HƯỚNG DẪN SƠ CỨU (FIRST AID)
KHI BỊ CÔN TRÙNG, ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI CẮN TRONG LÚC SINH HOẠT NGOÀI TRỜI Lynn Ly phỏng dịch theo "The Everything First Aid"
Những hoạt động ngoài trời như làm việc, vui chơi, giải trí, du ngoạn ở trong một số hoàn cảnh , khí hậu , và thời tiết . Khí hậu nóng và lạnh đều có thể gây ra những hệ quả đối lập (adverse consequences), và những sinh vật (critters) sống bên ngoài thỉnh thoảng gây dị ứng (ngứa ngáy khó chịu) hoặc tổn thương . Cơ thể bị thiếu nước hoặc ở cao độ (thí dụ lên đỉnh núi) và ở trong một số điều kiện ngoài trời khác cũng có thể làm bạn cảm thấy suy yếu đi .
Cho dù không có vấn đề ǵ khi bạn hoạt động ngoài trời, nhưng thật quan trọng bạn biết làm ǵ để chăm sóc hoặc trợ giúp những người bị chấn thương, bị bệnh tật bất ngờ .
I) BỊ CÔN TRÙNG, LOÀI VẬT VÀ NGƯỜI CẮN
Nhiều loại côn trùng và các sinh vật khác, bao gồm cả con người, gây ra các vết cắn và vết châm chích có thể cho cảm giác không thoải mái hoặc đe dọa tính mạng từ nhẹ nhẹ đến trung b́nh. Điều quan trọng là biết làm ǵ, làm thế nào để trị liệu, và khi nào th́ cần t́m kiếm đến trợ giúp từ chuyên gia y tế để trị liệu bất kỳ thương tổn tàng ẩn bên trong.
1) B̉ CẠP CẮN (SCORPION BITES)
Ḅ cạp là loại côn trùng nhiều chân có h́nh dạng giống tôm hùm (lobster-like arthoropods) nằm trong xếp loại côn trùng có nọc độc (arcahnid class, cùng loài nhền nhện = spider class), có một ng̣i / kim xoăn ở phần cuối nơi đuôi, và chúng thường được t́m thấy ở vùng sa mạc phía Tây Nam của Mexico (nước Mễ Tây Cơ). Những vết chích / đốt của bọ cạp dường như không có khả năng gây tử vong và dễ dàng điều trị, nhưng lại nguy hiểm cho trẻ nhỏ và người già hơn . Những triệu chứng bao gồm đau nhức ngay lập tức (immediate pain), nóng rát (burning), sưng tấy chút chút (minor swelling) và cảm giác tê (numb) hoặc ngứa ran (tingling sensation).
Những buớc sau đây cần nên thực hiện để trị liệu vết ḅ cạp cắn:
1. Rửa vùng bị ḅ cạp cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước
2. Dùng túi trườm lạnh đặt lên vùng bị ḅ cạp cắn trong ṿng 10 phút , nếu cần thiết th́ lập đi lập lại việc trườm lạnh vùng bị cắn với khoảng cách giữa các lần trườm lạnh là 10 phút .
3. Gọi điện thoại đến trung tâm kiểm soát chất độc (the Poison Control Center), hay đi bệnh viện khi có bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng ǵ
2) BỌ VE CẮN (TICK BITES)
Những người sống vùng rừng cây hay đồng cỏ, hay những người dành thời gian vui chơi giải trí ở những khu vực này th́ dễ bị bọ ve cắn . Loài côn trùng nho nhỏ này sống bằng cách hút máu các loài động vật có vú (mammals) thí dụ như hươu nai (deer), loài gậm nhấm (rodents), thỏ (rabbits) và có thể truyền bệnh từ động vật sang người .
Việc sơ cứu (first aid) những vết bọ ve cắn bao gồm loại bỏ con bọ ve đang bu bám ngay lập tức để tránh những phản ứng từ vết cắn và giảm thiểu tối đa các loại bệnh nhiễm trùng do bọ ve gây ra thí dụ bệnh Lyme, bệnh nóng sốt Colorado bọ ve (Colorado tick fever), bệnh nóng sốt được phát hiện ở núi đá (Rocky Mountain Spotted fever)
Để tháo bỏ con bọ ve bu bám trên người , hăy làm như sau:
1. Dùng cây nhíp (tweezers) hay cây kẹp nhỏ nhỏ cong cong hay thẳng thẳng (small curl or flat forcepts) kẹp lấy đầu con bọ ve và càng cận sát nơi da đang bị con bọ ve cắn càng tốt, rồi nhẹ nhàng kéo ra, đừng bóp nát hay xoay vặn con bọ ve
2. Rửa vùng bị bọ ve cắn bằng xà pḥng / xà bông và nước.
3. Bôi thuốc Antihistamine hoặc loại 1% hydrocortisone cream (loại kem chứa 1% chất hydrocortisone)
Cần phải có sự chăm sóc y tế chuyên nghiệp , nếu con bọ ve cắn quá sâu và bạn không thể tháo gỡ nó ra được, hoặc bạn đang ở trong khu vực được thông báo là có nhiều nguy cơ bị bệnh lyme, hoặc bạn có triệu chứng nóng sốt hay triệu chứng cảm cúm , hoặc bạn có trải nghiệm bắp thịt trở lên suy nhược, tê liệt (paralysis) , hoặc nổi vết tṛn đỏ trên da gọi là "phát ban mắt ḅ" (the bull's eye rash) là đặc chưng của bệnh Lyme .
CẢNH BÁO !!!
Đừng bao giờ bôi petroleum jelly (vaseline), rượu cồn ( alcohol ) ahy ammonia lên con bọ ve - chúng sẽ cắn chặt sâu vào da hơn. Nếu bạn đang ở trong vùng cảnh báo có nhiều nguy cơ bệnh Lyme mà bị bọ ve cắn, bạn nhất định phải phone báo bác sĩ để được tư vấn và ngay lập tức được chăm sóc và điều tri bao gồm việc sử dụng thuốc kháng sinh
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Rượu
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 13 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 2/2/2007 )
1/ DỊCH ÉP CỦA QUẢ BƯỞI CŨNG HIỆU QUẢ NHƯ RƯỢU VANG
Các nhà khoa học của Đaị Học Louis Pasteur (Strasbourg) đă thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm về các huyết quản được lấy từ heo. Họ đă đo lường sự sản xuất NO của huyết quản dưới sự hiện diện của nước ép quả bưởi. Các tác giả phát xuất từ nguyên tắc cho rằng một sự gia tăng sản xuất NO trong nội mạc huyết quản sẽ có tác dụng bảo vệ của một sự tiêu thụ có mức độ rượu vang để chống bệnh động mạch vành. Các nhà nghiên cứu đă nhận xét rằng các polyphénols hiện diện trong nước ép quả bưởi kích thích các tế bào nội mạc sản xuất NO, nhờ thế có tác dụng bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch, ǵn giữ sự lành mạnh của các huyết quản và cho phép duy tŕ một huyết áp b́nh thường.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/2/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 17 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/3/2007 )
6/ HÚT THUỐC LÀM LIỆT DƯƠNG, UỐNG RƯỢU LÀM CƯỜNG DƯƠNG.
