với kỹ thuật điện tử ngày càng phát triển, người ta sẽ trang trải các chi tiêu, mua bán, chuyển tải tiền tệ qua hệ thống chuyển khoản (Money transfer) qua hệ thống điện thoại thông minh trên mạng.
|