View Single Post
  #1  
Old  Default Chương tŕnh giáo dục và sách giáo khoa thời Việt Nam Cộng Ḥa
Thưa quư bạn đọc,
Có người thắc mắc rằng "Tại sao Việt Nam Cộng Ḥa lại sản sinh ra được nhiều người ăn ở tử tế, sống theo đạo đức, nhân nghĩa như thế?".
Xin thưa, những con người tốt lành không từ trên trời rơi xuống, mà xuất thân từ công tŕnh đào tạo của những nhà giáo dục lương hảo đă tận tụy gây dựng thế hệ tương lai nên người.
Mời quư bạn đọc bài này và xin quư bạn cùng với tôi cảm tạ những bậc thày xưa kia đă tận tâm dạy dỗ chúng ta theo chương tŕnh học phong phú, chu đáo về mọi mặt, để tạo nên những con người có phẩm cách cao quư.
HMT



Chương tŕnh giáo dục và sách giáo khoa
thời Việt Nam Cộng Ḥa

MỞ ĐẦU

Đối tượng của bài viết này là chương tŕnh và sách giáo khoa miền Nam 1954-1975, tuy nhiên nếu không nhắc sơ lại thời kỳ quá độ trong đó nền giáo dục Việt Nam chuyển từ cựu học sang tân học, chúng ta sẽ khó theo dơi để nhận ra một cách rơ ràng những sự thay đổi cùng tên gọi các cấp, lớp, ban học, cũng như nội dung cụ thể của các chương tŕnh học mới sau này.

Có thể nói, không kể thời kỳ Nho học mà sự cáo chung được đánh dấu bằng khoa thi Hội cuối cùng ở Trung Kỳ vào tháng 4 năm Kỷ Mùi (1919), nền giáo dục hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 khi người Pháp đă củng cố xong nền cai trị của họ tại Việt Nam.

Lư do chấm dứt con đường học hành thi cử truyền thống đă được vua Khải Định đưa ra trong lời phê tờ tŕnh của Bộ Học, trước khoa thi cuối cùng nêu trên: “Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây dứt hẳn. Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đă không c̣n đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt” (theo Khải Định chính yếu sơ tập).

Trước đó, kể từ Đạo dụ ngày 31/5/1906, chính phủ Bảo hộ Pháp được sự thỏa thuận của Nam triều ấn định nền học chính mới thay dần cho nền giáo dục Nho học cũ, áp dụng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, theo đó chia làm ba bậc học:

(1) Ấu học gồm lớp Đồng ấu (lớp Năm), lớp Dự bị (lớp Tư), lớp Sơ đẳng (lớp Ba). Chương tŕnh học gồm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối bậc Ấu học (tức lớp Ba), học sinh phải qua một kỳ thi để lấy bằng Sơ học Yếu lược (Primaire Élémentaire).

(2) Tiểu học gồm lớp Nh́ năm thứ nhứt (Cours Moyen 1ère année), lớp Nh́ năm thứ hai (Cours Moyen 2ème année), và lớp Nhứt (Cours Supérieur). Chương tŕnh học cũng gồm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối cấp thi lấy bằng Tiểu học Yếu lược, cũng gọi Sơ đẳng Tiểu học hay Sơ học Pháp Việt (Certificat d’Etude Primaire Franco-Indigène, tương đương bằng Tiểu học sau này).

(3) Trung học, gồm hai cấp/ ban Cao đẳng Tiểu học và Tú tài: (a) Cao đẳng Tiểu học học đủ các môn Pháp văn, Toán, Lư, Hóa, Vạn vật (Sinh vật), Sử, Địa… tương tự chương tŕnh Pháp, gồm 4 năm: Nhất niên (1 ère année), Nhị niên (2 ème année), Tam niên (3 ème année), Tứ niên (4 ème année). Tất cả đều dạy bằng tiếng Pháp, trừ 2 môn Việt văn và Hán văn; (b) Tú tài (Enseignement secondaire, tương đương Trung học Đệ nhị cấp hay cấp III sau này), thời gian học 3 năm (tương tự 3 lớp bậc sau cùng của chương tŕnh Trung học Pháp), chia làm 3 ban Triết học/ Văn chương, Toán và Khoa học, với học tŕnh gồm các lớp Đệ nhất niên (1 ère année secondaire, tương đương lớp Đệ tam hay lớp 10 sau này), Đệ nhị niên (2 ème année secondaire, tương đương lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) và Đệ tam niên (3 ème année secondaire, tương đương lớp Đệ nhất hay lớp 12 sau này). Cũng dạy toàn bằng tiếng Pháp, trừ môn Việt văn và Triết học Trung Hoa. Kể từ Đệ nhất niên đă bắt đầu phân ban gồm ban Khoa học (Sciences), ban Toán (Mathématiques), ban Triết (Philosophie). Học sinh học xong Đệ nhị niên (tương đương lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) thi lấy bằng Tú tài I (hay Tú tài phần I), nếu đậu mới được học năm cuối cùng (Đệ tam niên, tương đương lớp Đệ nhất hay lớp 12 sau này) để thi lấy bằng Tú tài II (hay Tú tài toàn phần).
Riêng ở Nam Kỳ là xứ thuộc địa nên nền học chính đều theo quy chế thuộc địa, chỉ có chương tŕnh Pháp, nhưng ở vài trường (như Chasseloup Laubat, Pétrus Kư… ở Sài G̣n) cũng có dạy thêm một số giờ tiếng Việt.

Ở Bắc và Trung, hai chương tŕnh trung học Pháp và Pháp Việt nêu trên vẫn được áp dụng cho đến năm 1945 th́ được thay bằng chương tŕnh toàn Việt (lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ) ban hành trong thời chính phủ Trần Trọng Kim bằng Dụ số 67 ngày 3/6/1945 do Hoàng đế Bảo Đại kư và được thực thi ngay với khoa thi Tú tài niên khóa 1944-1945. Đây là chương tŕnh trung học Việt Nam đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam hiện đại, tham khảo từ chương tŕnh Pháp, quen gọi Chương tŕnh Trung học Hoàng Xuân Hăn, v́ do một nhóm giáo sư tâm huyết ở Hà Nội và Huế biên soạn cấp tốc chỉ trong khoảng 10 ngày, dưới sự chủ tŕ, đôn đốc của Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hăn.

Riêng ở Nam, đến năm 1949, trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, chương tŕnh cũ (Pháp và Pháp Việt) mới được thay thế bằng chương tŕnh Hoàng Xuân Hăn.

Đến tháng 9/1949, hai bộ Chương tŕnh Giáo dục Việt Nam mới dành cho bậc Tiểu học và bậc Trung học với một số thay đổi từ chương tŕnh Hoàng Xuân Hăn đă được ban hành chỉ cách nhau chừng tuần lễ, dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát, để áp dụng chung trong những vùng thuộc Quốc gia Việt Nam kiểm soát. Được biết sau đó, cả hai bộ chương tŕnh này c̣n được cải cách thêm lần nữa vào năm 1953 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn.

V́ vậy, để thấy được sự tiến triển qua các thời kỳ của chương tŕnh và sách giáo khoa Việt Nam giai đoạn 1954-1975, chúng ta không thể không xét qua một số bộ chương tŕnh giáo dục cũ nhưng có tính cơ sở như vừa nêu trên, trong đó có Chương tŕnh Trung học Hoàng Xuân Hăn 1945, và Chương tŕnh Tiểu học 1949, v́ những bộ chương tŕnh Trung và Tiểu khác về sau đều dựa theo 2 bộ chương tŕnh này để từ đó chỉnh sửa và phát triển thêm, với sự thay đổi gần như không đáng kể.

Hiện nay, mặc dù chỉ mới sau 40 năm thay đổi, việc khảo sát/ nghiên cứu đầy đủ về chương tŕnh và sách giáo khoa miền Nam trước đây là một việc làm không dễ chút nào. Nguyên do v́ các thư viện cả tư nhân lẫn nhà nước đều ít có chỗ nào quan tâm lưu trữ loại tài liệu này (kể cả Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Tổng hợp TP HCM, Thư viện Khoa học Xă hội TP HCM…), loại tài liệu mà người ta đơn giản cho rằng không c̣n cần dùng đến nữa, nên sau ngày 30/4/1975 đă bị vô t́nh hủy bỏ hầu hết. Chúng tôi đă ráng lùng sục, hỏi han khắp nơi vẫn chưa t́m đủ được tất cả những bộ chương tŕnh giáo dục đă được Bộ Quốc gia Giáo dục miền Nam in ra, c̣n về sách giáo khoa phục vụ cho chương tŕnh giảng dạy th́ tuy cũng tương tự như vậy nhưng may mắn lại được một số người yêu sách “hoài cổ” giữ được chút ít. V́ vậy, khi tŕnh bày bài viết này, đặc biệt ở phần chương tŕnh giáo dục, có những chỗ chúng tôi sẽ trích dẫn nguyên văn tài liệu cũ khá dài, không phải không biết ngại tốn giấy mực, nhưng ngoài việc minh họa c̣n có ư phần nào giúp thế hệ trẻ và những người nghiên cứu lịch sử giáo dục sau này có sẵn tài liệu tham khảo, khi cần th́ vẫn có thể trích dẫn lại được, mà không quá vất vả như khi chúng tôi phải đi t́m chúng (ở những đoạn trích nguyên văn này, chúng tôi sẽ cho in bằng font chữ khác với cỡ chữ nhỏ hơn b́nh thường, cho dễ phân biệt).

Phần mô tả nội dung cụ thể chương tŕnh học mỗi cấp lớp của hai bậc Trung, Tiểu học, cũng như sách giáo khoa tương ứng, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào 3 môn Văn, Đạo đức/ Công dân giáo dục (Tiểu học, Trung học hay cấp I, II) và Triết (Trung học Đệ nhị cấp hay cấp III) v́ nếu giới thiệu sang tất cả những môn khác sẽ quá mênh mông dài ḍng, và v́ đây cũng là 3 môn học tiêu biểu cho thấy những nét đặc trưng của nền giáo dục miền Nam 1954-1975 vốn dựa trên nền tảng triết lư giáo dục (hay những nguyên tắc căn bản) gồm Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng. Về sách giáo khoa liên quan các bộ môn trên, chúng tôi cũng lại xin chú trọng giới thiệu chi tiết hơn về sách giáo khoa của bậc Tiểu học, v́ quan niệm đây là bậc học phổ thông nền tảng có tính đại chúng quyết định cho những bậc học tiếp sau.

Tuy chủ đề bài viết là chương tŕnh và sách giáo khoa miền Nam trước 1975, nhưng khi tŕnh bày cho từng đề mục hữu quan, chúng tôi không thể không nhắc qua những giai đoạn trước đó, v́ nếu không làm như vậy, sẽ không thể nhận ra được mối liên lạc nhân quả trong suốt ḍng mạch phát triển có tính kế thừa và liên tục. Chẳng hạn, nếu không nắm bắt sơ qua nội dung các sách giáo khoa về Quốc văn, Luân lư của thời Trần Trọng Kim trước đó th́ sẽ không thể hiểu được lư do về nội dung hiện hữu của các sách giáo khoa Quốc văn, Đạo đức, Công dân giáo dục về sau. Tương tự, t́m hiểu về chương tŕnh học của miền Nam trước 1975, như trên đă nói, chúng ta cũng không thể không xét tới những bộ chương tŕnh cũ đă được biên soạn trước, từ 1945.

Riêng về chương tŕnh và sách giáo khoa ở bậc Đại học, chúng tôi cũng xin nói lướt qua cho biết vậy thôi, đơn giản chỉ v́ Đại học miền Nam được quyền tự trị, về học vụ mỗi trường đại học tự lo lấy, không có chương tŕnh học quy định và cũng không bị Bộ Quốc gia Giáo dục chi phối, chỉ đạo. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ xin lưu ư giới thiệu sơ qua chương tŕnh học và một số giáo tŕnh thường được giảng dạy trong các trường Đại học Sư phạm, v́ quan niệm đây như bộ “máy cái” đào tạo giáo viên, có tác dụng rất quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền giáo dục chung cả nước.