Vào lúc mà ở nhiều nước việc cấm hút thuốc ở những nơi công cộng càng ngày càng được áp dụng th́ việc nhắc lại rằng hút thuốc rất có hại cho chức năng cương là điều đáng lưu ư.Sau đây là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu Úc Đại Lợi,đất nước có tỷ lệ hút thuốc la đặc biệt cao.Bên cạnh việc xác nhận tác dụng có hai của thuốc lá lên sự cương ,c̣n có một điều ngạc nhiên rất thú vị,đó là uống một ly rượu nhỏ sẽ bảo vệ tinh cường dương.
Cần nhắc lại rằng công tŕnh nghiên cứu Massachusetts male aging study được tiến hành trên nhóm đàn ông từ 40-70 tuổi sống ở Boston đă chứng tỏ một sự liên kết giữa nghiện thuốc lá và nguy cơ tăng gấp đôi bị rối loạn chức năng cương.
Một công tŕnh khác, lần này được tiến hành ở Việt Nam trên 4.462 cựu chiến binh tuổi từ 31 đến 49 tuổi đă phát hiện rằng những người hút thuốc bị chứng bất lực 1,5 lần nhiều hơn là những người không hút.
Úc Đại Lợi là một hiện trường rất tốt để nghiên cứu tác dụng có hại của thuốc lá v́ tỷ lệ hút thuốc lá ở đây đặc biệt cao. Mức trung b́nh đàn ông hút thuốc là 19% (so với 16% trong những vùng tương đương khác). Ở các thanh niên (trong lứa 20-29 tuổi) tỷ lệ đạt đến 24%. Để thực hiện công tŕnh nghiên cứu này, tất cả 19.307 người ở lứa tuổi trưởng thành từ 16 đến 59 tuổi đă được yêu cầu trả lời một bảng câu hỏi được thực hiện qua đường điện thoại. Hơn ¼ những người trả lời (27,2%) là những người nghiện thuốc trong số đó 20,9% hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 6,3% hơn 20 điếu mỗi ngày. Hầu như cứ mỗi mười người đàn ông th́ có một người báo cáo bị rối loạn chức năng tính cương (9,1%). So sánh với những người không hút thuốc, nguy cơ bị rối loạn chức năng tính cương là 1,24 đối với những người hút dưới 20 điếu mỗi ngày và 1,39 đối với những người hút nhiều hơn. Công tŕnh nghiên cứu cũng đưa ra những yếu tố khác liên kết một cách đáng kể và độc lập với rối loạn chức năng tính cương: tuổi tác cao hơn, tŕnh độ học vấn thấp, dùng thuốc tác dụng lên tim.
Ngược lại, cũng trong cùng công tŕnh nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn tính cương. Thế là sau cùng bí mật về ’french lovers’ đă được phát hiện! Cảm ơn các bạn Úc Đai Lợi
Ngược lại, cũng trong cùng công tŕnh nghiên cứu này, có vẻ như việc uống rượu vang có mức độ liên kết với giảm nguy cơ bị rối loạn cương. Thế là sau cùng bí mật về « french lovers » đă được phát hiện ! Cảm ơn các bạn Úc Dai Lợi.
(LE GENERALISTE 8/3/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 26 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/5/2007 )
5/ RƯỢU CHỐNG HỢP CHỨNG RANAUD.
Đặc điểm của hợp chứng Raynaud là những cơn đau ở các ngón tay do các huyết quản bị co thắt. Trong khi xét đến nhiều yếu tố có liên hệ trong bệnh này, nhất là thuốc lá, người ta nhận thấy rằng uống rượu có mức độ làm giảm 30% nguy cơ gây các cơn đau nơi phụ nữ và 60% nơi đàn ông. Những kết quả này được rút ra từ các dữ kiện thu thập được trong công tŕnh điều tra nổi tiếng Framingham được thực hiện trên 3500 người.
(SCIENCES ET AVENIR 5/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 29 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 04/06/2007 )
5/ VÚ PHỤ NỮ KHÔNG THÍCH RƯỢU
Đó là điều đă được chứng minh! Nguy cơ bị ung thư vú gia tăng 50 % khi các bà uống 50g alcool mỗi ngày, hoặc tương đương với 5 ly rượu vang hoặc 5 lon bia 25 cl. Đó là những kết luận của Trung Tâm Quốc Tế Nghiên Cứu về Ung Thư (CIRC= Centre international de recherche sur le cancer). Trung tâm này đă tổng hợp 50 công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học. Ngoài ra, ngay cả việc uống với lượng nhỏ hơn và đều đặn 18g alcool mỗi ngày (dưới 2 ly rượu vang) cũng làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú 7%.
(SCIENCE ET VIE 6/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 42 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/9/2007 )
4/ RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG UNG THU TIỀN LIỆT TUYỂN?
Resvératrol, một polyphénol thiên nhiên, có những tính chất chống oxy hóa (anti-oxydant) và một hoạt tính chống ung thư. Chất này đặc biệt được t́m thấy trong nho đỏ, quả dâu tằm (mures) và đậu phụng. Một nhóm nghiên cứu của đại học Alabama (Hoa kỳ) đă muốn biết xem phân tử này có thể có một tác dụng hoá học bảo vệ (effet chimioprotecteur) chống ung thư tuyến tiền liệt qua sự điều ḥa các thụ thể sinh dục đối với stéroides và các đuờng tín hiệu thần kinh của các yếu tố tăng trưởng (facteurs de croissance).
Trong công tŕnh nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đă cho resvératrol (625 mg/kg) các chú chuột được biến đổi di truyền để mắc bệnh u xơ tiền liệt tuyết (adénome prostatique) và họ đă so sánh các chú chuột này với một nhóm kiểm chứng. Các chú chuột bị biến đổi về mặt di truyền và của nhóm kiểm chứng được thăm khám sau đó vào lứa tuổi 12 và 28 tuần. Các kết quả chứng tỏ rằng tỷ lệ mắc phải adénocarcinome có độ phân hóa thấp giảm 7,7 lần. Nguy cơ của dạng thương tổn ung thư nghiêm trọng nhất giảm 87%. Hiệu quả bảo vệ chống ung thư cực đại nhất có được sau khi cho bổ sung resvératrol trong 7 tháng. Sau cùng ở những chú chuột phát bệnh adénocarcinome, điều trị cho phép giảm hoặc làm ngưng sự tăng trưởng của khối u trong 48 % trường hợp.
