Từ đầu tháng 7, thông tin về một “thỏa thuận thương mại” giữa chính quyền Trump 2.0 và Việt Nam bất ngờ lọt vào truyền thông phương Tây.
Đây là thỏa thuận thứ hai chính quyền Trump 2.0 đạt được sau UK, nằm trong chiến dịch tái áp thuế nhằm vào các nền kinh tế có thặng dư lớn với Mỹ.
Nhưng đối với Việt Nam, cái giá phải trả cho một “deal” như thế không chỉ là thuế quan.
Đó là sự lựa chọn chiến lược có thể làm thay đổi vị trí địa chính trị của đất nước trong hệ thống quốc tế đang ngày càng phân cực.
Ngày 2/7/2025, sau nhiều ṿng đàm phán kín, Washington và Hà Nội thông qua một “thỏa thuận” mà Trump cho là chiến thắng, nhưng phía Việt Nam tránh nhắc tới trên truyền thông chính thức.
Ông Trump cho biết trên nền tảng "Truth Social", hàng hóa từ Việt Nam sẽ phải chịu mức thuế 20% và bất kỳ hàng hóa trung chuyển nào từ các nước thứ ba sẽ phải chịu mức thuế 40%. Ông c̣n nhấn mạnh rằng hàng xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam sẽ không phải chịu thuế.
AP hôm 22/7 tiết lộ rằng, Nhật Bản và Philippines đă đạt được những thỏa thuận thương mại công khai với Mỹ, đi kèm với các cam kết chiến lược rơ ràng trong khuôn khổ America First 2.0.
Trong khi đó, Việt Nam – quốc gia xuất siêu lớn thứ tư vào Mỹ (sau Trung Quốc, Mexico và Ireland) – lại bị lôi vào bàn cờ thương mại với vị thế yếu và áp lực gián tiếp từ Washington.
Một thỏa thuận không công bằng?
Theo các nguồn tin từ BBC và Politico, thỏa thuận Mỹ–Việt mang nặng tính áp đặt từ phía Washington: Việt Nam buộc phải giảm thặng dư thương mại bằng các cam kết tăng nhập khẩu hàng hóa Mỹ, hạn chế chuyển tải bất hợp pháp từ Trung Quốc, và thay đổi chính sách tỷ giá.
Đổi lại, Mỹ chỉ áp thuế tạm thời 10% lên các mặt hàng chủ lực như gỗ, dệt may, đồ điện tử cho đến ngày 1/8/2025 chờ kết quả đàm phán cuối cùng.
Quan chức Việt Nam, theo các nguồn ẩn danh, bày tỏ sự “khó chịu” khi bị đối xử như một bên yếu thế dù đă chủ động hợp tác ngay từ ngày 4/4/2025.
So với Nhật Bản hay Philippines – những quốc gia được hưởng ưu đăi chiến lược rơ ràng – Việt Nam rơi vào thế lưỡng nan: Bị xem là “kẻ hưởng lợi quá mức” trong cán cân thương mại, nhưng lại chưa đủ thân cận chính trị để được miễn trừ áp lực thuế quan.
Điều này cho thấy một thực tế: Việt Nam đang phải trả giá cho chính sách “đu dây chiến lược” giữa Mỹ và Trung Quốc, trong khi bối cảnh toàn cầu đ̣i hỏi những quyết định dứt khoát hơn bao giờ hết.
Bước ngoặt địa–chiến lược đă đến
Không như thời kỳ 2017–2020, bối cảnh hiện nay đặt ra thách thức nghiêm trọng cho Việt Nam.
Mỹ đang bước vào một chu kỳ chủ nghĩa bảo hộ mới, nơi các liên minh không c̣n dựa trên ḷng tin, mà là lợi ích tính toán và hành động cụ thể.