A. CHƯƠNG TR̀NH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC


I. CHƯƠNG TR̀NH TIỂU HỌC

1. Chương tŕnh Tiểu học 1949

a. Tổng quát

Chương tŕnh Tiểu học Việt Nam đầu tiên được ban hành theo Nghị định 4-NĐ/GD trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát kư ngày 27/8/1949.

Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, xếp theo thứ tự từ thấp lên cao, gồm: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nh́ (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).

Các môn học: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc và Học thuộc ḷng - Văn phạm, Chính tả và Viết tập - Tập làm văn), Đức dục, Công dân giáo dục, Sử kư, Địa lư, Khoa học thường thức, Toán pháp, Tập vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên và tổ chức hàng đội tự trị, Thể dục, Học hát-Tập kịch-Học nói, Họp lớp, Đi chơi, Đi cắm trại, Tṛ chơi.
Chương tŕnh này đă đánh dấu một bước ngoặt tiến triển quan trọng trong lịch sử giáo dục tiểu học Việt Nam, trở thành căn cứ tham khảo cho những chương tŕnh tiểu học tiếp sau trong thời Việt Nam Cộng ḥa (VNCH). Dưới đây là “Chỉ thị chung” cũng do Bộ trưởng Phan Huy Quát kư tại Hà Nội ngày 24/8/1949, ban hành như một phụ bản kèm theo Nghị định 4-NĐ/GD nêu trên, nội dung tuy có phần hơi rối rắm thiếu mạch lạc nhưng cũng đủ cho thấy chủ trương chính sách qua đó những phương pháp của nền giáo dục mới đă được chính thức đem ra áp dụng tại Việt Nam cho bậc Tiểu học:




CHỈ THỊ CHUNG


Bậc tiểu học là căn bản của nền quốc gia giáo dục.

Ngành tiểu học có nhiệm vụ đào tạo những thế hệ thanh niên xứng đáng của một nước độc lập.

Chương tŕnh bậc tiểu học đă soạn theo những nguyên tắc mới để cho nền giáo dục thời nay được phù hợp với sự tiến hóa của dân tộc và tính cách độc lập của quốc gia.

1) Tinh thần quốc gia.- Nêu cao tinh thần quốc gia để khích lệ ḷng ái quốc và chấn khởi dân khí. Tinh thần quốc gia Việt Nam ngày nay là tinh thần của một dân tộc biết tự cường, tự lập, biết phấn đấu để giành độc lập, biết kiên quyết để giữ giang sơn Tổ quốc, biết nỗ lực để ganh đua với người ngoài trên con đường tiến hóa của nhân loại.

2) Cưỡng bách giáo dục.- Muốn đạt được mục tiêu nói trên, nền tiểu học phải đi đến cưỡng bách giáo dục. Bộ đang nghiên cứu để t́m các phương tiện để dần dần thực hiện được sự cưỡng bách giáo dục. V́ lẽ đó, nên chương tŕnh tiểu học không dành một số giờ về môn Pháp ngữ.

3) Chuyển ngữ các môn trong chương tŕnh này là tiếng Việt, nên hạn tuổi tối thiểu vào lớp Năm, là lớp đầu bậc tiểu học, rút xuống 5 tuổi (trước kia 6 tuổi). Như thế, trẻ con có thể 10 tuổi đă học hết bậc tiểu học. Những học tṛ nào có thể theo học bậc trung học được th́ 17 tuổi đă thi lấy bằng Tú tài. So với nền trung học của các nước Âu Mỹ, th́ niên hạn ấy là tương đương, và các học sinh xuất sắc sau này vào các trường đại học cũng một loạt tuổi nhau cả.

4) Lớp mẫu giáo.- Muốn cho trẻ con trước khi vào trường tiểu học đă được huấn luyện theo các phương pháp khoa học, một lớp mẫu giáo sẽ thành lập gần đây. Lớp ấy có mục đích là đào tạo một số giáo viên các lớp mẫu giáo sau này để thu nhận các trẻ con dưới 5 tuổi.

5) Thể dục.- Cho nền giáo dục được hoàn toàn, chương tŕnh bậc tiểu học dành một địa vị quan trọng cho môn Thể dục. Một tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể cường tráng mới mong gánh vác nổi các công việc nặng nề kiến thiết quốc gia.
Ngoài ra, sự chú trọng về thể dục là sửa soạn một số thanh niên để sau này cung cấp cho các trường quốc gia vơ bị có nhiệm vụ gây một quân đội Việt Nam xứng đáng.

6) Ca nhạc.- Bí quyết của sự thành công trong việc giáo huấn trẻ con là sự hoạt động và vui vẻ. V́ lẽ đó, nên ngay từ các lớp tiểu học, Bộ đă để riêng một số giờ để dạy môn ca nhạc. Trẻ con thường thích hát và lại nhớ dai, những bài hát sẽ được lựa chọn, và sẽ luôn luôn nhắc nhở cho chúng những điều chúng cần biết để nuôi một tinh thần quốc gia mạnh mẽ, một ḷng tin vững chắc.

7) Tinh thần đoàn kết.- Một dân tộc mà rời rạc th́ tất nhiên yếu hèn, không thể sinh tồn trong cái thế giới hơn được kém thua này. Nghĩa đoàn kết là một lợi khí tối quan trọng trong sự tiến triển của một dân tộc. Học đường phải giải thích cho trẻ biết nghĩa hợp quần. Muốn cụ thể hóa nghĩa đoàn kết, việc tổ chức tập đoàn sẽ là một điều mới trong chương tŕnh bậc tiểu học.

8) Học đường không có nhiệm vụ chỉ giáo huấn trẻ con, rồi để mặc chúng tự ư xoay xở lấy. Muốn tránh những kết quả không hay do sự hiểu lầm ấy gây nên, học đường cần phải liên lạc mật thiết với gia đ́nh, để hướng dẫn học sinh vào các ngành chuyên môn.

Để giúp vào công việc ấy, sẽ lập những phiếu để ghi các điều nhận xét về sinh lư, về khả năng, về các điểm có liên can đến sức nảy nở của đứa trẻ về các phương diện.

9) Ngoài ra, nếu có thuận tiện, sẽ đặt một học xưởng cạnh mỗi trường học để học sinh có thể hằng ngày trực tiếp tế nhận các hoạt động của một tiểu công nghệ.



Hà Nội, ngày 24 tháng 8 năm 1949
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục
PHAN HUY QUÁT

b. Nội dung chương tŕnh

Chỉ xin ghi lại chương tŕnh Việt ngữ, Đức dục của lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba để có căn cứ so sánh với những chương tŕnh đến sau. Phần giới thiệu đầy đủ hơn sẽ dành cho Chương tŕnh Tiểu học 1959-1960 (ở mục 2, dưới kế tiếp), v́ Chương tŕnh 1959-1960 về căn bản cũng tương tự chương tŕnh này nhưng lại được sử dụng ổn định lâu dài trong suốt thời kỳ VNCH.

▪ Chương tŕnh Việt ngữ các lớp Năm, Tư, Ba (chỉ nêu tiêu biểu về phân môn Tập đọc và Học thuộc ḷng, và không chép lại “Lời nói đầu”):

- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]

Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng chữ một, từng âm vận một, từng tiếng một, rồi tới câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau học tṛ đă biết đọc từng bài ngắn. Cho học thuộc ḷng những câu ca dao, phương ngôn có ư nghĩa luân lư hoặc có tương quan với chương tŕnh Ngữ vựng, nhưng phải là những câu hay và vừa sức hiểu của học tṛ. Trong lúc học tṛ chưa biết đọc, biết chép bài, th́ ông giáo nên dùng thính giác và tập cho học tṛ lắp đi lắp lại những câu nên thuộc ḷng.

- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]

Tập đọc và học thuộc ḷng những bài hay và ngắn, có tương thích với chương tŕnh Đức dục và Ngữ vựng, những bài quốc ca, ca dao ư vị. Chú ư đến cách phát âm và giọng.

- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]

Tập đọc và học thuộc ḷng những bài hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần có tính cách luân lư, thiết thực. Tập đọc cho trôi chảy và ư vị, đọc cho tự nhiên, đừng ề à.

▪ Chương tŕnh Đức dục các lớp Năm, Tư, Ba (ghi đủ, nhưng không chép lại “Lời nói đầu”):

- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]

Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương tŕnh Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Ông giáo không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lư thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho trẻ những đức tính sau đây:

a) Bổn phận đối với bản thân.- Sạch sẽ, thứ tự, ăn uống điều độ, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.

b) Bổn phận trẻ con trong gia đ́nh.- Bổn phận đối với cha mẹ, đối với anh em, chị em. Sự tưởng niệm tổ tiên. Các ngày kỷ niệm trong gia đ́nh. Bổn phận đối với người trong họ. T́nh gia tộc. Đoàn hợp. Cách đối đăi với gia bộc (nhân từ, độ lượng, tử tế).

c) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời, biết ơn. Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa đoàn thể trong bè bạn, bênh vực kẻ yếu, không ghen ghét, không thóc mách.

d) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Thương kẻ khó, kẻ tàn tật.

Đọc những chuyện hay và tiểu sử danh nhân có bổ ích cho bài dạy.

- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]

Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định.

a) Bổn phận đối với bản thân.- Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Phải tập thể dục. Biết gắng công. Tính can đảm. Giữ phẩm giá ḿnh. Khi lầm lỗi biết xấu hổ. Tiết kiệm. Nhún nhường.

b) Bổn phận trẻ con trong gia đ́nh.- Ôn lại chương tŕnh lớp Năm. Thêm: Đừng làm cho cha mẹ, anh em mang tiếng xấu, giữ tiếng thơm cho gia tộc và tổ tiên.

c) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.

- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]

Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Ôn lại chương tŕnh hai lớp dưới [tức lớp Năm, lớp Tư] về bổn phận trẻ con đối với bản thân và đối với gia đ́nh.

a) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Ôn qua chương tŕnh lớp Năm. Thêm: bổn phận đối với thầy và bạn sau khi thôi học.

b) Bổn phận đối với Tổ quốc.- Bổn phận người dân trong nước: biết nỗ lực, không ỷ lại, biết hy sinh, ham tự do, trọng kỷ luật, giữ trật tự, trọng pháp luật. Gắng làm việc cho Tổ quốc. Khuyến khích mọi người cùng làm.

c) Bổn phận đối với người ngoài.- Ôn lại chương tŕnh lớp Tư. Thêm: trọng lời hứa, tờ giao kết. Giao tế chân thật, công tâm.

d) Xă giao.- Sự giao thiệp với bà con, họ hàng, làng xóm.

2. Chương tŕnh Tiểu học 1959-1960

a. Tổng quát

Trước chương tŕnh này, được biết c̣n có một Chương tŕnh Tiểu học tương tự được ban hành đầu niên học 1956-1957, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, nhưng chúng tôi không có sẵn trong tay tài liệu này. Chương tŕnh Tiểu học 1959-1960 thật ra chỉ là một bộ cải biên từ Chương tŕnh 1949 (đă giới thiệu ở trên) và Chương tŕnh 1956-1957, nội dung giữa chúng đều đại đồng tiểu dị (kể cả phần “Lời chỉ dẫn” đặt trước mỗi môn học, mà ở Chương tŕnh 1949 gọi là “Lời nói đầu”), và được sử dụng ổn định trong suốt quăng thời gian c̣n lại của chế độ VNCH, với vài chi tiết thay đổi không đáng kể.

Chương tŕnh Tiểu học 1959-1960 được ban hành theo Nghị định 1005-GD/NĐ ngày 16/7/1959 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, sửa đổi theo “Chương tŕnh bậc Tiểu học ấn định do Nghị định số 4-NĐ/GD ngày 27.8.1949 và các Nghị định sửa đổi và bổ túc kế tiếp” (Điều 1 Nghị định), “Các bảng phân chia giờ học giữa các môn và chương tŕnh học khóa đính theo Nghị định này sẽ áp dụng kể từ niên học 1959-1960” (Điều 2 Nghị định).

Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, cách gọi cũng như Chương tŕnh Tiểu học 1949, tức: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nh́ (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).

Các môn học, gồm 9 môn: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc - Học thuộc ḷng - Chính tả và Văn phạm - Tập làm văn - Tập viết), Đức dục và Công dân giáo dục, Sử kư, Địa lư, Thường thức (Quan sát và Vệ sinh), Toán, Vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên, Tṛ chơi, Thể dục và tṛ chơi.

Những nguyên tắc cải tổ chương tŕnh tiểu học để cho ra chương tŕnh 1959-1960 đă được đính kèm theo bản Nghị định 1005-GD/NĐ, đặt ở phần đầu bộ sách Chương tŕnh Tiểu học do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1960. Những nguyên tắc này có tính cách chỉ đạo giáo dục, thường được trích dẫn lại đầy đủ trong các giáo tŕnh dành cho ngành sư phạm (như trong sách Sư phạm thực hành của GS Trần Văn Quế, do Bộ Văn hóa Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964 và lần thứ hai năm 1969), đă thể hiện thêm bước nữa nỗ lực của các nhà chức trách miền Nam trong quá tŕnh tiếp thu ngày càng đầy đủ hơn tinh thần của nền giáo dục mới thời hiện đại. Văn bản này có tính cách quan trọng, nên dưới đây xin chép lại nguyên văn để làm tài liệu tham khảo:




NGUYÊN TẮC CẢI TỔ CHƯƠNG TR̀NH TIỂU HỌC


I.- Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam


1.Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dụcnhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy, nhằm mục đích phát triển toàn diện con người.

2.Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dụcdân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống mật thiết liên quan với những cảnh huống sinh hoạt như gia đ́nh, nghề nghiệp, đất nước và đảm bảo hữu hiệu cho sự sinh tồn, phát triển của quốc gia dân tộc.

3.Nền giáo dục Việt Nam phải có tính cáchkhai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học,phát huy tinh thần dân chủ và xă hội, thâu thái tinh hoa các nền vănhóa thế giới.



II. Đặc tính của nền Tiểu học Việt Nam


Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam đă được ấn định, nền Tiểu học Việt Nam cần có những đặc tính sau đây:

A.- Tôn trọng nhân cách trẻ em:

1) Giúp trẻ em phát triển điều ḥa và trọn vẹn tùy theo bản chất cá nhân và căn cứ trên định luật nảy nở tự nhiên về thể xác cũng như về tâm lư.

2) Tôn trọng cá tính và sở năng riêng biệt của trẻ.

3) Triệt để áp dụng kỷ luật tự giác.

4) Tránh mọi h́nh phạt phạm đến nhân vị của trẻ.

B.- Phát triển tinh thần quốc gia dân tộc:

1) Lấy đời sống nhân dân và thực trạng xă hội Việt Nam làm đối tượng.

2) Lấy Quốc sử để rèn luyện tinh thần ái quốc, nêu cao ư chí tranh đấu của dân tộc, gây t́nh thân ái và đoàn kết.

3) Dùng Quốc văn làm lợi khí sắc bén để trau giồi tư tưởng quốc gia.

4) Nêu cao vẻ đẹp của non sông Việt Nam, những tài nguyên phong phú của đất nước, những đức tính cố hữu của dân tộc.

5) Duy tŕ đạo lư cổ truyền và những thuần phong mỹ tục của dân tộc.

6) Gây đức tính tự tín, tự lập, tự cường.

C.- Rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học:

1) Triệt để áp dụng tổ chức “hàng đội tự trị”, phát triển tinh thần tập thể (chơi tập thể, làm việc tập thể) và gây ư thức cộng đồng.

2) Rèn luyện óc phê phán, tinh thần trách nhiệm, tinh thần kỷ luật.

3) Kích thích tính hiếu kỳ của trẻ, phát triển tinh thần khoa học.

4) Bài trừ dị đoan, mê tín.

5) Thâu thái tinh hoa văn hóa nước ngoài song song với việc phát huy tinh thần dân tộc.



III. Những nét chính trong việc sửa đổi chương tŕnh Tiểu học


Chương tŕnh Tiểu học ban hành đầu niên học 1956-1957, tuy đă được soạn thảo theo chương tŕnh mới để phù hợp với tinh thần độc lập của nước nhà và sự tiến hóa của dân tộc, nhưng sau 3 năm kinh nghiệm, Bộ Quốc gia Giáo dục nhận thấy cần phải cải thiện thêm cho thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.

Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam và những đặc tính của nền Tiểu học, việc sửa đổi chương tŕnh Tiểu học chú trọng đến những điểm sau đây:

1.- Rút nhẹ chương tŕnh

Chương tŕnh Tiểu học cần rút nhẹ để:

a) Sát với tuổi sinh lư và tâm lư của trẻ, thích ứng với nhu cầu thực tế.

b) Tránh lối học nhồi sọ.

c) Giúp cho trẻ phát triển điều ḥa về mọi mặt: trí dục, đức dục và thể dục.

d) Gắn liền học với hành, ḥa đời sống của học sinh vào đời sống của nhân dân, khiến chúng có nhiều cơ hội học hỏi nhân dân đồng thời giúp đỡ nhân dân.

2.- Băi bỏ ngoại ngữ: Theo chương tŕnh Trung học sửa đổi lại do Nghị định số 1286 ngày 12/8/1958 th́ khi lên Đệ thất học sinh mới bắt đầu học ngoại ngữ và tự do lựa chọn một trong hai sinh ngữ: Anh văn hoặc Pháp văn. Như vậy, việc dạy Pháp văn ở bậc Tiểu học xét ra không thiết thực nữa, cần phải băi bỏ, để trẻ em có thêm thời giờ trau giồi về Quốc văn mà giá trị cần được nâng cao ở tất cả các ngành và các bậc học.

3.- Băi bỏ Ban Hướng nghiệp: Ban Hướng nghiệp thiết lập do chương tŕnh ban hành đầu niên học 1956-57 có mục đích tập cho những học sinh bắt buộc phải trở về với công việc đồng áng, quen và thích sự sinh hoạt ở chung quanh, để chúng khỏi bỡ ngỡ sau khi rời khỏi ghế nhà trường tiểu học.

Theo tinh thần giáo dục mới th́ không riêng những trẻ em này, mà tất cả các học sinh đều phải được rèn luyện để có thể giúp ích cho đời sống hằng ngày tùy từng địa phương và tùy theo khả năng và sức khỏe của trẻ. V́ vậy, không cần chia thành 2 ban dự bị trung học và hướng nghiệp nữa.



IV.- Phương pháp sư phạm - Tài liệu giáo khoa


Soạn thảo một chương tŕnh đầy đủ chưa phải là hoàn thành được công cuộc cải tiến giáo dục. Để đạt được kết quả mong muốn, điều cốt yếu là phải áp dụng chương tŕnh theo tinh thần mới, việc giảng dạy phải theo những phương pháp sư phạm mới: phương pháp hoạt động, cụ thể, thính thị.

Chỉ thị ngày 24/8/1949 và Thông tư số 843-GD ngày 25/2/1952 của Bộ Quốc gia Giáo dục đă có nói rơ đại cương về tinh thần mới phải theo và phương pháp sư phạm mới phải áp dụng để cho việc giáo dục con em được thích ứng với nhịp sống của dân tộc trên con đường tiến hóa. Thêm vào đó, mỗi môn học sẽ có chỉ thị riêng nhấn mạnh vào những đặc điểm của chương tŕnh cải tổ và dẫn giải những phương sách cần thiết để trường tiểu học có thể tích cực hoạt động theo những khuynh hướng mới và làm tṛn nhiệm vụ của nó.

Ngoài ra, những điều giảng dạy cho trẻ phải được thấm nhuần tinh thần giáo dục mới. V́ vậy, việc biên soạn hoặc lựa chọn tài liệu giáo khoa phải triệt để căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam nói chung và những đặc tính của nền Tiểu học nói riêng, nhất là về Quốc văn, Việt sử, Địa lư, Đức dục, Công dân giáo dục v.v… là những môn không thể giảng dạy theo những tài liệu lỗi thời, không thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu Việt Nam hiện tại.

b. Nội dung chương tŕnh

Dưới đây chỉ ghi lại chương tŕnh học của 3 môn Việt ngữ, Đức dục và Công dân giáo dục với “Lời chỉ dẫn” giảng dạy cho từng môn của Bộ Quốc gia Giáo dục. Riêng môn Việt ngữ, chỉ ghi phân môn Tập đọc-Học thuộc ḷng (không ghi Ngữ vựng, Chính tả, Tập làm văn, Tập viết), để tránh rườm, nhưng cũng bởi v́ chỉ cần thông qua phân môn này, chúng ta đă đủ hiểu được nội dung giáo dục tư tưởng, đạo đức truyền thống của môn Việt ngữ mà các nhà giáo dục miền Nam trước đây muốn nhấn mạnh.



VIỆT NGỮ

LỜI CHỈ DẪN

Ngày nay khoa Việt ngữ được dùng để rèn đúc và phát huy tư tưởng dân tộc. Ngoài ra, khoa này c̣n nhằm mục đích:

1) Về thực tế, trực tiếp làm cho học sinh bậc Tiểu học có một căn bản ngữ vựng cần thiết trong sự học tập.

2) Giúp cho học sinh có những tài liệu dùng trong sự tiếp xúc hằng ngày:

a) Phát biểu tư tưởng của ḿnh bằng lời nói hoặc câu văn.

b) Hiểu biết tư tưởng của những người chung quanh ḿnh khi nghe lời nói hoặc khi đọc câu văn.

Chương tŕnh Việt ngữ gồm có:

- Ngữ vựng

- Tập đọc, Học thuộc ḷng

- Chính tả và Văn phạm, Tập viết

- Tập làm văn

Trong thời khắc biểu của các lớp tiểu học đều có ghi những môn ấy, riêng môn Tập làm văn không ghi ở thời khắc biểu lớp Năm [lớp 1 bây giờ]. Trong những giờ Ngữ vựng và Tập đọc, giáo chức phải tập cho học tṛ nói chuyện (nói cho bạo dạn và cho tự nhiên, có thứ tự, có đầu đuôi, đừng kéo dài từng tiếng một). C̣n môn Văn phạm [Ngữ pháp] th́ chỉ ghi trong chương tŕnh lớp Nh́ và lớp Nhất [lớp 4 và lớp 5 bây giờ], nhưng cũng cốt để dạy đại cương về ngữ pháp mà thôi. Giáo chức sẽ dùng những bài Chính tả hoặc Tập đọc để giúp học sinh nhận xét một vài định luật thông thường riêng của Việt ngữ, để giúp chúng trong việc tập làm văn.

Những vấn đề trong chương tŕnh đă ấn định sẽ học đi học lại kỹ lưỡng theo phương pháp tiệm tiến, đi từ chỗ biết đến chỗ chưa biết, từ chỗ gần đến chỗ xa, từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ cụ thể đến chỗ trừu tượng. Giáo chức phải dùng vật liệu, tranh ảnh hoặc tỉ dụ thiết thực để cụ thể hóa tất cả các vấn đề đem dạy cho học tṛ. Mỗi vấn đề sẽ dùng làm chủ điểm cho tất cả các môn Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc ḷng, Chính tả, Tập làm văn… Trong lúc dạy Việt ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương tŕnh ấy không phải đứng tách hẳn chương tŕnh của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lư v.v… mà phải cố t́m cách cho chương tŕnh các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau.

Ở lớp Nh́ và lớp Nhất, những danh từ khoa học và kỹ thuật (thuật ngữ), những danh từ Hán Việt hoặc ngoại lai (tân ngữ), những danh từ thường dùng trong công văn sẽ chiếm một phần quan trọng. Các tiếng gốc ở chữ Hán sẽ dạy nhiều hơn và giảng kỹ hơn, theo lối tách riêng từng chữ, rồi hợp lại mà giải nghĩa toàn cả tiếng, hoặc các câu thành ngữ.