Đối với các tác giả, Curt Harper và các cộng sự viên, sự giảm tăng sinh tế bào và nồng độ của yếu tố tăng trưởng, IGF-1, sự kém điều ḥa của các cơ quan tác động (effecteurs) phospho-ERKs1 và 2 và sự gia tăng của nồng độ chất hủy (suppresseur) khối u, ER-beta, là nguồn gốc của tác dụng cản của resvératrol lên trên sự phát triển của ung thư tiền liệt tuyến.
Cũng nhóm nghiên cứu này đă công bố các công tŕnh được thực hiện trên chuột, chứng tỏ tác dụng của polyphénol này lên ung thư của vú. Tuy nhiên c̣n cần đến những nghiên cứu khác để xác định vai tṛ của polyphénol này trên người và với liều lượng được sử dụng là bao nhiêu. Vài tác giả đặc biệt giải thích rằng tác dụng được xác nhận ở chuột tương ứng với nồng độ tương đương với việc tiêu thụ một chai rượu vang đỏ mỗi ngày! Thế mà, liều lượng được khuyên lại là 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày cho một người đàn ông và một ly cho một người đàn bà.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 11/9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 46 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/10/2007 )
3/ RƯỢU LÀM DỄ UNG THƯ VÚ
Một công tŕnh nghiên cứu vừa được tŕnh bày mới đây ở Barcelone đă chứng tỏ rằng, so sánh với những phụ nữ uống dưới một ly đồ uống có chất rượu (boisson alcoolisée) mỗi ngày, th́ các bà uống một đến hai ly mỗi ngày có nguy cơ bị ung thư vú gia tăng 10%. Nếu uống trên 3 ly mỗi ngày th́ nguy cơ gia tăng 30%, bất kể đó là loại rượu nào.
Dù loại ruợu uống thuộc loại nào đi nữa (rượu vang, bia hay rượu mùi), chính lượng tuyệt đối rượu được tiêu thụ xác định nguy cơ bị ung thư vú. Uống 3 lần hoặc hơn đồ uống có chất rượu mỗi ngày tương ứng với một nguy cơ gây nên do tiêu thụ một gói thuốc lá mỗi ngày.
Những nghiên cứu dịch tễ học đă phát hiện vai tṛ của rượu trong sự phát sinh ung thư vú. Tuy nhiên măi đến ngày nay, chúng ta chỉ có ít dữ kiện về tác dụng của bản chất của đồ uống được tiêu thụ.
Công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ rằng bản chất của đồ uống có chất rượu không làm thay đổi nguy cơ phát triển ung thư vú.Trái lại các phụ nữ uống một hoặc hai ly rượu mỗi ngày sẽ làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú lên 10% so sánh với các phụ nữ uống dưới một ly mỗi ngày. Nguy cơ sẽ gia tăng 30% nơi những phụ nữ uống 3 ly rượu mỗi ngày.Việc gia tăng nguy cơ bị ung thư vú này có thể được so sánh với sự gia tăng nguy cơ gây nên bởi tiêu thụ một gói thuốc lá mỗi ngày hoặc hơn.Từ đó các tác giả kết luận rằng đó là một lư do nữa để khuyến khích các phụ nữ giảm hoặc ngừng tiêu thụ các đồ uống có chất ruợu.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/10/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 58 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 04/01/2008 )
7/ RƯỢU, YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA GĂY DO LOĂNG XƯƠNG
BRUXELLES. Rượu là một trong những yếu tố nguy cơ có thể biến đổi được (facteurs de risque modifiables) của bệnh loăng xương (ostéoporose), cũng như chứng nghiện thuốc lá, thể trọng thấp, một chế độ ăn uống thiếu chất, luyện tập thể dục không đầy đủ, thiếu calcium hay vitamine D và té ngă thường xuyên.
Thật vậy, các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện ở Châu Âu, ở Bắc Mỹ và ở Úc Đại Lợi chứng tỏ rằng uống trên 2 đơn vị alcool mỗi ngày (hoặc 20g/ngày) sẽ làm gia tăng nguy cơ găy do loăng xương (fractures ostéoporotiques) và găy xương háng nơi đàn ông và phụ nữ, có lẽ do độc tính trực tiếp của rượu lên các tạo cốt bào (ostéoblaste), là những tế bào cấu tạo các mô xương.
Tiêu thụ hơn 4 đơn vị rượu mỗi ngày sẽ làm tăng gấp đôi, lên cả hai phái tính, nguy cơ găy xương háng. Rượu dường như có một tác dụng độc hại trực tiếp lên xương, làm giảm mật độ khoáng của xương (densité minérale osseuse).
Trong số báo ra vừa rồi, Viện pḥng ngừa và giáo dục y tế quốc gia nhắc lại rằng các nguy cơ liên kết với rượu cũng có thể được quy cho những tác dụng khác của rượu, như là sự thoái hóa của t́nh trạng sức khỏe chung, đặc biệt là nơi những người già, và sự gia tăng nguy cơ té ngă.
Trên thế giới, ở những người trên 50 tuổi, một phụ nữ trên ba người và một người đàn ông trên năm người, sẽ bị mắc phải chứng loăng xương (ostéoporose).
Đặc điểm của chứng loăng xương là sự giảm mật độ xương (densité osseuse) và điều này là nguyên nhân của sự gia tăng tính dễ vỡ của xương (fragilité osseuse). Găy xương đốt sống (fracture vertébrale) và găy đầu trên xương đùi (cổ xương đùi) là những biến chứng chính của căn bệnh loăng xương thường xảy ra hơn nơi các phụ nữ trên 50 tuổi này; 50% các phụ nữ sẽ không t́m lại được khả năng độc lập của ḿnh sau khi bị găy xương đùi.
(LE METRO 2/1/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 67 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 7/3/2008 )
9/ RƯỢU DUY TR̀ NHỮNG Ư TƯỞNG ĐEN TỐI
Ngạn ngữ nói rằng rượu giúp tiêu sầu, nhưng trên thực tế, rượu chỉ làm kéo dài nỗi âu sầu mà thôi. Đó là điều được tiết lộ bởi một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu của đại học Tokyo. Nhóm nghiên cứu được điều khiển bởi giáo sư dược học Norio Matsuki, giải thích rằng éthanol được chứa trong rượu không làm quên lăng, như chúng ta thường tưởng, nhưng trái lại bảo tồn những kỹ niệm đă ăn sâu vào trong trí nhớ. Các nhà nghiên cứu đă đạt được khám phá này bằng trắc nghiệm các con chuột pḥng thí nghiệm. Các nhà nghiên cứu đă bắt những con chuột này chịu những phóng điện nhẹ trong nhiều ngày trước khi đặt chúng vào lại trong lồng. Các chú chuột sau đó trở nên khiếp sợ mỗi lần chuồng được mở ra và các nhà nghiên cứu khi đó đă tiêm rượu vào vài con chuột và dung dịch sinh lư vào những con chuột khác để nghiên cứu các phản ứng của hai nhóm.