Trump đă nhiều lần cảnh báo rằng Mỹ không tiếp tục bảo vệ miễn phí cho các nước không cam kết đầy đủ về thương mại và an ninh. Trong khi đó, Trung Quốc vẫn duy tŕ sức ép ngày một lớn trên Biển Đông, trong không gian mạng, và qua các kênh kinh tế, tài chính ngầm.
Việt Nam, với vai tṛ là một trong những trung tâm sản xuất và logistics mới của thế giới, đang được cả Washington và Bắc Kinh “kéo về phía ḿnh.”
Nhưng điều này không thể kéo dài măi.
Bài học từ Philippines rất rơ: Tổng thống Marcos Jr. đă chọn đứng về phía Mỹ, đổi lại là các cam kết kinh tế, an ninh và ngoại giao cụ thể.
Từ công nghệ quốc pḥng, chia sẻ t́nh báo, đến ưu đăi thương mại – cái giá của sự lựa chọn là rơ ràng, nhưng cái lợi cũng không hề nhỏ.
Thuế đổi chiến lược: Việt Nam sẽ nhượng bộ đến đâu?
Để đạt được mức thuế ưu đăi 10–12% dưới thời Trump 2.0, Hà Nội cần chấp nhận các điều kiện rơ ràng – không chỉ về thương mại, mà c̣n liên quan đến các cam kết chiến lược nhằm củng cố trật tự Ấn Độ Dương – Thái B́nh Dương dựa trên luật lệ:
1. Ngăn chặn hàng Trung Quốc “đội mác Việt” một cách nghiêm túc và minh bạch. Đây là yêu cầu cơ bản nhằm duy tŕ niềm tin trong chuỗi cung ứng Mỹ và tránh t́nh trạng Việt Nam trở thành “cửa hậu” cho Trung Quốc.
2. Cho phép hải quân Mỹ sử dụng cảng Cam Ranh theo cơ chế luân phiên định kỳ và hậu cần kỹ thuật, nhằm tăng chiều sâu chiến lược của Mỹ tại Biển Đông. Với vị trí địa–chiến lược độc đáo, Cam Ranh có thể đóng vai tṛ như “bản lề hải quân” giữa Đông Bắc Á và eo biển Malacca. Đây là điều Washington đặc biệt quan tâm, nhất là trong bối cảnh Hải quân Trung Quốc ngày càng mở rộng hiện diện ở Biển Đông và xa hơn ra Thái B́nh Dương.
3. Tham gia Indo-Pacific Maritime Coalition với cam kết chiến lược – tức không chỉ “góp mặt” mà phải đóng vai tṛ tích cực trong cơ chế phối hợp thông tin, cảnh giới biển, bảo vệ tuyến hàng hải và thực thi luật pháp quốc tế, đặc biệt UNCLOS 1982.
4. Kư hiệp định khai thác và cung ứng đất hiếm cho Mỹ với tính minh bạch cao, nhằm giảm phụ thuộc vào chuỗi cung ứng đất hiếm từ Trung Quốc. Việt Nam hiện được coi là một trong những nước có trữ lượng đất hiếm lớn nhất thế giới sau Trung Quốc, nhưng năng lực khai thác và chế biến c̣n hạn chế. Nếu hợp tác nghiêm túc, Việt Nam có thể trở thành mắt xích chiến lược trong chiến lược “tái công nghiệp hóa nước Mỹ” mà Trump nhấn mạnh.
Chỉ khi Việt Nam thực hiện điều kiện số 1 và 2, mức thuế có thể giảm về 12% hoặc thấp hơn, và nếu cả bốn điều kiện đều được đáp ứng, 10% là mức tối ưu như cam kết với Vương quốc Anh – và có thể áp dụng cho Singapore trong một số lĩnh vực nhạy cảm. Đây là mức thấp nhất mà Mỹ có thể chấp nhận trong bối cảnh chính quyền Trump 2.0 đang đẩy mạnh chính sách “đánh thuế để kiểm soát chiến lược”.