Đặc biệt chú ư về Việt ngữ: nên nhẹ về phần tầm chương trích cú, nghệ thuật v́ nghệ thuật, mà phải chú ư đề cao vấn đề nghệ thuật v́ nhân sinh (phục vụ cho đạo đức con người, cho hạnh phúc gia đ́nh, cho an ninh xă hội, cho độc lập tự do).



CHƯƠNG TR̀NH


(Gồm Ngữ vựng-Tập đọc-Học thuộc ḷng-Chính tả-Văn phạm-Tập viết-Tập làm văn (từ lớp Tư), nhưng ở đây chỉ ghi 2 phân môn Tập đọc và Học thuộc ḷng, theo Chương tŕnh Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài G̣n, 1960)

LỚP NĂM
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng tiếng, từng câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau, học tṛ đă phải biết đọc từng bài ngắn, liên quan với chương tŕnh Ngữ vựng. Cho học thuộc ḷng những câu ca dao, tục ngữ, châm ngôn đượm màu sắc dân tộc có ư nghĩa luân lư hoặc tương quan với chương tŕnh Ngữ vựng nhưng phải là những câu hay, có tính cách thực tế và vừa sức hiểu của học tṛ. Trong lúc học tṛ chưa biết đọc, chưa biết chép bài, giáo viên nên dùng thính giác và tập cho học tṛ lặp đi lặp lại những câu nên thuộc ḷng (chú ư đến cách đọc cho đúng giọng).

LỚP TƯ
Tập đọc, học thuộc ḷng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực có tương quan với chương tŕnh Đức dục và Ngữ vựng, bài quốc ca, ca dao ư vị (chú ư đến cách phát âm và giọng).

LỚP BA
Tập đọc, học thuộc ḷng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực, có tương quan với chương tŕnh Đức dục và Ngữ vựng (tập đọc cho trôi chảy, tự nhiên, đừng ê…a…).

LỚP NH̀
Tập đọc, giải nghĩa, học thuộc ḷng những bài văn hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính cách luân lư, thiết thực. Nên chọn những bài văn mới có tinh thần quốc gia hay xă hội (tập đọc cho trôi chảy và có ư vị, đọc tự nhiên, đừng ê…a, để ư đến các “nhỡn tự”, giọng đọc phải thích hợp với ư tưởng, tính cách và t́nh tiết bài đọc.

LỚP NHẤT
Tập đọc, học thuộc ḷng những bài văn hay, vừa sức hiểu biết của học sinh, trích ở tác phẩm của các văn thi sĩ và các nhà chí sĩ hiện đại; tập cho quen các lối văn, tập cho học tṛ phê b́nh, giải thích. Đọc những tác phẩm khuynh hướng về đạo lư, về chủ nghĩa quốc gia, về t́nh cảm, về trào phúng của các văn gia và thi gia cận đại.



ĐỨC DỤC
LỜI CHỈ DẪN

Mục đích môn Đức dục là giúp cho trẻ em những đức tính tốt cần thiết cho một công dân của một nước độc lập. Vậy nguyên tắc của chương tŕnh Đức dục là gây cho học sinh có ḷng tự tín và tinh thần tự lập, có tinh thần quốc gia, giàu ḷng nhân đạo, bác ái, biết đoàn kết và hy sinh v́ chính nghĩa.

Muốn đạt được mục đích nói trên, chương tŕnh Đức dục không thể là một mớ bài luân lư để nhồi vào óc trẻ những lư thuyết suông; trái lại những bài luân lư là những lời huấn giới, những câu châm ngôn hoặc cách ngôn đích đáng, những nhận định chính xác, nêu rơ những đại ư về những nghĩa vụ chính trong đạo làm người. Trong khi giảng giải, ông thầy nên dạy sơ lược về phần lư thuyết và hết sức cụ thể hóa bài học, kể những chuyện vặt thông thường, những thí dụ rút ở đời sống thực tế hay ở truyện danh nhân nước khác. Nên đề cao đạo đức hơn tài năng. Đó là phương pháp làm cho học tṛ nhận thấy chân lư một cách rơ ràng và sẽ có công dụng là kích thích bản năng đạo lư của đứa trẻ.

Ngoài ra, công cuộc rèn luyện tính t́nh cốt ở sự thực hành. Bất cứ lúc nào, thầy giáo phải kiểm cố hành vi, cử chỉ học sinh, không để chúng sai lạc ngoài lối dạy, gây cho chúng những tập quán tốt, trừ khử những thói xấu, rèn luyện cho chúng hăng hái và quả quyết trong mọi trường hợp quan trọng.



CHƯƠNG TR̀NH


(Chỉ trích dẫn chương tŕnh Đức dục của 3 lớp đầu Năm, Tư, Ba, lược bớt 2 lớp Nh́, Nhất, theo Chương tŕnh Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài G̣n, 1960)

Lớp Năm (= Lớp 1)
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương tŕnh Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Giáo viên không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lư thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho chúng có những đức tính sau đây:

1) Bổn phận đối với bản thân: Sạch sẽ, ăn uống, thứ tự, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.

2) Bổn phận trẻ trong gia đ́nh: Bổn phận đối với cha mẹ, anh em, ông bà.- Các ngày kỷ niệm trong gia đ́nh.- Cách đối đăi với người ở (tử tế, dịu dàng).

3) Bổn phận trẻ ở học đường: Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời.- Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, ḥa thuận nhau, thương nhau – kín miệng.

4) Bổn phận đối với người ngoài: Lễ phép: Cách chào hỏi, xưng hô với kẻ dưới, người trên (trong nhà ḿnh, nơi nhà người, ngoài đường).

- Lớp Tư (Lớp 2)
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho phép một câu quyết định.

1) Bổn phận đối với bản thân.- Phải tập thể dục. Biết gắng công. Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Khi lầm lỗi biết hối cải. Tiết kiệm. Nhún nhường.

2) Bổn phận trẻ trong gia đ́nh.- Nhắc lại chương tŕnh lớp Năm. Thêm: Giữ tiếng thơm cho cha mẹ, ông bà. Bổn phận đối với họ hàng.

3) Bổn phận trẻ ở học đường: Nhắc lại chương tŕnh lớp Năm. Thêm: T́nh bè bạn.

4) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.

- Lớp Ba (Lớp 3)
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho chép một câu quyết định hay một câu châm ngôn.

1) Nhắc lại chương tŕnh lớp Tư: Bổn phận trẻ con đối với bản thân.

2) Bổn phận trẻ đối với gia đ́nh: Hiếu đễ. Bổn phận làm con: a) Khi c̣n nhỏ; b) Khi trưởng thành; c) Khi cha mẹ già yếu.

3) Bổn phận trẻ ở học đường.- Nhắc qua những điều đă dạy ở lớp Năm. T́nh bè bạn. Bổn phận đối với thầy và bạn: a) Ở học đường; b) Sau khi thôi học.

4) Bổn phận đối với người ngoài.- Nhắc lại những điều đă dạy ở lớp Tư. Thêm: Trọng lời hứa. Chân thật. Sự giao tiếp với bà con, họ hàng, làng xóm.

c) Nhận định về Chương tŕnh Tiểu học 1959-1960

Nh́n chung, Chương tŕnh Tiểu học 1959-1960 chỉ là một bản mô phỏng theo Chương tŕnh Tiểu học năm 1949. Ở không ít chỗ, người soạn chương tŕnh chỉ lược đi chút ít nội dung, hoặc thay đổi cách diễn đạt, sửa vài câu chữ.Thậm chí, giống nhau cả ở những “Lời nói đầu” hướng dẫn giảng dạy chương tŕnh dành cho mỗi môn học (mà Chương tŕnh 1959-1960 sửa lại là “Lời chỉ dẫn”).

- Theo nhận định chung của nhiều người, nội dung chương tŕnh quá nặng nề, c̣n rườm rà, phức tạp, kém thực tế, vượt quá tŕnh độ phát triển về trí năng và tâm lư của trẻ, như dạy Địa lư cho một em học sinh lớp 5 (lớp Nhất cũ) mà lại muốn cho nó phải “hiểu biết những khả năng mới về kinh tế, chính trị và văn hóa của nước nhà, của các nước lân cận và của các nước cường quốc năm châu; để rồi so sánh, suy nghĩ, đặng t́m cách theo kịp người hoặc vượt hơn người”, như trong Lời nói đầu một cuốn sách giáo khoa do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.

Nội dung chương tŕnh chuyển tải c̣n nặng về lư thuyết, thiếu thực tế, chưa sát với hoàn cảnh và nhu cầu địa phương (nhất là đối với các dân tộc thiểu số vùng cao), không thiết thực với hiện trạng nước nhà (xem phần đúc kết của Tiểu ban Tiểu học trong Đại hội Giáo dục Toàn quốc 1964, Văn hóa nguyệt san, tập XIV, tlđd., tr. 593). Lẽ ra phải có một chương tŕnh học cụ thể, có tính cách đại chúng và thực dụng hơn, gắn với đời sống thường nhật và khung cảnh sống của học sinh, và nên phát triển bậc Tiểu học theo hướng “cộng đồng hóa”, nghĩa là phải làm cho chương tŕnh học thích nghi với cộng đồng học sinh đang sống, tùy theo vùng miền: thôn quê khác thành thị, miền rừng khác miền biển… Như ở môi trường nông thôn th́ phải dạy ở mức thô sơ cho trẻ nhỏ về canh tác lúa gạo, trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, vệ sinh thường thức, kiến thức về một hai ngành tiểu công nghệ thông thường, về tổ chức xă thôn và phong tục tập quán ở thôn quê…; ở miền biển th́ nên dạy cho trẻ hiểu về nghề đánh cá, làm muối, làm nước mắm… “Quy tắc là trẻ trong hoàn cảnh nào th́ học nhiều về hoàn cảnh đó, c̣n những hoàn cảnh khác chỉ cần biết qua loa, như vậy học rồi mới có dịp hành. Về các môn Toán, Sử, Địa, Việt ngữ, vẫn chỉ nên dạy những cái thiết thực. Chương tŕnh Toán tỉa bớt đi một nửa cũng không hại… Trẻ chỉ cần làm được những bài toán thường dùng trong đời thôi, đừng bắt chúng làm những toán lắt léo về phân số, động tử, tỉ trọng như hiện nay…” (Nguyễn Hiến Lê, “Phải mạnh dạn cải tổ nền giáo dục Việt Nam”, Bách khoa số 130, ngày 1/6/1962, tr. 35).

Có tác giả đề nghị nên tăng thêm những giờ âm nhạc, hội họa và thủ công, “để gây khiếu thẩm mỹ trong tâm hồn non nớt của học sinh”, và “để các em yêu mến và tôn trọng công việc lao động, điều cần thiết trong một xă hội vốn chỉ quen cái học từ chương và sách vở.” (xem Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục, Nxb Lửa thiêng, Sài G̣n, 1970, tr. 100-105).

Một số ư kiến thuộc loại như vừa nêu trên có thể được coi như mầm mống của chủ trương cải cách giáo dục theo hướng “cộng đồng hóa” và “địa phương hóa” mà ngành giáo dục VNCH đă cố gắng thực hiện nhưng c̣n dang dở, trong những năm cuối cùng của chế độ.

3. Chương tŕnh Tiểu học 1967-1968

Chương tŕnh Tiểu học áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968 thật ra chỉ là một bản sao lại chương tŕnh cũ (1959-1960) ở trên. Sự thay đổi chút ít chỉ được thể hiện bằng đôi ba thông cáo hoặc công văn của cơ quan chức năng ngành giáo dục về việc sửa đổi chương tŕnh học của một vài môn học nào đó trong Chương tŕnh Tiểu học cũ trước, như:

a) Thông cáo số 86/SVL/GD/TTH/T ngày 22/1/1964 của Nha Tổng giám đốc Trung, Tiểu học và B́nh dân giáo dục về việc Sửa đổi chương tŕnh Đức dục, Công dân giáo dục và Quốc sử ở lớp Ba và lớp Nhất.

b) Công văn số 4865/GD/HL/1 ngày 30/6/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương tŕnh Khoa học bậc Tiểu học.

c) Công văn số 5501-GD/HL/1 ngày 1/8/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương tŕnh Đức dục bậc Tiểu học.


