Có vẻ t́nh h́nh giữa 2 nước Mỹ và Trung Quốc đang trở nên căng thẳng hơn rất nhiều kể từ khi Mỹ chính thức thực hiện kế hoạch tuần tra Biển Đông. Trung QUốc đă lên tiếng đáp trả rất mạnh mẽ và có thể sẽ dẫn tới xung đột vũ trang trên Biển Đông nếu t́nh h́nh không khả quan hơn v́ cả Mỹ và Trung Quốc đều tỏ ra cứng rắn với phía c̣n lại.
Một thập niên qua, hải quân và không quân Mỹ - Trung đă “chạm mũi” nhau nhiều lần. Cách đây vài tháng, Mỹ đă đưa máy bay do thám P-8 vào không phận quốc tế phía trên các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng. Vài ngày trước khi Tập Cận B́nh sang Mỹ (cuối tháng 9-2015), hai chiến đấu cơ Trung Quốc cũng bay gần máy bay do thám Mỹ RC-135 tại Hoàng Hải.
Tháng 8-2014, chiến đấu cơ Trung Quốc J-11 thậm chí bay cách một chiếc P-8 chỉ 6m! Tháng 9-2015, 5 tàu chiến Trung Quốc lọt vào khu vực 12 hải lư thuộc duyên hải Alaska vào ngay thời điểm Tổng thống Barack Obama kinh lư bang này.
Không chỉ các cuộc chạm trán mang tính thăm ḍ, phát biểu hai bên cũng biểu thị rơ thái độ và chủ kiến. Không lâu sau khi Tập phát biểu tại Mỹ rằng, Trung Quốc không có ư định quân sự hóa khu vực, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng Bắc Kinh có quyền xây những “căn cứ quân sự” cho “mục đích pḥng vệ” tại các đảo tranh chấp.
Phần ḿnh, Mỹ nhắc đi nhắc lại quyền tự do hàng hải. Cần nhấn mạnh, tự do hàng hải là một khái niệm mang tính chính sách của Mỹ, không phải là một phát biểu suông. Nó nằm trong khuôn khổ chính sách quốc pḥng lẫn an ninh kinh tế của Mỹ từ sau Thế chiến thứ hai. Nó nằm trong cái gọi là “Chương tŕnh Tự do hàng hải” của Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ.
Các hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ đều tuân theo những nguyên tắc của chương tŕnh này. Năm 2014, Mỹ thực hiện các hoạt động tự do hàng hải (freedom of navigation operation-FONOP) nhằm bác bỏ tuyên bố chủ quyền và “lệnh” cấm giao thông hàng hải đối với 19 quốc gia, trong đó có Trung Quốc.
Tháng 3-2015, Bộ Quốc pḥng Hoa Kỳ lại “nói to” về tự do hàng hải: “Kể từ thời lập quốc, Mỹ luôn khẳng định quyền lợi sống c̣n trong việc bảo vệ và duy tŕ tự do hàng hải và luôn kêu gọi quân đội các nước bảo vệ lợi ích này”.
Sự kiện USS Lassen đánh dấu một bước đi cứng rắn cụ thể hơn của Washington đối với Trung Quốc?
Năm 2002, Trung Quốc kư Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea-DOC).
Điều 3 DOC nói rơ: “Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của ḿnh đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời Biển Đông như đă được quy định bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982”.
Điều 4 ghi: “Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lănh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện ḥa b́nh mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982”.
Điều 5 ghi: “Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự kiềm chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới ḥa b́nh và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những ḥn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rạn đá ngầm, băi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lư những khác biệt của ḿnh bằng phương pháp có tính xây dựng”…
Trung Quốc ngạo mạn và ngang ngược, đă phá bỏ các cam kết DOC. Tháng 5-2009, Bắc Kinh thông báo với Liên Hiệp Quốc rằng, họ “có chủ quyền không thể tranh căi trên các đảo ở Biển Đông”. Tháng 7-2010, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng họ có “bằng chứng lịch sử và pháp lư” cho tuyên bố chủ quyền của ḿnh.