XOÁ BỎ ÂM TÍNH BĂNG DƯƠNG TÍNH
Công tŕnh nghiên cứu đă chứng tỏ rằng sự sợ hải kéo dài lâu hơn, trung b́nh 2 tuần lễ, nơi chuột đă nhận một liều alcool so với những con chuột khác. “Nếu chúng ta áp dụng những kết quả này lên người, điều đó có nghĩa là những kỹ niệm xấu mà chúng ta muốn tống khứ sẽ kéo dài lâu hơn nếu chúng ta uống rượu, mặc dầu điều đó có thể mang lại một sự sảng khoái nào đó ngay lúc đó”, công tŕnh nghiên cứu nhấn mạnh như vậy. “Để quên cái ǵ đó có tính chất âm tính, nên xóa bỏ nó bằng cái ǵ đó dương tính càng sớm càng tốt và không bên đụng vào rượu” M.Matsuki đă khuyên như vậy.
Các kết luận của công tŕnh nghiên cứu đă được công bố trong tạp chí hàn lâm Hoa Kỳ Neuropsychopharmacol ogy.
(LE SOIR 1/3-2/3/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 71 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 4/4/2008 )
5/ RƯỢU VÀ CHỨNG TINH HOÀN ẨN
Chứng tinh hoàn ẩn (cryptorchidie) tương ứng với sự ngừng di chuyển của tinh hoàn ở một điểm nào đó trong lộ tŕnh b́nh thường giữa vùng thắt lưng (nơi tinh hoàn được tạo thành) và bao tinh hoàn (scrotum), nơi tinh hoàn hiện diện vào lúc sinh.Theo các dữ kiện thu được ở Phần Lan và Đan Mạch, nguy cơ bị chứng tinh hoàn ẩn nơi trẻ em càng lớn khi việc uống rượu càng quan trọng nơi bà mẹ trong thời kỳ có thai. Sự gia tăng nguy cơ này độc lập với các yếu tố nguy cơ khác như tuổi của bà mẹ, số lần đẻ, trọng lượng lúc sinh, hay là chứng nghiện thuốc lá.
SCIENCES ET AVENIR 4/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 73 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/4/2008 )
4/ UỐNG RƯỢU VANG ĐỂ TRÁNH CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ
Các phụ nữ uống đều đặn rượu vang ít bị nguy cơ trở thành sa sút trí tuệ hơn so với các phụ nữ không bao giờ uống. Trái lại các rượu mạnh làm gia tăng nguy cơ này. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu Thụy Điển. Lauren Lissner (Đại học Goteborg) và nhóm nghiên cứu đă thu thập các dữ kiện liên quan đến 1.462 phụ nữ tuổi từ 36 đến 60 trong những năm 1968-1969. Các phụ nữ này đă được theo dơi cho đến năm 2002. Ngay từ đầu của thời kỳ theo dơi và 3 lần trong lúc thực hiện công tŕnh nghiên cứu, các phụ nữ này đă được hỏi về việc uống rượu của họ. 164 phụ nữ tham dự đă được chẩn đoán sa sút trí tuệ trong thời kỳ nghiên cứu. Các tác giả đă có thể chứng nhận rằng nguy cơ bị sa sút trí tuệ là 40% thấp hơn nơi các phụ nữ đă uống rượu vang ; nguy cơ này ngay cả 70% thấp hơn nơi các phụ nữ chỉ uống rượu vang và không uống những đồ rượu khác. Tác dụng bảo vệ lại c̣n rơ rệt hơn nơi những người hút thuốc. Trái lại, các rượu mạnh làm gia tăng nguy cơ bị sa sút trí tuệ 50% .V́ lẽ chỉ có rượu vang, chứ không phải các đồ uống có chất rượu khác, dường như bảo vệ chống lại chứng sa sút trí tuệ, nên các tác giả kết luận rằng hiệu quả bảo vệ không được quy cho rượu mà cho các thành phần khác của rượu vang.
LE JOURNAL DU MEDECIN 11/4/2008
8/ UNG THƯ VÚ: CHO BÚ CÓ LỢI, UỐNG RƯỢU CÓ HẠI
Ung thư vú là ung thư thông thường nhất của phụ nữ.Trên thế giới mỗi năm có 1 triệu trường hợp mới, trong đó ở Pháp có 42.000 trường hợp.
Ung thư vú cũng đang gia tăng khắp nơi trên thế giới, ngay cả trong những nước châu Á và châu Phi, là nơi cho đến nay ít bị ảnh hưởng hơn. Cần ghi nhận rằng ở Pháp, lần đầu tiên, tỷ lệ mắc phải ung thư này nơi các phụ nữ trên 50 tuổi đang hạ xuống. Sự phân bố không đồng đều về mặt địa dư (một ung thư cho 12 phụ nữ ở châu Âu, và một cho 80 ở Nhật bản) khiến rất làm nghi ngờ một vai tṛ bảo vệ khả dĩ của chè xanh và/hoặc đậu nành. Dầu sao, báo cáo vừa qua của WCRF đă nhấn mạnh 2 thông điệp quan trọng : thông điệp đầu tiên, đó là lợi ích của sự cho con bú kéo dài, và điều này dầu cho lúc phát triển ung thư là lúc nào, trước hoặc sau thời kỳ măn kinh.Thông điệp thứ hai xác nhận ảnh hưởng có hại của rượu, đă được nghi ngờ từ nhiều năm nay. Một tháng sau báo cáo của WCRF, một báo cáo khác của Pháp, từ Viện ung thư quốc gia, đă định số cho mối nguy cơ này. Nguy cơ mắc phải ung thư vú gia tăng 10% nếu mức độ tiêu thụ trung b́nh rượu mỗi ngày tăng 10g hoặc 1 ly.
LE MONDE 3/4/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 74 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/4/2008 )
3/ UỐNG RƯỢU LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ
Việc uống rượu (alcool) làm gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư vú. Công tŕnh nghiên cứu lớn nhất về chủ đề này, trên hơn 184.000 phụ nữ, được thực hiện bởi Viện ung thư quốc gia Hoa kỳ, đă phát hiện rằng việc uống một hay hai ly rượu mỗi ngày cũng đủ làm tăng 30% nguy cơ mắc phải ung thư vú. Nếu uống 3 ly hay nhiều hơn sẽ làm gia tăng nguy cơ 50%. Và điều đó độc lập với loại rượu được tiêu thụ. Công tŕnh nghiên cứu này đă được tŕnh bày tuần qua trong một buổi hợp của Hiệp hội nghiên cứu Hoa kỳ ở San Diego. Theo các tác giả của công tŕnh nghiên cứu, các kết quả này được giải thích bởi một sự biến đổi của chuyển hóa của các hormones oestrogènes, gây nên bởi rượu.
