Nhiều nghiên cứu đă nói về màu sắc Phật giáo trong ca từ 'Cát bụi' của Trịnh Công Sơn: 'Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ để một mai vươn h́nh hài lớn dậy/ Ôi, cát bụi tuyệt vời/ mặt trời soi một kiếp rong chơi/ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ để một mai tôi về làm cát bụi/ Ôi, cát bụi mệt nhoài/ tiếng động nào gơ nhịp không nguôi…'.
Phật giáo dùng khái niệm “vi trần kiếp” để nói về thời gian vô tận, kéo dài từ quá khứ đến vị lai được tính bằng số lượng hạt bụi. Con người cũng chỉ là những hạt bụi trong kiếp nhân sinh. Thân cát bụi lại trở về nơi cát bụi. Điều này tương đồng với quan niệm của đạo Công giáo. Kinh “Sáng thế” viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người”.
Như vậy “Cát bụi” của nhạc sĩ họ Trịnh hội tụ cả hai quan niệm, hai luồng ánh sáng triết lư về con người, phận người của cả Phật giáo và Công giáo. Như chính ông từng tâm sự: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và t́nh yêu. Thân phận th́ hữu hạn. T́nh yêu th́ vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng t́nh yêu để t́nh yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời”.
Một họa phẩm tranh cát Việt.
Không chỉ chinh phục bằng cái vỏ h́nh thức lời hát nhẹ nhàng, tha thiết, thêm một chút băn khoăn, được đẩy lên tới sự day dứt, nôn nao, khắc khoải; nhạc phẩm c̣n thuyết phục bằng cái lơi bên trong là quan niệm mang tính phổ quát về kiếp phận nhân sinh.
Ảnh hưởng từ cả Phật giáo và Công giáo, nhưng có lẽ chủ yếu từ những h́nh ảnh đời sống thực của vùng bờ biển miền Trung đầy nắng, gió và cát, trong bài thơ “Mẹ Tơm” Tố Hữu đă kiến tạo những đối lập giữa cái sống và cái chết, hôm qua và hôm nay, cái hiện hữu và cái vô h́nh, giữa cái phàm trần, vô thường (cát) và cái quư giá, cao cả (ngọc).
Với giọng điệu da diết, sâu lắng, nhà thơ nâng h́nh tượng người mẹ lên một tầm cao sử thi kỳ vĩ, tỏa sáng, bất tử, thiêng liêng vô cùng: “Ôi bóng người xưa, đă khuất rồi/ Tṛn đôi nấm đất trắng chân đôi/ Sống trong cát, chết vùi trong cát/ Những trái tim như ngọc sáng ngời”. Nghệ thuật là vậy, phải có tư tưởng để chuyển hóa thành máu thịt tác phẩm. Mà tư tưởng luôn là quá tŕnh lâu dài, từ thấu hiểu (nhận thức) sâu sắc văn hóa và đời sống đến trao gửi niềm thấu cảm (t́nh cảm) vào h́nh tượng rồi truyền cảm (tác động nghệ thuật) để cùng đồng cảm (tri âm, lan tỏa) tới đối tượng tiếp nhận. Ngoài hai nhạc sĩ, thi sĩ lớn ấy, mấy ai được vậy?
V́ mang cảm hứng lớn lao nên những “hạt bụi người” ấy c̣n bay vào, đọng lại ở nhiều kiệt tác. “Cát bụi chân ai” (1992) của Tô Hoài là những câu chuyện của văn nghệ sĩ trước thời kháng chiến. Cũng là một sự kiến tạo đối lập giữa thời kháng chiến gian khổ (chiến tranh có bao giờ sung sướng vui vẻ đâu) mà vẫn rờ rỡ vẻ hào hoa các văn nhân, thi sĩ. Nhất là vẻ đẹp về t́nh bạn bằng hữu, lối ứng xử, những tính cách riêng khác lạ trong sinh hoạt, cả trong t́nh cảm… Th́ ra, là cát bụi, nhưng là “cát bụi tuyệt vời”.