Tháng 11-2013, Bắc Kinh áp đặt vùng nhận biết pḥng không (ADIZ) tại Đông Hải, không chỉ chồng lấn ADIZ Hàn Quốc và Nhật trong đó có không phận Senkaku mà c̣n yêu cầu tất cả máy bay đi vào “ADIZ” của họ phải báo cáo và tuân theo sự hướng dẫn của không lưu Trung Quốc! Phản ứng, Mỹ đưa 2 oanh tạc cơ B-52 vào…
Tiếp đó, tháng 12-2013, Trung Quốc bắt đầu kế hoạch xây đảo nhân tạo tại 7 địa điểm ở Biển Đông. Cuối năm 2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng việc xây dựng “chủ yếu nhằm cải thiện điều kiện sống và làm việc của những người Trung Quốc sống trên đảo”.
Tháng 4-2015, sau khi ảnh vệ tinh cho thấy rơ một đường băng đang xây trên một trong những ḥn đảo nhân tạo trên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc, lần đầu tiên ngửa bài: Hoạt động của họ là nhằm “đáp ứng những yêu cầu quân sự cần thiết”.
Ngày 20-5-2015, thế giới đă thấy hệ thống quân sự tại các đảo nhân tạo Trung Quốc như thế nào, khi nhóm phóng viên CNN tháp tùng trên chiếc P-8 và nghe rơ cảnh báo từ phía Trung Quốc rằng P-8 phải lập tức rút đi v́ đang bay vào “vùng cảnh báo quân sự”.
Bộ trưởng Quốc pḥng Mỹ Ashton Carter, sau đó tuyên bố: “Mỹ sẽ bay, giao thông hàng hải và hoạt động tại bất cứ nơi nào luật quốc tế cho phép” và rằng “việc biến một ḥn đá ch́m thành sân bay không thể đủ căn cứ để tuyên bố chủ quyền hoặc hạn chế đi lại trên không phận lẫn hàng hải”.
Ngày 11-8-2015, đại sứ Trung Quốc tại Philippines Triệu Giám Hoa lên tiếng: “Tự do hàng hải không có nghĩa cho phép nước khác thâm nhập vào không phận vùng biển có chủ quyền… không có nghĩa tàu chiến và máy bay được tự do đi vào…”.
Tất cả cho thấy Trung Quốc không c̣n giấu giếm ư định quân sự hóa Biển Đông và phát biểu của Tập Cận B́nh về chuyện Bắc Kinh không có ư định quân sự hóa khu vực tranh chấp, chỉ là một gạch đầu hàng bổ sung vào danh sách những lời dối trá của chính quyền Trung Quốc.
Tự do hàng hải, với FONOP, trong lịch sử Mỹ, như đă nói, là vấn đề thuộc về chính sách an ninh quốc gia. Như được thuật từ Foreign Affairs (12-10-2015), năm 1801-1805, Hải quân Mỹ đă lần đầu tiên thực thi việc bảo vệ lợi ích thương mại hàng hải trong cuộc chiến Barbary (giữa Mỹ và các nước duyên hải Barbary thuộc sắc tộc Berber nằm ở Bắc Phi), khi hải tặc Barbary yêu cầu các tàu buôn Mỹ phải cống nạp mới được phép đi ngang Địa Trung Hải.
Phản ứng, cả Nội các Thomas Jefferson và sau đó là James Madison tuyên chiến. Jefferson đánh đợt đầu (1801-1805), đưa quân vào các thành phố của hải tặc (nay là Libya, Tunisia và Algeria); Madison đánh tiếp đợt hai vào năm 1815.
Đến năm 1979, thời Tổng thống Jimmy Carter, các hoạt động bảo vệ quyền tự do hàng hải mới được chính thức đưa vào chương tŕnh “Tự do Hàng hải” (FONOP), thuộc sự giám sát của Bộ Quốc pḥng lẫn Bộ Ngoại giao.
Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm phản đối về mặt ngoại giao; Bộ Quốc pḥng và Bộ Ngoại giao tổ chức thảo luận với các đối tác nước ngoài về luật quốc tế; Bộ Quốc pḥng chịu trách nhiệm thực hiện các chiến dịch tuần dương khẳng định quyền tự do hàng hải.
Tính đến nay, Bộ Quốc pḥng Mỹ đă thực hiện nhiều vụ tuần dương vào những vùng biển thuộc các nước mà Mỹ cho rằng họ tự tuyên bố chủ quyền: 19 hải vụ năm 2013 và 35 hải vụ năm 2014 (trong đó có 19 vụ nằm thuộc vùng quản lư địa lư của Bộ Tư lệnh Thái B́nh Dương Hoa Kỳ).
vietbf @ sưu tầm