LE FIGARO 15/4/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 75 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 25/4/2008 )
3/ RƯỢU VÀ THUỐC LÁ LÀM DỄ NGUY CƠ BỊ BỆNH ALZHEIMER
Nhân dịp một hội nghị ở Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đă chứng tỏ lần đầu tiên rằng những người hút thuốc lá nặng và những người uống rượu thâm niên bị mắc bệnh Alzheimer sớm hơn
Bệnh Alzheimer cũng là hậu quả của lối sống của chúng ta. Bệnh này gây bệnh cho 15% những người trên 80 tuổi. Mặc dầu nguyên nhân của bệnh Alzheimer đă không được xác định một cách rơ ràng, nhưng sự việc uống rượu và hút thuốc lá sẽ làm gia tăng nguy cơ mắc phải bệnh này.Trong một hội nghị thần kinh học được tổ chức ở Hoa Kỳ, các nhà khoa học đă chứng tỏ rằng các người uống rượu nhiều có một nguy cơ bị bệnh Alzheimer sớm hơn những người không hoặc ít uống. Cũng vậy, sự việc hút hơn một bao thuốc lá mỗi ngày cũng làm gia tốc nguy cơ. Những công tŕnh khác được tŕnh bày trong hội nghị này phát hiện một nguy cơ gia tăng bị bệnh Alzheimer đối với những người đă có một tăng cholestérol-huyết lúc ở tuổi trung niên. Những điều tra khác mới đây cũng đă chỉ rơ vai tṛ của cao huyết áp, của bệnh đái đường và của chứng béo ph́ (đặc biệt là khi được liên kết với một cái bụng phệ) như là những yếu tố làm dễ cho sự phát triển của chứng sa sút trí tuệ này. Những dữ kiện này khiến nghĩ rằng bằng sự pḥng ngừa chống lại thuốc lá, rượu, bệnh đái đường, chứng béo ph́ và cao huyết áp, chúng ta có thể nếu không ngăn cản được bệnh này, th́ ít ra cũng làm chậm sự xuất hiện của nó.
Trong một thời gian lâu, các nguyên nhân của căn bệnh thoái hóa năo bộ trầm trọng này có vẻ vừa bí ẩn vừa mang hơi hướng di truyền. Trong những năm qua, càng ngày càng có nhiều các công tŕnh nghiên cứu ăn khớp nhau chỉ rơ rằng căn bệnh bi thảm này cũng liên hệ với lối sống của chúng ta. Và có vẻ như là các yếu tố ảnh hưởng lên tim, nhất là những yếu tố trách nhiệm về các thương tổn động mạch vành, cũng ảnh hưởng lên chức năng của năo bộ khi tuổi tác gia tăng. Mặc dầu nguồn gốc của bệnh Alzheimer không được biết một cách chính xác, nhưng có vài yếu tố làm dễ cho sự phát sinh căn bệnh này. Thứ tư vừa qua, một công cuộc điều tra đă được tŕnh bày tại hội nghị hàng năm của Viện hàn lâm thần kinh học Hoa Kỳ ở Chicago. Công tŕnh nghiên cứu này đă chứng tỏ rằng bệnh Alzheimer gây bệnh sớm hơn nơi những người nghiện thuốc lá nặng và những người uống rượu thâm căn. Cũng tại hội nghị này, một công tŕnh nghiên cứu khác cho rằng những người có nồng độ cholestérol cao trong tuổi tứ tuần, cũng có một nguy cơ gia tăng bị Alzheimer sau này. Một công tŕnh nghiên cứu thứ ba được công bố ngày 26 tháng 3 xác nhận rằng có một cái bụng phệ ở tuổi trung tuần cũng được liên kết với một nguy cơ bị bệnh Alzheimer cao hơn.
Các nhà nghiên cứu của Mount Sinai Hospital de Miami Beach (Hoa Kỳ) đă khảo sát 938 người trên 60 tuổi vừa được chẩn đoán có khả năng bị Alzheimer. Sau đó họ hỏi gia đ́nh của các bệnh nhân để đánh giá sự tiêu thụ thuốc lá và rượu suốt trong cuộc sống. Như thế họ đă có thể quan sát thấy rằng những người uống rượu đều đặn (ít nhất 3 ly mỗi ngày) bị bệnh Alzheimer trung b́nh 4,8 năm sớm hơn những người không uống hoặc uống ít. Cũng vậy, những người nghiện thuốc lá nặng (hơn một gói mỗi ngày) bị bệnh Alzheimer 2,3 năm sớm hơn những người không hút thuốc. Đối với những người mang một trong những gène tố bẩm (apolipoprotéine 4), bệnh bắt đầu 3 năm trước những người khác. Đối với những người đồng thời uống rượu nhiều, nghiện thuốc lá nặng, mang gène tố bẩm, họ phát bệnh 8,5 năm sớm hơn những người không có 3 yếu tố này. 17 người thuộc trường hợp đầu đă bị bệnh Alzheimer lúc 68,5 tuổi, so với 77 tuổi đối với trường hợp thứ hai. Đối với các tác giả, việc làm chậm lại khởi đầu của bệnh càng lâu càng tốt, là điều rất quan trọng. “Người ta đă chứng tỏ rằng nếu có khả năng làm chậm khởi đầu của bệnh 5 năm, ta sẽ chia đôi số bệnh nhân bị bệnh”, giáo sư Ranjan Duara, tác giả chính của công tŕnh nghiên cứu đă giải thích như vậy.
CŨNG NHƯ ĐỐI VỚI BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
Công tŕnh điều tra thứ hai được tŕnh bày nhân hội nghị này đă khảo sát 9.752 đàn ông và phụ nữ được thăm khám sức khỏe giữa năm 1964 và 1973, ở lứa tuổi 40-45 và sau đó đă được theo dơi cho đến năm 1994. Giữa năm 1994 và 2007, 504 người trong nhóm này bị bệnh Alzheimer và 162 người bị bệnh sa sút trí tuệ do nguyên nhân huyết quản (démence vasculaire). Các kết quả cho thấy rằng những người ở lứa tuổi trung niên, với nồng độ cholestérol trong máu cao nhất, lúc về già có thêm 50% nguy cơ bị bệnh Alzheimer so với những người có nồng độ thấp nhất. Cùng loại nghiên cứu được công bố trong tạp chí Neurology, số ngày 9 tháng 4 vừa qua đă dẫn đến cùng kết luận về bệnh đái đường. Công tŕnh này được tiến hành ở Thụy Điển theo cùng một nguyên tắc, đă phát hiện sự kiện là ở người đứng tuổi, sự việc có một glucose huyết quá cao làm gia tăng 50% khả năng phát triển về sau này bệnh Alzheimer.
