
Trẻ em và phụ huynh đi lại trên phố, Brooklyn, New York, hôm 13/09/2021. (Ảnh: Brendan McDermid/Reuters)
1,5 triệu phụ huynh có thể rời bỏ lực lượng lao động khi ngày càng nhiều hộ gia đ́nh Mỹ nhận được phúc lợi Tín Thuế Trẻ em (CTC) mở rộng. Nhiều người Mỹ có thể tiết kiệm tiền nếu xin nghỉ việc để ở nhà chăm sóc con cái và người già; trong khi vẫn nhận được trợ cấp hàng tháng từ chính phủ. Các nhà tuyển dụng Mỹ đang đau đầu trước khủng hoảng thiếu lao động. Doanh nghiệp sẽ phải tăng lương để giữ chân lao động cũ và thu hút lao động mới. Khi mức tăng lương vượt quá mức tăng năng suất lao động, phần tăng thêm sẽ được chuyển sang giá cả hàng hóa, khiến lạm phát tăng cao hơn.
Theo phân tích của nhà kinh tế học Bruce Meyer của Đại học Chicago, khoảng 2,6% các bậc phụ huynh có thể rời bỏ lực lượng lao động sau khi nhận được tiền trợ cấp hàng tháng từ chính phủ Mỹ.
“Kế hoạch Giải cứu nước Mỹ” là gói kích cầu trị giá 1,9 ngh́n tỷ USD mà Tổng thống Biden đă kư sắc lệnh ban hành vào tháng 3 năm nay. Theo đó, các nhà lập pháp đă nâng mức CTC từ 2.000 USD lên tới 3.600 USD cho mỗi trẻ. Từ tháng 7 đến tháng 12, một nửa số tiền trong quỹ CTC đă được gửi đến các hộ gia đ́nh Mỹ hoặc gửi vào tài khoản ngân hàng của họ. Các bậc cha mẹ không bắt buộc phải có việc làm để được nhận CTC.
Ông Meyer cho rằng nhiều vị phụ huynh sẽ nghỉ việc nếu tổng số tiền từ trợ cấp chính phủ, gia đ́nh, và vay mượn bạn bè đủ để họ trang trải cuộc sống.
Ông Meyer nói CBS Moneywatch: “Việc mở rộng phúc lợi CTC sẽ loại bỏ động lực làm việc. Về cơ bản, chương tŕnh CTC mở rộng sẽ loại đi một khoản miễn thuế, vốn khuyến khích người lao động làm việc; và thay thế bằng một thứ không khuyến khích làm việc. Và cuối cùng, những người có thu nhập thấp không thể trở nên khá hơn”.
Ông Meyer nói thêm rằng sẽ là “một ư tưởng hay” nếu các nhà lập pháp đưa thêm vào yêu cầu phải có việc làm để được nhận CTC. Nhà kinh tế học thuộc Đại học Chicago này tán thành đề xuất của Thượng nghị sĩ Joe Manchin (Đảng Dân Chủ - bang West Virginia) về điều kiện tiên quyết về việc làm.

Phụ huynh đón con từ trường học về nhà, Chicago, 01/03/2021. (Ảnh: Scott Olson / Getty Images)
Theo quy định của chương tŕnh CTC cũ, những người thụ hưởng cần phải có việc làm để nhận được toàn bộ khoản tín thuế.
Có nhiều người đă lên tiếng phản đối bài nghiên cứu của ông Meyer.
Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Chính sách Xă hội và Vấn đề Nghèo đói của Đại học Columbia đă tranh luận rằng dữ liệu cho thấy các khoản phúc lợi CTC không gây ra bất kỳ tác động đáng chú ư nào đến bảng lương hoặc tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
“Dữ liệu thực tế ngay sau khi thực hiện chương tŕnh CTC mở rộng không cho thấy tuyên bố rằng ‘việc loại bỏ điều kiện trong CTC cũ đă khiến các bậc cha mẹ bỏ việc’ là đúng”.
Trao đổi với các phóng viên hôm 17/12, Thư kư Báo chí Ṭa Bạch Ốc Jen Psaki nói rằng Tổng thống Joe Biden có thể tăng gấp đôi khoản tiền cho CTC vào tháng 2/2022 nếu kế hoạch chi tiêu xă hội và biến đổi khí hậu trị giá 1,75 ngàn tỷ USD được ban hành vào tháng 1/2022.
“Nếu kế hoạch mới được ban hành vào tháng 1, chúng tôi đă nói chuyện với các quan chức Bộ Tài chính và những người khác về việc thanh toán gấp đôi [cho CTC] từ tháng 2. Tổng thống muốn thấy việc này tiến triển. Đó sẽ là một ưu tiên của ông ấy ngay khi Quốc hội quay trở lại làm việc”.