II. TÀI LIỆU VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC

1. Những tạp chí giáo khoa Tiểu học

Giai đoạn đầu sách giáo khoa tiểu học c̣n thiếu, nên thời Pháp thuộc và sau đó từ thời kỳ chuyển tiếp sang Quốc gia Việt Nam qua đến Việt Nam Cộng ḥa, nhà nước và một số tư nhân đă cho xuất bản những tạp chí phục vụ cho hoạt động giảng dạy ở các trường sơ đẳng hoặc tiểu học. Căn cứ Mục lục báo chí Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965) của Lê Ngọc Trụ (bản in roneo) và Thư tịch báo chí Việt Nam của Học viện Chính trị Quốc gia TP. HCM (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998), cùng một ít tài liệu hữu quan c̣n lưu giữ được ở vài thư viện, chúng tôi xin liệt kê theo thứ tự thời gian xuất bản, một số tạp chí chuyên về giáo khoa như sau:

- Học báo (1919-1944), Revue pédagogique à l’usage des écoles primaires de l’Annam et du Tonkin (Tạp chí sư phạm dùng cho các trường sơ đẳng ở Trung và Bắc Kỳ), do một nhóm giáo viên biên tập dưới sự chỉ đạo của Sở Học chính Bắc Kỳ, Nhà in Trung Bắc tân văn, Hà Nội (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ năm, từ số 9 đến 39, năm 1924).

- Sư phạm học khoa (1922-1939) (Journal des écoles), tuần báo ra ngày thứ Hai (Lê Ngọc Trụ ghi: Số 14 đến 33, năm 1923).

- Khuyến học (1935-1937), bán nguyệt san xuất bản tại Hà Nội. Chủ nhiệm: Nguyễn Xuân Thái (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 1/9/1935; đ́nh bản số 3 [bộ mới] tháng 4/1937).

- Sơ học tuần báo (1930-1932), Revue hebdomadaire pour l’enseignement primaire/ Tuần báo dùng cho giáo dục sơ đẳng. Xuất bản ở Hà Nội, Chủ nhiệm là Nguyễn Xuân Mai (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 29/11/1930, đ́nh bản số 57 ngày 22.5.1932).

- Bạn trẻ học sanh (1940), bán nguyệt san xuất bản tại Sài G̣n. Quản lư: Đoàn Văn Châu (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1, ngày 25/4/1940 đ́nh bản).

- Giáo dục tạp chí (1942-1944), Revue pédagogique, publié par un groupe de mandarins et de membres de l’enseignement en Annam/ Tạp chí giáo dục được xuất bản do một nhóm quan viên và thành viên ngành giáo dục ở Trung Kỳ, dưới sự bảo trợ của Thượng thư Bộ Học. Xuất bản hàng tháng tại Huế bằng hai thứ chữ Việt và Pháp. Chủ nhiệm: Nguyễn Khoa Toàn. (Lê Ngọc Trụ ghi Năm thứ 1, số 1-2, tháng 9-10.1942; theo Nguyễn Xuân Hoa trong Lịch sử báo chí Huế, Nxb Thuận Hóa, 2013 th́ số 1 ra tháng 9-10 năm 1941, số cuối năm 1944).

- Giáo khoa tạp chído Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản trong niên học 1948-1949 tại Sài G̣n, phục vụ cho việc giảng dạy bậc Tiểu học. Chủ bút là Nguyễn Văn Bường (Thanh tra Tiểu học). Phần Pháp văn do H. Truchet (Thanh tra Liên tỉnh) phụ trách, phần tiếng Việt do một nhóm giáo viên Sài G̣n-Chợ Lớn. Mỗi số đều có Phần tổng quát và Phần giáo khoa. Phần tổng quát đăng vài ba bài viết của giáo chức về lư luận, phương pháp giáo dục/ dạy học; Phần giáo khoa chia ra: Lớp Tiếp liên (Tập I), Lớp Nhứt (Tập II), Lớp Nh́ (Tập III), Lớp Ba (Tập IV), Lớp Tư (Tập V) và Lớp Năm (Tập VI), với đủ các môn học trong nhà trường đương thời.

- Giáo dục nguyệt san (Enseignement 1er degré/ Bậc Tiểu học) xuất bản năm thứ nhất 1947, kéo dài đến năm 1949.

- Muốn đậu bằng tiểu học (1953), nguyệt san xuất bản tại Sài G̣n. Chủ nhiệm: Vũ Hữu Tiềm. Tập 1, tháng 4/1953; số cuối cùng: tập 8 tháng 11/1953.

- Hiếu học, tuần báo giáo khoa xuất bản tại Hà Nội vào ngày thứ năm (tập đỏ dành cho bậc Tiểu học). Năm thứ nhất 1953, kéo dài đến 1954. Chủ nhiệm: Bùi Cẩm Chương.

- Tiểu học nguyệt san (1955-? ), do Bộ Quốc gia Giáo dục Sài G̣n xuất bản, số 1-2 tháng 1-2/1955. Ra đều hàng tháng, cung cấp tài liệu giảng dạy cho giáo viên, gồm đủ các môn học thuộc chương tŕnh bậc Tiểu học. Không rơ đ́nh bản từ năm nào, nhưng trong tay chúng tôi hiện c̣n giữ được số 7 tháng 2/1965 (niên khóa 1964-1965). Bộ biên tập ghi: Chủ bút: Ông Giám đốc Nha Tiểu học (không ghi rơ họ tên); Phụ tá Chủ bút: Ông Đặng Duy Chiểu, Thanh tra Tiểu học Trung ương, Nha Tiểu học; Tổng thư kư: Ông Đinh Gia Dzu, Pḥng Học chế Nha Tiểu học; Thư kư: Bà Trần Thị Mẹo, Pḥng Thanh tra Nha Tiểu học… Ở mỗi số Tiểu học nguyệt san, trước khi vào phần giáo khoa dạy các bài học theo chương tŕnh của bộ, đều có các phần Luận thuyết, Tạp trở (đăng thông tin…), Văn uyển (đăng thơ, văn dịch), Nghị định (đăng các nghị định, công văn liên quan ngành giáo dục). Phần giáo khoa được sự cộng tác thường xuyên của đông đảo giáo viên, trong đó có một số người được nhiều người biết như Hà Mai Anh, Thềm Văn Đắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Tất Lâm, Văn Công Lầu, Vương Pển Liêm…

- Hiếu học, tuần báo do Nxb Sống mới ấn hành tại Sài G̣n. Tập I đến số 16 (1959).

- Chăm học (1959), tuần báo xuất bản tại Sài G̣n, ra được từ tập 1 đến tập 12. Giám đốc: Nguyễn Văn Hợi.

2. Sách giáo khoa Tiểu học

Sách giáo khoa bậc Tiểu học viết bằng tiếng Việt đă được biết tới từ thời Pháp thuộc, xuất hiện lai rai có lẽ từ sau Đạo dụ ngày 31/5/1906 ấn định nền học chính mới, và nhất là sau khi Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ban hành Học chính tổng quy năm 1917 với sự điều chỉnh ở Điều 134 bằng Nghị định ngày 18/9/1924 quy định phải dạy bằng tiếng bản xứ cho ba lớp đầu bậc tiểu học. Đây cũng là lư do sự ra đời của bộ sách giáo khoa “Việt Nam tiểu học tùng thư” viết bằng tiếng Việt dành cho các môn học bậc Ấu học do Nha Học chính Đông Pháp chủ trương và xuất bản.

Hiện chúng tôi c̣n giữ được bản photo cuốn Méthode de Quốc ngữ (illustrée) dạy vỡ ḷng tiếng Việt do J.C Boscq biên soạn dùng cho học sinh các trường học Đông Dương, bản in lần thứ 13 tại Sài G̣n năm 1914. Quyển này được đóng gộp chung với quyển Morale Pratique (Luân lư thực hành) của cùng tác giả với sự cộng tác dịch thuật của Nguyễn Văn Tâm, giáo viên Trung học Mỹ Tho. Quyển sau này cũng dùng cho học sinh các trường học Đông Dương, bản in lần thứ 6 năm 1926 tại Sài G̣n, nội dung toàn tiếng Việt, dạy về luân lư, với những bài học như: Phong hóa, Lương tâm, Thân tộc, Phải vâng lời cha mẹ, Anh em chị em, Huynh đệ hữu ái, Bổn phận tôi tớ, Nhà trường, Khuyến học, Cần học, Kẻ biếng nhác, T́nh bậu bạn, Phải giúp nhau, Xấu nết hết bạn…

Trong những năm 20-40 của thế kỷ trước, nhiều sách dạy tiếng Việt hay Quốc văn bậc Tiểu học đă ra đời. Được biết, hiện Thư viện Quốc gia (Hà Nội) và vài tư nhân vẫn c̣n lưu giữ được một số sách giáo khoa môn tiếng Việt bậc tiểu học như sau:

- Ấu học bị thể (Un peu de tout) của Henri Le Bris, bản cải biên của Huỳnh Văn Ninh để dùng cho học tṛ các trường ở Đông Dương, in lần thứ 3 tại Sài G̣n năm 1916, gồm những bài tập đọc bổ ích về Kiến thức phổ thông, Địa lư, Lịch sử, Hành chính.

- Quốc-ngữ sơ học vấn tân của Nguyễn Mạnh Khoa, 37 trang, Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội, 1924.

- Lên Sáu: Sách vần quốc ngữ của Nguyễn Khắc Hiếu, 23 trang, Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội, 1924.

- Ấu viên tất độc của Trần Phong Sắc, tác giả tự xuất bản, năm 1925.

- Méthode pratique pour l’étude du Quoc ngu: à l’usage des écoles annamites (Phương pháp thực hành Quốc ngữ dùng cho các trường Annam) của Đỗ Thận, 15 trang, Nhà in Lê Văn Phúc in lần thứ 21, Hà Nội, 1926.

- Sách dạy vần quốc ngữ của Đỗ Thận, 15 trang, Nhà in Lê Văn Phúc in lần thứ 22, Hà Nội, 1927.

- Tiếng một An Nam dùng cho học tṛ Sơ đẳng tiểu học do Tống Viết Toại biên soạn, Nhà in Đắc Lập, Huế, 1927. Ngoài b́a ghi: “Nhà nước đă nhận sách này vô bản kê những sách học trong các trường Pháp Việt cơi Đông Pháp (Nghị định Quan Toàn quyền ngày 15 Octobre 1927)”.

- Tập đọc và Học thuộc ḷng (Lớp Sơ đẳng và Trung đẳng năm thứ nhất) của Mai Văn Phương, Bùi Huy Huệ, 121 trang, Nhà in Trung Bắc tân văn in lần thứ 2, Hà Nội, 1937 (in lần thứ 3 năm 1939).

- Tân Việt văn độc bản (Lớp trung đẳng, năm thứ nhất và thứ nh́), 84 trang, nhà in Legrand, Hà Nội, 1942.

Nhưng đặc biệt, chúng ta ngày nay c̣n biết khá nhiều tới ba sách giáo khoa rất nổi tiếng một thời, gồm Quốc văn giáo khoa thư chia thành 2 quyển dành cho lớp Sơ đẳng (= lớp Ba sau này) và lớp Dự bị (= lớp Tư hay lớp 2), Luân lư giáo khoa thư lớp Đồng ấu (= lớp Năm hay lớp 1) đều của nhóm Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc… biên soạn trong tủ sách “Việt Nam tiểu học tùng thư” do Nha Học chính Đông Pháp xuất bản khoảng năm 1926 và được sử dụng vừa chính thức vừa rộng răi trong suốt giai đoạn trước năm 1949. Riêng Quốc văn giáo khoa thư và Luân lư giáo khoa thư, v́ giá trị giáo dục lâu bền của chúng, gần đây đă được nhiều nhà xuất bản (như Trẻ, Thanh niên Văn học…) cho in lại nên có thể t́m đọc dễ dàng. Riêng một ḿnh tác giả Trần Trọng Kim c̣n có quyểnSơ học luân lư dùng cho lớp Sơ đẳng, xuất bản lần đầu năm 1919, “soạn đúng như chương tŕnh chính phủ mới định” (“Tựa” của tác giả, Sơ học luân lư, Nxb Tân Việt, Sài G̣n, 1950, tr. X).