Nhà thơ lớn Xuân Diệu từng hănh diện “Biển” (1962) là một trong những bài thơ hay nhất của ḿnh: “Anh không xứng là biển xanh/ Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng/ Bờ cát dài phẳng lặng/ Soi ánh nắng pha lê.../ Bờ đẹp đẽ cát vàng/ Thoai thoải hàng thông đứng/ Như lặng lẽ mơ màng/ Suốt ngàn năm bên sóng...”. Mượn cặp phạm trù không tách rời biển xanh/bờ cát để nói về thuộc tính của t́nh yêu, nhà thơ ca ngợi bờ cát/em với những đặc tính: trắng/trong trắng, sáng ngời; phẳng lặng/b́nh yên, êm đềm; suốt ngàn năm bên sóng/chung thủy…
“Trường ca Biển” của Hữu Thỉnh được viết từ 1981, in lần đầu 1994, chương 2 nói về “Cát”: “Cát và cát/ Ngày ngày lại mới/ Cát và cát/ Ngày ngày lại trắng/ Trắng như bàn tay trắng chúng tôi…/ Chúng tôi nghe cát nói…/ Cát ở đây là lối đi/ Cát là chỗ ăn cơm chiêu ngụm nước/ Cát là giường nằm gối đầu lên cát/ Cát theo lá thư đồng đội gửi về”.
Ngoài đảo xa, với người lính, cát là bạn, là quê hương, là nhà, là giường nằm, là tiếng ḷng đồng đội. Ai từng là lính đảo Trường Sa càng thấy những câu ấy rất thật, như là viết về ḿnh, cho ḿnh. Trong hoàn cảnh ấy, bối cảnh ấy, chỉ nói thật mới có thể chạm đến nghệ thuật cao nhất của thơ: nghệ thuật của trái tim. Mà trái tim luôn muốn nói điều chân thật!
Trong tập “Người đàn bà ngồi đan” (1985), nhà thơ Ư Nhi có “Cát” với những câu thật ấn tượng: “Những người c̣n sống khi đặt chân lên cát/ Tưởng như ḿnh chạm tới thịt xương/ Cát ṛng ṛng tuôn chảy dưới ḷng chân/ Cát như máu hai mươi năm đă đổ/ Trong cát ấy có mẹ cha của bao nhiêu trẻ nhỏ/ Có chồng con của bao người góa bụa/ Những bạn bè, đồng chí đă hy sinh/ Người ta đứng trang nghiêm trước cát bạt ngàn”. Cát ở đây gần như được đồng nhất với con người. Cát cũng là thịt xương, là máu, là mẹ cha, chồng con, bạn bè, đồng chí. Cát thiêng liêng, bất tử. Cát vĩ đại, lớn lao: “Người ta đứng trang nghiêm trước cát bạt ngàn”.
Phim “Đời cát” (2000) của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân thành công, nhờ bởi tính luận đề nhân văn muôn thuở: bất luận trong hoàn cảnh nào con người vẫn không nguôi khát vọng vươn tới hạnh phúc. Lấy bối cảnh một làng chài (miền Trung) gắn liền với cát bỏng. Các t́nh huống oái oăm, trớ trêu; những thân phận thiệt tḥi, thiếu khuyết do chiến tranh, không làm giảm đi, trái lại càng thôi thúc những con người (là các nhân vật Cảnh, Thoa, Tâm, Huy, Hoa...) đi t́m ư nghĩa cuộc đời. Họ không chịu sống phận cát. Như những cây mọc trên cát cỗi cằn nhưng nở hoa t́nh yêu cuộc sống, ngát thơm hy vọng. Mạnh mẽ, mănh liệt, đầy lạc quan.