Trong khi chính phủ và các nhà lập pháp Đảng Dân Chủ muốn mở rộng các khoản thanh toán th́ dự luật chi tiêu khổng lồ chưa chắc sẽ được thông qua, v́ Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Joe Manchin đă nói rằng ông không ủng hộ dự luật này. Ngoài ra, nhiều thành viên đảng Dân chủ tại Quốc hội đă thừa nhận rằng họ chưa có kế hoạch về việc duy tŕ các khoản phúc lợi CTC hàng tháng.
Cuối cùng, các chuyên gia nói rằng trong nhiều thập kỷ, nước Mỹ đă hạn chế cung cấp các loại h́nh khác nhau của ‘thu nhập cơ bản (ngồi không ăn lương)’ tương tự như các khoản CTC; v́ vậy vẫn c̣n nhiều điều không chắc chắn về tương lai của chính sách phúc lợi này.
Chi phí chăm sóc con cái ở Mỹ rất đắt đỏ
Đối với nhiều bậc cha mẹ, họ có thể tiết kiệm tiền nếu xin nghỉ việc để ở nhà chăm sóc con cái; bởi chi phí gửi trẻ là rất đắt đỏ.
Theo Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS), chi phí cho nhà trẻ và mầm non tháng 11/2021 đă tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.
Các gia đ́nh trên toàn nước Mỹ chi trung b́nh 8.355 USD cho việc gửi 1 đứa trẻ mỗi năm. Con số này ở một số nơi lên tới 16.000 USD.
Ông Ted Rossman, chuyên gia phân tích cao cấp của Bankrate, cho biết trong một tuyên bố, “chi phí chăm sóc trẻ em hàng tháng có thể bằng một khoản thanh toán thế chấp, đặc biệt là nếu quư vị sống trong khu cao cấp hoặc có nhiều hơn một đứa trẻ”.
“Kế hoạch Gia đ́nh Mỹ” của ông Biden bao gồm các đề xuất nhằm giảm chi phí chăm sóc trẻ em. Đối với các hộ gia đ́nh có thu nhập thấp hơn 1,5 lần mức thu nhập trung vị của tiểu bang, họ sẽ không phải trả tiền giữ trẻ. Những người có thu nhập cao hơn mức đó sẽ phải trả không quá 7% thu nhập của họ cho việc trông trẻ.
‘Đại khủng hoảng lao động’ ở Mỹ: Nỗi sợ hăi của các chủ doanh nghiệp
Các nhà tuyển dụng Mỹ đang phải đối mặt với vô số thách thức, và lao động là một trong những mối bận tâm chính của họ.
Theo BLS, khoảng 4,2 triệu người Mỹ đă bỏ việc trong tháng 10, nâng tổng số người nghỉ việc lên gần 39 triệu người trong 10 tháng đầu năm 2021. Người ta gọi đây là Trào lưu nghỉ việc ồ ạt, hay Đại khủng hoảng lao động (The Great Resignation).
Dự kiến năm 2021 sẽ lập kỷ lục về số lao động nghỉ việc nếu số người bỏ việc trong tháng 11 và tháng 12 tương đương với các tháng trước.
Tỷ lệ bỏ việc ở khu vực công và tư ở Mỹ đều cao v́ nhiều lư do. Nhiều người nghỉ việc bởi lo sợ sẽ nhiễm virus corona; nhiều người không thể t́m được dịch vụ hoặc không đủ khả năng chi trả dịch vụ chăm sóc cho con cái hay cha mẹ già; hoặc nhiều người đă t́m được việc làm mới với mức lương cao hơn.

Biển báo “Hiện đang tuyển dụng” bên ngoài một doanh nghiệp ở Miami, hôm 08/10/2021. (Ảnh: Joe Raedle / Getty Images)
Thật vậy, số lượng công việc đang tuyển dụng tại Mỹ đă tăng lên gần 11 triệu vào tháng 10; chủ yếu là các việc liên quan đến giáo dục, khách sạn, sản xuất, và nhà hàng.
Các chuyên gia cho rằng con lắc thị trường lao động đă xoay chiều, hướng về người lao động. Nhiều công ty đă tăng lương, mở rộng đặc quyền và lợi ích của nhân viên, đồng thời đưa ra một loạt chính sách để thu hút nhân tài.
Theo Morgan Stanley, “khi các công ty thiếu lao động, họ phải nỗ lực tuyển lao động bằng cách tung ra các khoản tiền thưởng, các lợi ích bổ sung, và quan trọng nhất là tổng mức lương thưởng phải cao hơn trên phân phối thu nhập”.
Khi doanh nghiệp không thể t́m được người ứng tuyển, họ phải làm mọi cách để giữ chân nhân viên hiện tại. Các nhà phân tích thị trường lưu ư, điều này là một phần lư do tại sao đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu của người lao động lại dao động quanh mức thấp nhất trong 5 thập kỷ. Trong nền kinh tế Mỹ hiện nay, các doanh nghiệp đă trở nên sợ hăi khi có nhân viên xin nghỉ việc.