Về những môn học khác, trong bộ “Việt Nam Tiểu học Tùng thư” bằng tiếng Việt do Nha Học chính Đông Pháp chủ trương xuất bản, c̣n có: Hán văn tân giáo khoa thư của Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi lớp Đồng ấu, lớp Dự bị và lớp Sơ đẳng in từng cuốn riêng lần thứ nhất trong năm 1928; Sử kư giáo khoa thư và Toán pháp, Cách trí, Địa dư lớp Đồng ấu, Cách trí giáo khoa thư lớp Sơ đẳng của nhóm tác giả Trần Trọng Kim-Nguyễn Văn Ngọc…; Vệ sinh giáo khoa thư lớp Đồng ấu và lớp Dự bị của Bác sĩ Guillemet (Chánh Sở Y chính xứ Ai Lao)…


Từ 1949, bước sang thời kỳ Quốc gia Việt Nam (1949-1955), với chương tŕnh Trung và Tiểu học mới ban hành năm 1949, sách giáo khoa các môn học bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Riêng về môn Quốc văn bậc Tiểu học, hiện chúng tôi cũng c̣n giữ được cuốn Bài đọc Quốc văn của Lê Văn Chánh ở Mỹ Tho biên soạn (“Lời nói đầu” ghi 1/11/1948) dành cho lớp Nh́, lớp Nhứt trường Sơ đẳng, do Nxb Minh tân (Paris) xuất bản (v́ sách mất b́a lưng nên không nhận ra năm xuất bản đích xác). Dựa theo danh sách liệt kê giới thiệu ở b́a lưng một quyển sách khác xuất bản năm 1954 của Nxb Minh tân th́ sách Bài đọc Quốc văn của Lê Văn Chánh chia làm 3 quyển I, II, III, nhưng quyển chúng tôi đang có trong tay không thấy ghi số quyển ǵ cả. Sách dày chỉ 94 trang khổ 13 x 19cm, “ngoài những bài trích ở các sách quốc văn, chúng tôi c̣n dịch phỏng theo hay dựa theo những bài của các tác giả Anh, Pháp và Mỹ…”, với mục đích “tập trẻ con thưởng thức những bài tả cảnh, tả tâm lư, tả h́nh trạng người và vật một cách thiết thực và luôn tiện dạy các trẻ con dựa theo mấy bài ấy mà mô tả những quan sát của riêng ḿnh” (trích “Lời nói đầu”).
Ngoài quyển Bài đọc Quốc văn nêu trên, tác giả Lê Văn Chánh c̣n có Học tiếng Việt Nam (lớp Nh́, lớp Nhứt trường Sơ đẳng), Cổ kim đồng thoại (có lẽ thuộc dạng bài đọc thêm cho học sinh tiểu học), đều do nhà Minh tân xuất bản.

Tiên phong xuất hiện trong khoảng thời gian này, có thể kể:

- 100 bài tập đọc, loại sách giáo khoa, 2 quyển, lớp Nhứt và lớp Nh́ của “Một nhóm giáo viên” xuất bản, năm 1949.

- Tiểu học Việt Nam Văn phạm (Giáo khoa thư) của Nguyễn Quang Oánh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, 160 trang, Nhà in Lê Thăng, Hà Nội, bản in lại của Nxb Xuân thu năm 1950.

- Văn phạm Việt Nam lớp Nh́ và lớp Nhất ban Tiểu học của Việt Quang, 105 trang, Nxb Nam Việt, 1951.

- Văn phạm Tiểu học lớp Nh́ và lớp Nhất của Bùi Văn Bảo và Vân Tŕnh, “Soạn theo chương tŕnh của Bộ Quốc gia Giáo dục, do Đồng bích xuất bản, in lần thứ nhất tại Hà Nội năm 1952.

- Bộ Việt ngữ độc bản 2 quyển (I & II) của nhóm Huỳnh Văn Đó, Nguyễn Hữu Thông, Tăng Văn Chương soạn theo Chương tŕnh Tiểu học 1949, do Nam Hưng ấn quán xuất bản tại Sài G̣n năm 1951. Lời giới thiệu đầu sách của Nguyễn Văn Trương: “Quyển Việt ngữ độc bản này ra đời rất đúng giờ. Học tṛ ban Tiểu học cần có nó đặng tập luyện quốc văn, hầu ứng thí vào lớp đệ thất niên trường Trung học”.

Ngoài ra c̣n có: Sách học Quốc văn lớp Ba, lớp Tư, lớp Năm (in thành từng cuốn riêng) đều do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản trong năm 1951; Vần Việt Nam, Quốc văn lớp Nh́ (quyển I & II) của “Một nhóm giáo viên”, Quốc văn Toàn thư lóp Ba của nhóm Phạm Trường Xuân biên soạn, đều do Nxb Việt Hương ấn hành tại Sài G̣n năm 1951.
- Tân quốc văn lớp Ba của Trần Ngọc Chụ, Hoàng Quư B́nh, Hoàng Đ́nh Tuất, Nxb Nam sơn, Hà Nội, 1951 (?). Gồm các môn Tập đọc - Học thuộc ḷng - Chính tả - Văn phạm - Tập làm văn. “Bộ Quốc gia Giáo dục đă duyệt y làm sách giáo khoa”.

- Tân quốc văn (Tập đọc - Học thuộc ḷng) lớp Nhất của Trần Ngọc Chụ, Hoàng Quư B́nh, Hoàng Đ́nh Tuất, Nxb Nam sơn, In lần thứ tư, Hà Nội, 1951.
Về những môn học khác ngoài môn Văn, chúng tôi ghi nhận:

- Một số sách giáo khoa do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản: Sử Việt Nam lớp Nh́ của Bùi Đ́nh San (1950), Khoa học thường thức lớp Ba của Nguyễn Đ́nh Huề (1950).

- Công dân giáo dục phổ thông của Nhật Hoành Sơn, Nxb Ngày mai, Hà Nội, 1949.

- Khoa học Quan sát lớp Nh́ và lớp Nhứt của nhóm Huỳnh Văn Đó…, Khoa học Thực nghiệm lớp Nh́ và lớp Nhứt, đều do Nam hưng ấn quán xuất bản tại Sài G̣n năm 1951.

- Cách trí lớp Nhứt và lớp Nh́ của Lê Văn Chánh, Toán pháp lớp Nhứt của Lâm Tô Bông, đều do nhà Minh tân xuất bản khoảng 1953.

- Khoa học thường thức (Quan sát và Nông phố học) lớp Ba, Địa dư Việt Nam lớp Nh́ và lớp Nhứt của “Một nhóm giáo viên” biên soạn, đều do Nxb Việt hương ấn hành năm 1951.

Đến thời VNCH (1955-1975), việc xuất bản sách giáo khoa Tiểu học bắt đầu phát triển mạnh, nói chung (không kể cấp lớp), do cả nhà nước (Bộ Quốc gia Giáo dục) lẫn tư nhân song song thực hiện.

Về phía nhà nước, từ năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng ḥa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để biên soạn và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Ban Tu thư đến năm 1965 đổi thành Sở Học liệu (Chánh sự vụ đầu tiên là ông Trịnh Huy Tiến, kế sau là ông Lư Chánh Đức), dự trù in ra 14 triệu cuốn sách từ lớp Năm (lớp 1) đến lớp Nhất (lớp 5), đến năm 1966 đă in được 7 triệu cuốn. Sở Học liệu sau lại đổi tên thành Trung tâm Học liệu, được coi như một nha không có nhiều sở, đặt dưới quyền của một Giám đốc, có một Phó giám đốc phụ tá. Ngoài các pḥng ban b́nh thường, Trung tâm Học liệu c̣n có: Văn pḥng Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn, Ban Tu thư-Dịch thuật và Ấn loát, và nhà in. Ngoài bộ phận biên soạn in ấn sách giáo khoa, trung tâm này c̣n phụ trách một Pḥng Phát thanh học đường. Đây là một trong những pḥng dùng để thực hiện một chương tŕnh giáo dục đặc biệt dưới h́nh thức vui chơi giải trí qua đài phát thanh, khởi đầu từ năm 1966 dưới sự trợ giúp của cơ quan JUSPAO và của Nhật, nhằm phổ biến để bổ túc một số bài học dạng kịch ngắn hoặc tṛ vui chơi sinh động tới đối tượng học sinh tiểu học trên toàn quốc (phần miền Nam).

Tháng 4/1974, trung tâm được chính phủ chấp thuận cho biến thành một cơ sở hoạt động theo cơ chế tự trị để dễ dàng hợp tác với các tổ hợp ấn hành sách báo Anh Pháp Mỹ hầu có thể in sách giáo khoa với giá rẻ (xem Văn hóa tập san tập XXIII, số 2 năm 1974, tr. 179). Sách bán của Trung tâm Học liệu có mạng lưới phát hành trên toàn quốc, từ Huế, Đà Nẵng vào tới Ba Xuyên (Cà Mau bây giờ). Các đại lư thuộc vùng Sài G̣n và tỉnh lỵ Gia Định được hưởng hoa hồng 25%; ở xa hơn được hưởng từ 30% đến 35%; người sử dụng có thể đến mua sách ngay tại trung tâm nhưng phải mua từ 10 cuốn trở lên cho mỗi đầu sách, và được bớt 10% so với giá b́a.

Tính đến năm 1972, Trung tâm Học liệu Bộ Quốc gia Giáo dục đă ấn hành được 40 đầu sách tiểu học, không kể khoảng 50 đầu sách khác (phần lớn loại học vần) dành riêng cho đồng bào các sắc tộc.

Có thể liệt kê sách các môn học do Ban Tu thư, Sở Học liệu và Trung tâm Học liệu thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục đă xuất bản như sau:

- Việt ngữ: Em học vần lớp Một của nhóm soạn giả Văn Công Lầu, xuất bản lần thứ 1 năm 1963, lần thứ 5 năm 1971; Em học Việt ngữ lớp Hai của nhóm soạn giả Văn Công Lầu, xuất bản lần thứ 1 năm 1965, lần thứ 3 năm 1968; Tập đọc từ lớp Ba tới lớp Năm (mỗi lớp một cuốn riêng) của các soạn giả Bùi Văn Bảo, Nguyễn Huy Côn, Hà Mai Anh.

- Đức dục và Công dân giáo dục: Em tập tính tốt từ lớp Một đến lớp Năm của các soạn giả Huỳnh Công Tú, Nguyễn Văn Quan, Trịnh Ngọc Thâm, Văn Công Lầu.

- Khoa học thường thức: Em t́m hiểu khoa học lớp Một tới lớp Năm (mỗi lớp một quyển riêng) của các soạn giả Lê Đ́nh Huyên, Trương Thị Tài, Hà Mai Anh, Trần Quang Giu.

- Toán: Em học toán từ lớp Một đến lớp Bốn (mỗi lớp một cuốn riêng) của các soạn giả Hà Mai Anh, Nguyễn Huy Côn; Toán pháp lớp Năm của nhóm soạn giả Châu Ngọc Cảnh.

- Sử kư: Quốc sử từ lớp Hai tới lớp Năm (mỗi lớp một cuốn riêng) đều của nhóm soạn giả Phạm Văn Trọng.

- Địa lư: Em học địa lư lớp Hai và lớp Ba (mỗi lớp một cuốn riêng) của nhóm soạn giả Trần Trọng Phan, Văn Công Lầu; Địa lư lớp Bốn và lớp Năm (mỗi lớp một cuốn riêng) của các soạn giả Đinh Ngọc Ấn, Nguyễn Hồng.