Ngược lại, nếu chỉ thực hiện điều kiện số 1 và 3, mà không bao gồm các nhượng bộ mang tính chất địa–chiến lược (điều 2 và 4), mức thuế mà Việt Nam nhận được có thể dao động từ 15–20%, hoặc tệ hơn, 40% nếu Washington xác định có dấu hiệu gian lận xuất xứ hàng hóa từ Trung Quốc.
Nếu Hà Nội dám chấp nhận những điều kiện này, Việt Nam có thể trở thành quốc gia thứ hai sau Vương quốc Anh được hưởng ưu đăi thuế đặc biệt dưới thời Trump 2.0 – nhưng đổi lại, phải xác lập một vị thế chiến lược rơ ràng, không c̣n “mập mờ cân bằng” như trước.
Việt Nam sẽ chọn con đường nào?
Chính quyền Việt Nam, cho đến nay, vẫn giữ thái độ thận trọng.
Dù Tổng Bí thư Tô Lâm đă hai lần tiếp điện đàm Tổng thống Trump từ đầu tháng 4, nhưng các chi tiết về thỏa thuận không được công khai.
T́nh trạng “mập mờ chiến lược” này có thể gây bất lợi trong dài hạn, đặc biệt khi các nước khác trong khu vực đang tận dụng “cửa sổ cơ hội” để tái định vị vai tṛ địa–chiến lược của họ với Mỹ.
Thực tế, Việt Nam có lợi thế lớn nếu chọn đứng vào trục chiến lược Mỹ–Nhật–Ấn–Úc, thay v́ tiếp tục duy tŕ trạng thái trung lập giả tạo.
Từ thỏa thuận IPEF (Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ–Thái B́nh Dương), đến các cam kết chuyển giao công nghệ cao và đầu tư năng lượng sạch, Mỹ sẵn sàng đặt cược vào Việt Nam – nhưng chỉ khi Hà Nội dám chơi cuộc chơi lớn, ṣng phẳng và có tính chiến lược rơ ràng.
Cái giá của sự không lựa chọn
Trong chính trị quốc tế, đôi khi sự “không lựa chọn” chính là một lựa chọn sai.
Nếu Việt Nam tiếp tục tŕ hoăn quyết định, cái giá phải trả có thể không chỉ là vài tỷ USD tiền thuế, mà là vị trí chiến lược bị suy yếu, niềm tin đối tác giảm sút, và nguy cơ bị Trung Quốc áp đặt các biện pháp phản đ̣n ở nhiều mặt trận.
Một quốc gia không thể tự do nếu không tự quyết được vị trí của ḿnh trong bàn cờ quyền lực toàn cầu.
Ngày 1/8 – thời hạn “chót” mà phía Mỹ đặt ra cho các thỏa thuận thương mại – có thể là một cái mốc kỹ thuật.
Nhưng về mặt chiến lược, cánh cửa vẫn chưa đóng.
Chính quyền Trump, theo nhiều nguồn tin, vẫn sẵn sàng thương lượng lại nếu phía Việt Nam thể hiện thiện chí rơ ràng hơn – cả trong thương mại lẫn định hướng chiến lược.
Thời khắc của bản lĩnh chính trị
Việt Nam không nên chỉ lo sợ cái giá phải trả nếu chọn Mỹ.
Hăy nghĩ đến cái giá của việc đánh mất niềm tin, cơ hội và vị trí khi đứng lửng lơ giữa hai thế lực cạnh tranh toàn cầu.
Trong một thế giới đang tái cấu trúc, sự tŕ hoăn không c̣n là một lựa chọn an toàn – mà là tự giới hạn chính ḿnh trong thời điểm quyết định.
Đă đến lúc Việt Nam cần một bước ngoặt thực sự – không chỉ trong chính sách đối ngoại, mà trong cả tư duy chiến lược: Độc lập, chủ động, và quyết đoán.