Theo một nghiên cứu từ Conference Board, các công ty tư nhân đang phân bổ 3,9% ngân sách lương của họ vào việc tăng lương cho năm 2022. Đây là mức tăng lớn nhất kể từ năm 2008. Các công ty đang cố gắng tối đa trong việc hạn chế nhân viên nghỉ việc.
Cũng theo cuộc khảo sát của Conference Board, 39% doanh nghiệp tiết lộ rằng họ tăng lương để bắt kịp với lạm phát gia tăng.
Nhà kinh tế trưởng của Conference Board, ông Gad Levanon, cho biết: “Mức tăng nhanh chóng của tiền lương và lạm phát đang buộc doanh nghiệp phải đưa ra nhiều quyết định quan trọng liên quan đến mức lương, tuyển dụng, và giữ chân nhân viên. Các công ty nhiều khả năng sẽ tăng mạnh lương cho nhân viên; nếu không họ sẽ phải đối mặt tỷ lệ thấp hơn nữa nhân viên trụ lại làm việc. Trong vài thập kỷ không đóng vai tṛ ǵ, th́ nay những điều chỉnh chi phí sinh hoạt lại là một yếu tố quan trọng khi xây dựng bảng lương”.
“Đồng thời, các nhà lănh đạo doanh nghiệp sẽ phải quyết định xem họ sẽ chuyển bao nhiêu phần trăm của mức tăng lương cho người lao động lên người tiêu dùng thông qua việc tăng giá cả hàng hóa. Chiến lược khác nhau của doanh nghiệp khác nhau sẽ tác động đến thị phần của doanh nghiệp đó”.
Xu hướng này có thể kéo dài sang năm 2022. Một cuộc khảo sát gần đây của CareerArc/Harris Poll đă phát hiện ra rằng, 23% người Mỹ có việc làm đang có ư định nghỉ việc trong ṿng 12 tháng tới. Một số lượng đáng kể trong những người này mong muốn có được điều kiện làm việc tốt hơn và mức lương cao hơn.
JPMorgan Chase gần đây đă cảnh báo: T́nh trạng thiếu hụt lao động có thể kéo dài trong nhiều năm. Giám đốc chiến lược toàn cầu của JPMorgan, ông David Kelly, chỉ rơ các nguyên nhân gồm có: Thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh (Baby Boomers) đang dần nghỉ hưu; số lượng người nhập cư giảm; và kỹ năng của người lao động không phù hợp với công việc.
Fed: Tăng lương có thể thúc đẩy gia tăng lạm phát
Trong tháng này, rất nhiều chuyên gia - từ các nhà phân tích ở phố Wall đến các nhà hoạch định chính sách kinh tế hàng đầu - đă gióng lên hồi chuông cảnh báo về một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với nền kinh tế trong năm tới: Xu thế tăng lương cho người lao động năm 2022 có thể góp phần làm tăng áp lực lạm phát.

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell phát biểu sau khi Tổng thống Joe Biden đề cử ông tiếp tục làm Chủ tịch Hội đồng Thống đốc của Fed trong một sự kiện tại Ṭa Bạch Ốc hôm 22/11/2021. (Ảnh: Jim Watson / AFP qua Getty Images)
Khi nói về mức lạm phát tại Mỹ đang ở mức cao kỷ lục, Chủ tịch Fed Jerome Powell giải thích rằng tiền lương tăng cao đă khiến lạm phát cao hơn và dai dẳng hơn.
Theo ông Powell, một trong những yếu tố quan trọng quyết định việc tăng lăi suất là Chỉ số chi tiêu cho lao động (ECI) được công bố vào tháng 10. Chi phí lao động theo giờ tại Mỹ đă tăng với tốc độ “rất cao” là 5,7% trong 3 tháng qua. Trong 12 tháng qua, thu nhập trung b́nh hàng giờ đă tăng 4,8%, lên 31,03 USD.
Ông Powell nói: “Nếu tốc độ tăng lương luôn cao hơn tốc độ tăng năng suất làm việc th́ điều đó sẽ gây áp lực lên các công ty, khiến họ tăng giá hàng hóa. Việc đó chưa xảy ra. Nhưng với các chỉ số về thị trường lao động như hiện nay, với mức lương mà chúng tôi đang thấy, th́ việc tăng giá cả hàng hóa là điều mà chúng tôi đang phải theo dơi”.
Người đứng đầu Ngân hàng Trung ương Mỹ thừa nhận rằng nhiều người Mỹ không muốn quay trở lại lực lượng lao động v́ những lo ngại về y tế, thiếu dịch vụ chăm sóc trẻ nhỏ, và thiếu người chăm sóc người già.