- Vệ sinh: Giữ ǵn sức khỏe lớp Một, Tập thói quen tốt lớp Hai, Sống vui sống mạnh lớp Ba, Tăng cường sức khỏe lớp Bốn, Pḥng ngừa bệnh tật lớp Năm, tất cả đều của nhóm soạn giả Bùi Văn Bảo.

Ngoài những sách chính nêu trên, c̣n có khoảng chục sách khác dành cho một số môn học phụ như Thủ công, Thể dục, Dưỡng nhi, Tṛ chơi…

Bộ sách của Bộ Giáo dục được đánh giá cao cả về nội dung lẫn h́nh thức, phần lớn được “soạn thảo và ấn hành trong khuôn khổ chương tŕnh hợp tác giữa Bộ Giáo dục và Phái bộ Kinh tế Hoa Kỳ tại Việt Nam”, như lời ghi ở trang trong, đầu sách. B́a sách thường được in từ hai đến bốn màu (loại in chồng màu, không phải in offset), bên trong có rất nhiều h́nh vẽ minh họa hai màu.

Sách giáo khoa do Bộ Giáo dục phát hành có 2 loại: loại viện trợ “tặng, không bán” ngoài b́a lưng có ghi: “Nhân dân Hoa Kỳ với sự hợp tác của Bộ Văn hóa Giáo dục Việt Nam Cộng ḥa thân tặng các trường sở tại Việt Nam”; và loại có ghi giá, nhưng được bán với giá rất rẻ, bằng chừng 1/10 sách của các nhà xuất bản tư nhân. Số lượng bản in ghi trong sách mỗi lần xuất bản thường từ 200 đến 250 ngàn cuốn, tuy nhiên vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng cho cả nước.

Có tài liệu cho biết, sách do Trung tâm Học liệu in phát không cho học sinh (và yêu cầu giáo chức sử dụng) quá ít. Riêng tại đô thành Sài G̣n-Chợ Lớn, chỉ vài em có đủ sách, c̣n th́ phải chia ra 7-8 em một quyển. “Ở đô thành c̣n thế, t́nh trạng thiếu sách ở thôn quê c̣n trầm trọng hơn nữa” (xem “Hiện trạng nền tiểu học Việt Nam”, trong Các vấn đề giáo dục, quyển II của nhóm Lê Thanh Hoàng Dân, Trẻ xuất bản, 1971, tr. 40).

Về sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa tiểu học nói riêng, không thể không nói đến bộ phận sách giáo khoa do tư nhân xuất bản, chiếm một tỷ trọng c̣n lớn hơn so với sách của Bộ Quốc gia Giáo dục. Phần v́ nhà nước không kham nổi (số học sinh trường tư chiếm đến gần 20% tổng số học sinh toàn quốc), phần khác, trong một nền giáo dục dân chủ như thời VNCH, ở cả hai bậc Trung và Tiểu học, mọi giáo viên đều được quyền biên soạn sách giáo khoa căn cứ theo chương tŕnh ấn định chung của bộ, rồi tự giao dịch với các nhà in, nhà xuất bản tư nhân để ấn hành; sách của ai soạn tốt sẽ được tín nhiệm dùng rộng răi, cũng là nguồn lợi lớn cho một số giáo viên có khả năng và các nhà xuất bản kinh doanh năng động. Có thể nói, mảng sách giáo khoa này “sống được” nên đă trở thành một thị trường đặc biệt và cạnh tranh nhộn nhịp, bằng cách luôn cập nhật chương tŕnh, cải tiến nội dung và kỹ thuật in ấn, với sự xuất hiện của hàng chục nhà xuất bản và một số nhà phát hành tư nhân, chủ yếu tập trung tại thủ đô Sài G̣n. Trong thời kỳ này (những năm 60-70 của thế kỷ trước), riêng về sách giáo khoa bậc tiểu học, đáng kể nhất có các nhà xuất bản Sống mới, Việt hương, Nam sơn, Thanh đạm, Thái dương…, và nhà Tổng phát hành Nam cường.

Để h́nh dung tính cách phong phú của mảng sách giáo khoa tư nhân, dưới đây xin ghi lại một số tên tác giả và tên sách giáo khoa tiểu học tiêu biểu được lưu hành rộng răi do tư nhân biên soạn, phát hành (không kể rất nhiều những sách dùng cho việc học thêm các môn, nhất là môn Toán, cũng như những sách dùng để luyện thi lấy bằng Tiểu học và thi tuyển vào Đệ thất trường công).

- Việt ngữ:

+ Mẫu tự Việt Nam dành cho các em nhỏ của Trịnh Tuấn Lâm, in lần thứ 8, năm 1967; Vần Việt ngữ lớp Vỡ ḷng của Trần Thị Thơm, Nxb Sống mới, 1968; Vui học ABC lớp Mẫu giáo và lớp 1, Em tập đọc lớp 1 đều của Nguyễn Tất Lâm, Nxb Nam sơn, 1974.

+ Quốc văn toàn tập, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo và Đoàn Xuyên, Nxb Sống mới, 1957; Quốc văn toàn thư, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Đặng Duy Chiểu, Nxb Sống mới, 1957; Việt ngữ bộ mới, 5 cuốn, của Thềm Văn Đắt-Nguyễn Hữu Thanh-Nguyễn Hữu Bảng, Nxb Nam sơn, 1961; Quốc văn toàn thư, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhứt (lớp 5) của Phạm Trường Xuân-Yên Hà-Kinh Dương, Nxb Việt hương, 1966; Quốc văn bộ mới, 5 cuốn, từ lớp Năm tới lớp Nhất của Lê Thành Phát-Phạm Trường Thiện, Nxb Việt hương; Việt văn toàn thư 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Bùi Văn Bảo-Bùi Quang Minh, Nxb Nhật Tảo, 1970; Tiểu học Quốc văn 5 cuốn từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Hà Mai Anh, Nxb Sống mới, 1957; Quốc văn tân biên 5 cuốn từ lớp Năm tới lớp Nhất, gồm bộ cũ 1969 và bộ mới 1972 đều do Sống mới xuất bản; Việt văn tân tập 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Đặng Duy Chiểu và một nhóm giáo viên, Nxb Sống mới, 1970-1973; Tân Việt văn 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống Mới, 1967-1971; Việt ngữ toàn thư 5 cuốn từ lớp 1 tới lớp 5 của Bùi Văn Bảo-Bùi Quang Minh-Chu Đức Nhuận, Nxb Sống mới, 1974; Tân Việt ngữ, 5 cuốn, từ lớp 1 đến lớp 5 của Nguyễn Tất Lâm, Nxb Nam sơn, 1974; Việt ngữ,5 cuốn, từ lớp 1 tới lớp 5 của nhóm Lửa Việt, Nxb Cành hồng, 1974.

+ Chính tả Văn phạm, 3 cuốn từ lớp Ba (lớp 3) tới lớp Nhất (lớp 5) của Đặng Duy Chiểu, Chính tả Văn phạm lớp Nhất của Bùi Văn Bảo; Chính tả Văn phạm của Trịnh Thiên Tư, đều do Nxb Sống mới, 1957.

+ Ngữ vựng, 2 cuốn, từ lớp Nh́ (lớp 4) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo-Đoàn Xuyên-Bùi Quang Kim-Trịnh Ngọc Thâm, Nxb Sống mới, 1957.

+ Việt luận (lớp Nhất, Nh́ tiểu học, các lớp Đệ Thất, Lục, Ngũ, Tứ - Đề thi Trung học Đệ nhất cấp) của Nghiêm Toản, In lần 5, Nxb Thế giới, 1956; Việt luận, 3 cuốn, từ lớp Ba (lớp 3) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống mới, 1957; Tập làm văn lớp Ba, Tập làm văn lớp Nh́, Em luyện Việt văn (165 bài luận lớp Nhất) đều của Cao Văn Thái, Nxb Thanh đạm; Luận văn lớp 4, 111 bài luận mẫu lớp 5, đều của Nguyễn Tất Lâm, Nxb Nam sơn, 1974
.
- Đức dục: Đức dục, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Đặng Duy Chiểu, Nxb Sống mới, 1957; Đức dục lớp Năm và lớp Tư (in từng cuốn riêng) của Cao Văn Thái và Hoàng Kim Long, Nxb Thanh đạm, Sài G̣n, 1959.

- Công dân giáo dục: Công dân giáo dục lớp Ba, lớp Nh́ và lớp Nhất (in từng cuốn riêng) của Nhật Hoành Sơn, Nxb Nguồn sống, Sài G̣n, 1956; Công dân giáo dục lớp Nhất củaLê Nguyên Lam, Nxb Nguồn sống, Sài G̣n, 1956; Công dân giáo dục lớp Nh́ và Nhất (in từng cuốn riêng) của Nguyễn Hữu Bảng, Nxb Thanh đạm, Sài G̣n, 1959; Công dân giáo dục lớp Nh́ và lớp Nhất (in từng cuốn riêng) của Đinh Xuân Ḥa, Nxb Nam Việt, Sài G̣n, 1959; Công dân giáo dục lớp Năm, lớp Tư và lớp Nhất (in riêng từng cuốn) của Phan Văn Chiêu, Nxb Sống mới, Sài G̣n, 1959-1960; Công dân giáo dục lớp Nhất của Lê Đ́nh Huyên và Trịnh Ngọc Nguyễn, Nxb Nam sơn, Sài G̣n, 1960…

- Khoa học thường thức: Câu hỏi thường thức lớp Nhất (lớp 5) của Khổng Trọng Thu; Tiểu học thường thức cẩm nang của Hà Mai Anh, đều do Nxb Sống mới, 1957…

- Toán: Toán pháp, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của nhóm Cao Văn Thái-Hà Mai Anh-Vũ Tiến Thu-Khổng Trọng Thu-Nguyễn Mạnh Tuân; Số học, 4 cuốn, từ lớp Tư (lớp 2) tới lớp Nhất (lớp 5), H́nh học Đo lường, 4 cuốn, từ lớp Tư (lớp 2) tới lớp Nhất (lớp 5), Quy tắc công thức toán tiểu họccủa Khổng Trọng Thu; H́nh học lớp Nh́, H́nh học lớp Nhất, 100 câu hỏi toán của Trương Quan Liêm, tất cả đều do Nxb Sống mới, 1957; Toán pháp, 5 cuốn, từ lớp Năm tới lớp Nhất của nhóm Lê Thuận-Vũ Mạnh Đôn-Nguyễn Doăn Khanh, do Thái dương xuất bản, Sống mới phát hành năm 1965.

- Sử kư: Việt sử, 3 cuốn, từ lớp Ba tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống mới, 1957.

- Địa lư: Địa lư lớp Ba của Đoàn Xuyên; Địa lư lớp Nh́ và Địa lư lớp Nhất của Hoàng Thế Mỹ, đều do Nxb Sống mới, 1957.

- Vệ sinh: Vệ sinh, 5 cuốn, từ lớp Năm (lớp 1) tới lớp Nhất (lớp 5) của Bùi Văn Bảo, Nxb Sống mới, 1957.

Qua sự liệt kê tượng trưng như trên, chúng ta thấy rơ ràng sách giáo khoa tiểu học thuộc khu vực tư nhân ở miền Nam trước đây đă thật sự “trăm hoa đua nở”, thậm chí trở thành một thị trường năng động.

Sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa tiểu học nói riêng là một loại sản phẩm văn hóa đặc biệt hơn các loại sản phẩm văn hóa khác, đă trở thành món hàng tinh thần có mức cầu rất cao gần như cơm gạo vậy. Trong điều kiện cạnh tranh, chúng phát triển phong phú đa dạng và cho ra những sản phẩm tốt được tín nhiệm. V́ thế cho nên, mặc dù Bộ Giáo dục có yêu cầu các trường công lập phải dùng sách do bộ tổ chức biên soạn, nhưng sách giáo khoa tư nhân vẫn c̣n miếng đất màu mỡ để sống là số học sinh tư thục chiếm 20% tổng số học sinh tiểu học cả nước, thậm chí c̣n canh trạnh lại với khu vực sách giáo khoa nhà nước.