Sau hết, ngày 26 tháng 3 vừa qua, vẫn trong tạp chí Neurology, các nhà khoa học Hoa Kỳ giải thích rằng họ đă đo ṿng kích thước của tầm vóc (tour de taille) của hơn 6000 người Mỹ trong những năm 1970. Khoảng 30 năm sau các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng những người béo ph́ và có một bụng phệ, có nguy cơ bị bệnh Alzheimer 3,6 lần nhiều hơn so với những người mảnh khảnh ; những người với gia tăng thể trọng (surpoid) và có một bụng phệ, có nguy có bị bệnh Alzheimer 2,3 lần nhiều hơn. Béo ph́ (obésité) nhưng không có bụng phệ gia tăng nguy cơ một cách ít quan trọng hơn. Những công tŕnh nghiên cứu trước đây đă phát hiện một nguy cơ gia tăng nơi những người bị cao huyết áp và lợi ích của việc điều trị chống cao áp. Nhưng cơ chế giải thích tại sao các yếu tố này làm dễ bệnh Alzheimer không được rơ ràng lắm. “Trong bệnh Alzheimer, có sự kết hợp của các thương tổn ở vi tuần hoàn của năo bộ và các tích chứa của các mảng dạng tinh bột (plaques amyloides), giáo sư Françoise Forette đă giải thích như vậy. Bằng cách tác động lên các yếu tố nguy cơ huyết quản, nghĩa là bằng cách ngừng hút thuốc lá, điều trị bệnh cao huyết áp, cholestérol, bệnh đái đường, bằng cách tập thể dục, chúng ta sẽ làm chậm lại sự xuất hiện của bệnh Alzheimer”.
(LE FIGARO 18/4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 82 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 20/6/2008 )
9/ RAU XANH, TRÀ, RƯỢU VANG VÀ CACAO CÓ LỢI CHO NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC
Các flavonoides là những chất chống gây ung thư (anticancérigènes). Nguy cơ phát triển ung thư phổi được giảm 32 đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định.
Thở, đó là tự oxy hóa ! Thật vậy việc sử dụng oxy, sinh tử, cũng sản sinh những dạng oxy được gọi là phản ứng (réactif), có thể tấn công những cấu trúc sinh học. Những hiện tượng oxy hóa này được xem như là một yếu tố lăo hóa và là một yếu tố làm dễ nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là ung thư. Vậy phổi đứng hàng đầu trong việc chịu các hiện tượng này.
Việc tiếp xúc này lại càng rơ nét hơn đối với những người hút thuốc, và người ta đánh giá rằng sự tiếp xúc với oxy phản ứng góp phần rất lớn trong việc làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Vấn đề t́m biết xem việc hấp thụ các hợp chất có khả năng làm giảm thiểu các hiện tượng oxy hóa và các tổn hại do các hiện tượng này gây ra, đă làm ngứa ngáy các nhà nghiên cứu từ nhiều năm qua. Các hợp chất này ám chỉ các chất chống oxy hóa (antioxydants). Một vài chất chống oxy hóa là các vitamine hay những oligo-éléments, nhưng nơi dự trữ các chất chống oxy hóa lớn nhất là các flavonoide, một họ gồm hơn 4.000 phân tử.
Trong pḥng thí nghiệm, các flavonoides đă chứng tỏ, ngoài khả năng chống oxy hóa đôi khi rất mạnh, những tính chất chống đột biến (antimutagénique) và chống ung thư. Được cổ vũ, các nhà khoa học đă thăm ḍ những mối liên hệ giữa sự hiện diện của những hợp chất này trong thực phẩm và sức khỏe của dân chúng. Các thức ăn như rau xanh, trái cây, trà, rượu vang và ngay cả cacao đều giàu các flavonoides. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo sự hiện hữu của một mối liên hệ nghịch giữa việc tiêu thụ các flavonoides khác nhau và nguy cơ của vài bệnh tật, đặc biệt là trong lănh vực tim mạch.Và chính đó là điều vừa được chứng nhận bởi một nhóm các nhà dịch tễ học bao gồm những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Trung Quốc, đối đầu với ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu mà các công tŕnh được công bố trong Cancer, đă nghiên cứu sự tiêu thụ flavonoides nơi 558 người đă phát triển một ung thư phổi, và nơi 837 người làm nhóm kiểm tra.
Công tŕnh nghiên cứu tiết lộ rằng nơi những người hút thuốc, nguy cơ phát triển ung thư phổi được thu giảm từ 32% đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định rơ. Mặt khác, các rau xanh, trà và rượu vang, các nguồn thực phẩm quan trọng của flavonoides, cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ phát triển một ung thư phổi. Tuy nhiên không có một tác dụng đáng kể nào nơi những người không hút thuốc. Các dữ kiện của nghiên cứu gợi ư rằng các flavonoides có thể có một lợi ích đặc biệt nơi các người nghiện thuốc lá mặc dầu sẽ là ảo tưởng khi hy vọng rằng có thể huỷ bỏ tất cả các tác dụng của thuốc lá bằng các chất chống oxy hóa (antioxydants).
(LE SOIR 11/6/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 87 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 1/8/2008 )
3/ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU CÓ MỨC ĐỘ VÀ SỰ NGĂN NGỪA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG
Việc tiêu thụ rượu rơ ràng là tốt đối với nhiều điều trong lănh vực sức khỏe, dĩ nhiên là với điều kiện việc uống rượu phải có chừng mực. Chúng ta đă biết những lợi ích của rượu, nhất là trên b́nh diện tim mạch. Và những lợi ích này dường như không chỉ giới hạn cho rượu vang đỏ (vin rouge) và resvératrol mà nó chứa. Bây giờ đây, theo một công tŕnh nghiên cứu của Polsky và các cộng sự viên của Hoa Kỳ, th́ ra việc tiêu thụ rượu đều đặn và có mức độ được liên kết với sự giảm nguy cơ chuyển qua bệnh đái đường thật sự, nơi những người trưởng thành ở trong t́nh trạng tiền đái đường (prédiabète) và thặng dư thế trọng hay bị chứng béo ph́.
LA SEMAINE MEDICALE (26/6/2008)
7/ MỘT THÀNH PHẦN TỰ NHIÊN CỦA RƯỢU VANG CÓ THỂ CÓ LỢI CHO TIM
Resvératrol, phân tử hiện diện trong rượu vang đỏ (vin rouge), có những tác dụng bảo vệ chức năng tim. Đó là kết luận của một công tŕnh được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ của đại học Madison và của công ty LifeGen Technologies. Được công bố ngày 3/6 trong tạp chí on line PloS One, các kết quả của họ, thu được trên chuột, cho thấy rằng sự tiêu thụ với lượng nhỏ resvératrol cho phép pḥng ngừa sự lăo hóa tim, giống hệt với sự pḥng ngừa được quan sát sau khi thực hiện một chế độ ăn uống hạn chế nhiều calorie.