Là vật liệu dạng hạt, hạt đá và khoáng vật nhỏ, mịn; có nguồn gốc tự nhiên, hạt cát là một thuật ngữ trong địa chất học, không thể thiếu trong xây dựng (nhà cửa, công tŕnh, đường sá, cầu cống…). Do sự thay đổi nhiệt độ đột ngột ngày và đêm gây áp lực lên các kiến trúc đá làm chúng vỡ ra, nhỏ lại, kết hợp với sự phong hóa của gió mà h́nh thành các sa mạc (“sa” = cát; “mạc” = vùng hoang vắng) nổi tiếng thế giới. Cũng v́ thế cát sa mạc mịn, nhẵn, bề mặt không đủ độ liên kết nên khó đáp ứng yêu cầu làm vật liệu xây dựng.
Tưởng chỉ là những thứ vật liệu khô khan, ít giá trị, nhưng ngày nay cát đi vào nghệ thuật với tên gọi Tranh cát gây chú ư. Xuất hiện ở Việt Nam mới hơn 20 năm, nhưng với thế giới th́ đă thành một lịch sử lâu dài. Có tên gọi Drypaiting, ban đầu tranh cát được thổ dân Úc, Nam Mỹ dùng vào việc phục vụ các nghi thức tôn giáo, tế lễ, thậm chí chữa bệnh.
Theo nhiều ghi chép, thổ dân bộ tộc Navajo (Nam Mỹ) cho người bệnh ngồi vào các tấm da, tấm vải, hoặc chỉ là mảnh đất trống có rắc cát thành các h́nh mang tính ma thuật. Các pháp sư/thầy lang sẽ niệm chú, tụng kinh xin các đấng thần linh ban phép thuật để bức tranh hút ra mọi bệnh tật. Sau đó bức tranh được tiêu hủy, v́ đă chứa độc. Như một vài nghệ thuật có nguồn gốc tôn giáo, dần dần, tranh cát trở thành một bộ môn nghệ thuật lan ra cả thế giới. Ở đâu có cát, ở đó có tranh cát, tượng cát…
Tranh cát Tây Tạng được gọi là Mạn đà la thường sáng tạo theo chủ đề Phật giáo nhằm xiển dương những triết lư thiêng hoặc tuyên truyền Phật pháp. Người Nhật sớm kết hợp cát với các nguyên liệu phụ khác để vẽ nhiều bức tranh thiên nhiên đẹp, tinh tế, kỳ công rất được ưa chuộng. Nhiều ư kiến thống nhất cho rằng, cách nay chỉ khoảng mươi năm, từ khi trong chương tŕnh Ukraine Gots Talent được đưa lên mạng xă hội video Youtube, nghệ nhân Kseniya Simonova tŕnh diễn những bức tranh cát đẹp mê hồn, chinh phục hàng triệu người xem.
Tranh cát nghệ thuật (động) vẽ trên mặt kính được chiếu ánh sáng ngược từ dưới lên. Dựa vào cốt truyện nào đó (cổ tích, truyền thuyết hoặc từ đời sống) nghệ sĩ điều chuyển nhanh nhạy, biến ảo, liên tục để những hạt cát tạo thành chuỗi h́nh ảnh thuyết minh cho câu chuyện. Được trợ giúp bởi âm thanh, ánh sáng…, những câu chuyện được kể có hồn hơn, sinh động hơn…
Tranh cát Việt Nam có từ năm 1997 với 4 thể loại: phong cảnh, người lao động, chân dung, thư pháp. Theo họa sĩ Ư Lan - nghệ nhân nổi tiếng trong làng tranh cát Việt, có 4 loại cát để “vẽ” là cát biển, cát sông, cát suối, cát núi. Họa sĩ đă t́m ra hơn 80 màu cát tự nhiên để làm tranh. Vẫn theo họa sĩ, tranh cát sẽ c̣n phát triển bởi ngày càng được yêu thích, có nhiều bạn trẻ đam mê theo đuổi bộ môn nghệ thuật mới mẻ này.
Xin mượn hai câu thơ hay của nhà thơ Nguyễn Hữu Quư khép lại bài viết nhỏ: “Cát đi măi chẳng thành đường/ Con đi theo lối mẹ thường hát ru”. Băi cát đời người mênh mông, muốn đi được xa, phải có hành trang quư giá nhất là tấm ḷng mẹ!