Trong lĩnh vực môn học Việt ngữ, một vài soạn giả nổi tiếng (như Bùi Văn Bảo, Hà Mai Anh, Đặng Duy Chiểu…) có sách phổ biến rộng đến nỗi khiến ta có cảm tưởng cả đời họ chỉ làm việc và sống bằng sách giáo khoa tiểu học. Soạn sách cho tư nhân tạo được uy tín nhất định một thời gian rồi, họ c̣n được mời vào Ban Tu thư để soạn sách cho Bộ Giáo dục, hoặc trở thành cộng tác viên thường xuyên cho một số tạp chí giáo khoa, như tờ Tiểu học nguyệt san do bộ chủ trương biên tập. Có tác giả (như Bùi Văn Bảo…) có sách tái bản liên tục, mà những cuốn sau chỉ là sự cải biên, với việc sửa chữa bổ sung, cập nhật hóa, phát triển lên từ những sách đă được chính ḿnh soạn trước, nhưng nhờ vậy mà sách được ngày càng hoàn thiện hơn.

Để cạnh tranh nhằm thuyết phục giới chức tiểu học chọn dùng sách ḿnh, các tác giả cùng nhà xuất bản đều ra sức cải tiến cả về h́nh thức lẫn nội dung, cho những lần xuất bản sau.

Nói chung về h́nh thức, phần lớn sách đều in b́a 2 màu (lúc này chưa phát triển kỹ thuật in offset), bên trong vẽ nhiều h́nh minh họa nét đen trắng, với một số trang phụ bản bằng h́nh vẽ nét hoặc h́nh chụp in một màu. Giấy in sách xấu hay tốt, tất nhiên, cũng khác nhau tùy theo chủ trương kinh doanh của từng nhà xuất bản.

Để tạo “thương hiệu” riêng, mỗi tác giả (hoặc nhóm tác giả) thường đặt cho sách ḿnh biên soạn một cái tên phân biệt với tác giả, nhà xuất bản khác, bằng cách, như ta đă thấy, thay đổi tên gọi môn học (Việt ngữ, Quốc ngữ, Việt văn, Quốc văn…) rồi thêm vào đó một số cụm từ như “toàn thư”, “toàn tập”, “bộ mới”, “tân biên”, hoặc thêm chữ “tân” ở phía trước tên môn học (như Tân Quốc văn…), hoặc đảo “Quốc văn Tiểu học” thành “Tiểu học Quốc văn”…

Cũng có trường hợp sách in sai chính tả hoặc xuất hiện lỗi in (lỗi morasse) nhưng không đáng kể. Lỗi sai kiến thức ít khi xảy ra song vẫn có, như trong những năm 1969-1970, báo chí đă từng vạch lỗi một cuốn sách khoa học nọ đă nhầm lẫn cái hàn thử biểu (thermomètre, c̣n gọi nhiệt kế hay ống thủy) với cái phong vũ biểu (baromètre, c̣n gọi khí áp kế). Do thỉnh thoảng có sự sơ suất hoặc cẩu thả như vậy trong sách giáo khoa, nên có người lúc bấy giờ đă viết nhắc: “Tôi yêu cầu Bộ Giáo dục, các giáo sư, các nhà để ư về sự học, yêu cầu quư vị nghĩ phương thức nào để tạo ra những sách vững chắc, bảo đảm mười mươi như tự điển Petit Larousse…, những sách tái bản 30, 40 năm, mà uy tín ở thế giới nguyên vẹn” (Văn hóa tập san, tập XXIII, tlđd, tr. 154).

V́ lư do cạnh tranh và cũng để thu hút người sử dụng, đôi khi có nhóm tác giả cho in ngay ở đầu sách bức thư kêu gọi giáo chức và các bậc phụ huynh học sinh chú ư đến sách của ḿnh, bằng cách mô tả chi tiết những điểm đặc sắc nổi bật về h́nh thức lẫn nội dung, với lời lẽ không khỏi vương chút mùi quảng cáo: “Tóm lại, Quốc văn bộ mới, với sự phong phú của đề tài đă ghi thêm một giai đoạn mới và cũng là một công tŕnh giáo khoa mà chúng tôi hân hạnh gởi đến quư bạn món quà “Đầu Niên Học”. Chúng tôi đinh ninh sẽ không phụ ḷng tín nhiệm của quư bạn đồng nghiệp và ước mong được góp phần trong sự nghiệp chung của giáo giới” (trích thư gởi “Quư vị giáo chức và các bậc phụ huynh học sinh”, in ở đầu sách Quốc văn bộ mới lớp Tư của Một nhóm giáo viên “Việt hương”, Nxb Việt hương).

Để tiêu thụ được nhiều sách, nhất là những sách mới “ra ḷ” sau, cũng có hiện tượng tiêu cực xảy ra, như tác giả hoặc nhà xuất bản ăn cánh với cấp lănh đạo giáo dục địa phương (Trưởng Ty Giáo dục/ Chánh Sở Học chánh…) để được giới thiệu sách xuống đơn vị trường học, hoặc chi hoa hồng trực tiếp cho giáo chức. Chính ông Tổng trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục & Thanh niên Ngô Khắc Tỉnh năm 1974 đă có lúc phàn nàn rằng dù Trung tâm Học liệu đă ấn hành được sách giáo khoa giá rẻ, nhưng có nhiều giáo viên v́ ăn hoa hồng của các nhà xuất bản nên chỉ buộc học sinh sử dụng sách của nhà xuất bản cho ḿnh hoa hồng, với giá cao gấp 10 lần hơn giá của Trung tâm Học liệu, và chính điều này đă gây khó khăn cho một số gia đ́nh nghèo.

Về nội dung, tất cả đều phải “Soạn theo chương tŕnh của Bộ Văn hóa Giáo dục” (câu ghi ngoài b́a sách), nhưng chương tŕnh của bộ chỉ vạch đề cương chứ không bó buộc, nội dung cụ thể các bài học bên trong có thể rất khác nhau tùy theo soạn giả. Họ chỉ cần tôn trọng chương tŕnh và lời hướng dẫn chung của Bộ Giáo dục về môn học, rồi tự do chọn bài đưa vào sách. Nhờ vậy, nội dung sách giáo khoa phong phú, mỗi người một vẻ, và trong điều kiện được tự do như thế, các giáo chức soạn sách cũng cố thi đua cạnh tranh nhau một cách tự giác để soạn ra những giáo tŕnh được nhiều người vừa ư, chấp nhận.

Riêng môn Việt ngữ, các bài Tập đọc, Chính tả, Học thuộc ḷng ở các lớp nhỏ (Năm, Tư, Ba/ 1, 2, 3) một phần do chính soạn giả hoặc cộng tác viên đặt lấy, phần khác trích ra từ một số tác phẩm văn học đă có danh tiếng; ở các lớp lớn hơn (Nh́, Nhất/ 4, 5), bài vở loại này thường được trích từ tác phẩm văn học, sách báo đủ loại, hoặc đăng những bài Học thuộc ḷng bằng văn vần do những cộng tác viên là nhà thơ sáng tác.

Để thí dụ cho thấy h́nh thức, nội dung cụ thể của một sách Việt ngữ được triển khai ra như thế nào từ đề cương chương tŕnh của Bộ Giáo dục, dưới đây xin trích dẫn “Lời nói đầu” trong bộ Tân Việt văn (5 cuốn từ lớp Năm đến lớp Nhất) do Bùi Văn Bảo biên soạn từ năm 1964:

1. Về h́nh thức: Chữ in rơ ràng, sáng sủa ít lầm lẫn. Các bài tập đọc đều được đưa lên đầu trang và ở cuối tuần [v́ bài học được phân bố theo 30 tuần lễ trong năm học-TVC] lại có những bài tập đọc vui bằng văn vần và văn xuôi, những tranh giải trí, gợi óc ṭ ṃ và trí phán đoán của trẻ em, khiến chúng càng vui mà học. Ngoài ra các tranh minh họa của một họa sĩ hữu danh, được in nhiều màu tươi đẹp [thật ra chỉ màu đen, đỏ hoặc xanh, tùy lần xuất bản-TVC], sẽ rất thích hợp với cảm quan của các em từ 6 đến 12 tuổi, xưa nay chỉ ưa nét vẽ và màu sắc.

2. Về nội dung: Các bài đều được biên soạn theo đúng phương châm sư phạm là đi từ dễ đến khó và luôn luôn có tính chất vui vẻ, linh hoạt, thiết thực.

a) Về bài Tập đọc cần liên quan đến chương tŕnh Ngữ vựng… Ở đây, từ lớp Năm đến lớp Nhất, tại lớp nào chúng tôi cũng nhờ thẳng các nhà văn yêu trẻ soạn những bài Tập đọc thành một câu chuyện liên tục, sát thực tế và gần gũi với trẻ em hơn. Học sinh trong khi tập đọc, sẽ t́m thấy ở đó những người bạn quen thuộc, cùng làm việc và cảm nghĩ như ḿnh, chắc chắn sẽ thấy thêm phần hứng thú.

b) Để không thiếu sót, ở các bài Chính tả, chúng tôi đă lựa chọn những đoạn văn hay trong nhiều văn phẩm để cho các em làm quen với các lối hành văn khi th́ bay bướm, văn hoa, khi th́ hùng mạnh, sắc bén của các văn gia nổi tiếng.

c) Về cách giải nghĩa hoặc đặt câu hỏi (…).

d) Về văn vần dùng làm các bài Học thuộc ḷng, chúng tôi đă hợp tác cùng một số thi sĩ để soạn riêng những vần thơ trong sáng, dễ hiểu, giàu nhạc điệu cho thích hợp với các em hơn.

(In lại trong Tân Việt văn lớp Năm, Nxb Sống mới, 1971)

Về nội dung giáo dục đạo đức trong các bài học của môn Việt ngữ tiểu học, chủ yếu tập trung ở hai phân môn Tập đọc và Học thuộc ḷng, chúng tôi đă có lần phân tích khá kỹ trong một bài viết trước, nên ở đây xin phép không lặp lại dài ḍng (xem Trần Văn Chánh, “Những bài học thuộc ḷng, một thứ văn chương tiểu học của miền Nam trước đây”, Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (95).2012). Nh́n chung, đa số các soạn giả soạn sách giáo khoa bậc Tiểu học đều cố gắng noi theo những tôn chỉ đă được Bộ Giáo dục nêu ra trong “nguyên tắc của nền giáo dục Việt Nam” (Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng) và trong những “lời chỉ dẫn” giảng dạy cho từng môn học mà họ đều ghi ra ở đầu cuốn sách giáo khoa Việt ngữ của ḿnh.




VIETBF Diễn Đàn Hay Nhất Của Người Việt Nam

HOT NEWS 24h

HOT 3 Days

NEWS 3 Days

HOT 7 Days

NEWS 7 Days

HOME

Breaking News

VietOversea

World News

Business News

Car News

Computer News

Game News

USA News

Mobile News

Music News

Movies News

History

Thơ Ca

Sport News

Stranger Stories

Comedy Stories

Cooking Chat

Nice Pictures

Fashion

School

Travelling

Funny Videos

Canada Tin Hay

USA Tin Hay


florida80
R11 Độc Cô Cầu Bại
florida80's Avatar
Release: 05-02-2019
Reputation: 604425


Profile:
Join Date: Aug 2007
Posts: 113,793
Last Update: None Rating: None
Attached Thumbnails
Click image for larger version

Name:	BXVRNdv.jpg
Views:	0
Size:	125.0 KB
ID:	1375815  
florida80_is_offline
Thanks: 7,446
Thanked 47,149 Times in 13,135 Posts
Mentioned: 1 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 511 Post(s)
Rep Power: 161 florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11florida80 Reputation Uy Tín Level 11
The Following 3 Users Say Thank You to florida80 For This Useful Post:
Blue_bonnet (05-02-2019), HongThai (05-02-2019), theone09 (05-02-2019)
 
Page generated in 0.26123 seconds with 10 queries