LE MONDE (5/6/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 97 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 16/10/2008 )
6/ RƯỢU VANG ĐỎ CHỐNG LẠI UNG THƯ PHỔI
Sự tiêu thụ có mức độ rượu vang đỏ (vin rouge) làm giảm nguy cơ bị ung thư phổi nơi các người đàn ông. Đó là điều được tiết lộ bởi một công tŕnh nghiên cứu được công bố trong “Cancer Epidemiology, Biomarkers and Prevention”, một tờ báo của Hiệp hội nghiên cứu chống ung thư của Hoa Kỳ. Tính chất bảo vệ này là do khả năng chống oxy hóa của resveratrol, một phân tử hiện diện dồi dào trong rượu vang đỏ. Công tŕnh nghiên cứu, được thực hiện giữa năm 2000 và 2003 trên hơn 80.000 người đàn ông, đă cho thấy rằng nguy cơ bị ung thư phổi giảm 60% nơi những người nghiện thuốc uống 1 đến 2 ly rượu vang đỏ mỗi ngày.
(LE SOIR 8/10/2008)
9/ UỐNG ÍT RƯỢU CHỐNG BỆNH SUY TIM
Một công tŕnh nghiên cứu của Hoa Kỳ đă cho thấy rằng một sự tiêu thụ rượu mức độ thấp đến trung b́nh dường như làm giảm nguy cơ bị suy tim nơi những người cao huyết áp.
Điều chứng thực này là của Luc Djousse và J.Michael Gaziano (Havard Medical School, Boston, Hoa Kỳ) từ các kết quả của Physician’s Health Study . Điều này có liên quan những bệnh nhân với tiền sử nhồi máu cơ tim hay đái đường cũng như những bệnh nhân không có những bệnh lư này.
Trong quá khứ, việc uống rượu đă được đặt trong mối liên quan với một sự gia tăng huyết áp và khi sự gia tăng này quan trọng, sẽ dẫn sự giăn tim. Trái lại, điều chưa được rơ ràng đó là hiệu quả, nơi những người cao huyết áp, của một sự tiêu thụ rượu ở mức độ thấp đến trung b́nh. Chính điều này đă thúc đẩy các nhà nghiên cứu phân tích các dữ kiện liên quan đến 5.153 người đàn ông cao huyết áp được tuyển mộ trong công tŕnh Physicians’ Health Study.
Những người tham dự, không có những tiền sử tai biến mạch máu năo, nhồi máu cơ tim hay ung thư vào lúc thực hiện công tŕnh nghiên cứu, đă được theo dơi trong 18 năm. Tuổi trung b́nh vào lúc bắt đầu nghiên cứu là 58 tuổi. So sánh với nhóm uống ít hơn một ly rượu mỗi tuần, những người uống nhiều có nguy cơ 11% thấp hơn (một đến 4 ly mỗi tuần) đến 62% thấp hơn (8 ly hoặc nhiều hơn mỗi tuần) phát triển một suy tim.
Cơ chế chính xác qua đó rượu có một tác dụng bảo vệ nơi những người cao huyết áp vẫn luôn luôn không được làm sáng tỏ. Có thể đó là do tác dụng lợi tiểu của nó, hoặc là do sự tăng cao nồng độ adiponectine mà nó gây ra trong huyết tương? Thật vậy, trong những mô h́nh động vật, người ta thấy rằng adiponectine bảo vệ chống lại các bệnh tim.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 7/10/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 103 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 27/11/2008 )
7/ SÀNH ĂN NHƯNG VẪN G̀N GIỮ TRÁI TIM M̀NH KHÔNG BỊ BỆNH
Trong hội nghị của Hiệp hội Tim học châu Âu, được tổ chức ở Munich ngày 30/8-3/9/2008, các thuyết tŕnh viên đă muốn chứng tỏ rằng chúng ta có thể hoàn toàn ăn uống thoải mái nhưng vẫn ǵn giữ trái tim ḿnh không bị bệnh .
RƯỢU VANG
Một sự tiêu thụ hợp lư rượu, và đặc biệt hơn là rượu vang, làm giảm nguy cơ tim mạch và nguy cơ toàn thể nơi những người lành mạnh và những người có tiền sử bệnh tim. Khả năng bảo vệ tối đa có được với 1 đến 2 ly mỗi ngày. Mọi sự tiêu thụ trên mức này làm lệch hệ số lợi-nguy cơ về phía nguy cơ.
CÀ PHÊ HAY TRÀ
Trái với một thành kiến thâm căn, cà phê về lâu về dài không làm gia tăng nguy cơ tim mạch, kể cả những người bị bệnh tim, mặc dầu trước mắt cà phê có thể gây nên một sự gia tăng huyết áp.
Về trà, hai công tŕnh phân tích méta đă chứng tỏ rằng sự tiêu thụ trà càng cao th́ tỷ lệ mắc phải những bệnh tim do xơ mỡ động mạch và những đột qụy càng thấp. Điều lạ lùng là những tác dụng bảo vệ này dường như không liên quan với những người dân của Vương Quốc Anh, mặc dầu họ là những dân nghiện trà thâm căn. Các chất chống oxy hóa thuộc loại flavonoides và catéchines, được chứa trong trà (đặc biệt là trà xanh) có vẻ là nguồn gốc của tác dụng bảo vệ tim mạch này.
CHOCOLAT ĐEN
Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh những biến đổi có lợi của chocolat đen (hạ huyết áp, cải thiện sự giăn các động mạch, cải thiện chức năng của các tiểu cầu trong máu).
Phải xác định rơ là chocolat đen mới là quan trọng bởi v́ chocolat trắng (vả lại không phải là chocolat) không có một tác dụng tim mạch có lợi nào và cũng bởi v́ chocolat càng đen, th́ nồng độ cacao càng cao và chính thành phần này mới mang những đặc tính của chocolat.
MỘT ĐƠN THUỐC SẼ ĐƯỢC VIẾT NHƯ THỂ NÀY VÀO MỘT NGÀY NÀO ĐÓ :
• Chocolat vào buổi sáng .
•Cà phê vào cuối buổi ăn trưa.
•Một ly rượu vang vào hai bữa ăn chính.
•Trà xanh (đặc biệt giàu chất chống oxy hóa) dùng trong ngày.
•Một miếng vuông chocolat đen buổi chiều lúc đi ngủ.
(COEUR ET ARTERES 11/2008)
8/ RƯỢU VANG : MỘT NGUỒN BỔ SUNG POLYPHÉNOLS
Ở Pháp, người dân có một cơ may mà những người Mỹ thèm muốn. Mặc dầu có một chế độ ăn uống giàu nước chấm (sauce), phó mát, đồ thịt lợn thổ địa, gratins, nhưng người Pháp vẫn giữ một tỷ lệ bị nhồi máu cơ tim tương đối thấp. Vùng của nước Pháp, nơi tỷ lệ mắc bệnh nhồi máu cơ tim thấp nhất, thật lạ lùng chính là nơi mà món ragout là chúa tể, đó là miền Tây Nam nước Pháp. Cái “nghịch lư Pháp” (french paradox) này từ lâu đă được xem như đặc biệt liên kết với sự tiêu thụ rượu vang đỏ, thông thường ở Pháp hơn là ở bên kia Đại tây dương, ở đây bia và whisky được ưa thích hơn.
Sự kiện một sản phẩm tổng hợp có tác dụng giống polyphénol, được chứa trong vỏ của trái nho, có thể làm giảm nguy cơ bị béo ph́ và bị bệnh đái đường, có cho phép kết luận rằng chính sự tiêu thụ nho giải thích “cái nghịch lư Pháp” hay không? “Thật vậy chất polyphénol (resveratrol) được chứa chủ yếu trong nho đen. Thế mà chất này sau đó lại được thấy nhất trong rượu vang đỏ. Nhưng có lẽ phải uống hàng trăm lít rượu trong ngày để có được một liều lượng có hiệu quả chống lại chứng béo ph́ và bệnh đái đường”. Thế mà uống trên ba ly rượu vang mỗi ngày đối với đàn ông và hai đối với phụ nữ, các biến chứng do rượu sẽ bắt đầu xuất hiện. Cái “nghịch lư Pháp” có lẽ có thể được giải thích một phần bởi rượu vang, nhưng cũng có những yếu tố khác can dự vào.
(LE FIGARO 6/11/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/12/2008 )
5/ MỘT CHẤT CHỐNG BÉO PH̀ ĐẦY HỨA HẸN XUẤT PHÁT TỪ RƯỢU VANG
Pháp đă khám phá một chất tổng hợp có tác dụng giống với vài thành phần của rượu vang và cho phép chuột giữ một trong lượng không thay đổi mặc dầu co một chế độ ăn uống tăng calo (un régime hypercalorique).
Những nhà nghiên cứu người Pháp đă nhận diện một chất được mệnh danh hiện nay là SRT 1720, cho phép các chú chuột tiếp tục một chế độ ăn uống giàu mỡ, nhưng không béo ph́, không trở nên bị bệnh đái đường, đồng thời cải thiện hiệu năng cơ. Các kết quả của những công tŕnh này, được công bố hôm qua trong tạp chí Hoa Kỳ Cell Metabolism, hết sức làm lưu ư công nghiệp dược phẩm, bởi v́ có ít nhất ba hăng dược phẩm đang phát triển một thứ thuốc phát xuất từ những nghiên cứu này.
Tất cả bắt đầu cách nay vài năm, khi các thầy thuốc người Pháp khám phá ra rằng một trong những polyphénols được chứa trong vỏ của trái chanh đen, resvératrol, bảo vệ chuột chống lại bệnh đái đường và chứng béo ph́. Các nhà nghiên cứu khi đó cho thấy rằng phân tử resvératrol tác dụng lên cả hai bệnh lư này bằng cách làm hoạt hóa một protéine của cơ thể được gọi là Sirt 1. Sirtris, một hăng Hoa Kỳ có cơ sở ở Boston, quyết định đầu tư vào khái niệm này và hiện nay đang trắc nghiệm một thứ thuốc có chất cơ bản là resvératrol để chống lại bệnh đái đường mỡ (diabète gras), cũng được gọi là bệnh đái đường loại 2. Các nhà nghiên cứu người Pháp của Viện di truyền và sinh học phân tử và tế bào, nguồn gốc của những khám phá đầu tiên này, sau đó bắt đầu t́m kiếm những phân tử tổng hợp cho phép hoạt hóa chất protéine Sirt 1, chất có ảnh hưởng một cách quan trọng lên thể trọng và nguy cơ bị bệnh đái đường. Sau cùng, họ nhận diện một hợp chất tổng hợp tương tự với resvératrol trên b́nh diện hóa học, SRT 1720 và quyết định trắc nghiệm chất này trên hàng chục con chuột được cho những chế độ ăn uống khác nhau.
MỘT HIỆU QUẢ KÉO DÀI.
Những kết quả của công tŕnh nghiên cứu được công bố trong Cell Metabolism thật đặc biệt đáng quan tâm. Những chú chuột được điều trị với SRT 1720 và chịu một chế độ ăn uống rất giàu mỡ đă không lên một gam trọng lượng nào và không phát triển khối lượng mỡ (masse grasse), trái với những con chuột được nuôi cùng cách thức nhưng không được điều trị với loại thuốc này. Ngoài ra không có chú chuột nào được điều trị với SRT 1720 bị bệnh đái đường cả, trong khi những con chuột khác có một sự đề kháng với insuline sau chế độ ăn uống quá nhiều mỡ. Rơ ràng là thuốc SRT 1720 bảo vệ chống lại chứng béo ph́ và bệnh đái đường loại 2. Thời gian tác dụng lên chuyển hóa kéo dài : tác dụng xuất hiện ngay tuần lễ thứ tư và tiếp tục trong suốt thời gian quan sát các chú chuột hoặc 15 tuần
“Những con chuột được điều trị bởi thuốc SRT 1720 đă giữ một trọng lượng không thay đổi mặc dầu chế độ ăn uống nhiều mỡ, trong khi những chú chuột khác đă tăng 2/3 trọng lượng của chúng. Thuốc này kích thích sự sử dụng mỡ, một cách tương tự như điều mà chúng ta quan sát trong trường hợp hạn chế calo, mặc dầu thức ăn giàu mỡ mang lại sự thặng dư năng lượn” , BS Jérome Feige (Viên di truyền và sinh học phân tử Illkirch) đă giải thích như vậy.
Nhiều hăng dược phẩm đă khởi đầu những thứ nghiệm để trắc nghiệm SRT 1720 chống lại chứng béo ph́, bệnh đái đường. Một vài hăng cho là hợp lư đánh giá tác động của nó lên những bệnh khác liên quan với tuổi tác, và nhất là trong bệnh Alzheimer. Công việc vẫn gay go. Đến măi ngày nay, các thuốc chống béo ph́ đă không có cơ may, v́ lẽ chúng hầu như bị rút ra khỏi thị trường sau vài năm, do những tác dụng phụ của chúng.
(LE FIGARO 6/11/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 106 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/12/2008 )
3/ MỘT LY, C̉N ĐƯỢC… HƠN HAI LY TH̀ …
Một trong những nguyên nhân khả dĩ của tỷ lệ tử vong tim mạch vào dip cuối năm là bệnh rung nhĩ (fibrillation auriculaire), liên kết với sự uống rượu gia tăng. Tác dụng có hại của một sự tiêu thụ rượu lâu dài lên nguy cơ phát sinh rung nhĩ nơi đàn ông đă được công nhận với một sự nhất trí rộng răi, nhưng các dữ kiện hiện có về phụ nữ đến nay vẫn tỏ ra mâu thuẫn.
Tư liệu y học đề cập dưới những góc độ khác nhau tác động của việc uống rượu lên nguy cơ tim mạch. Uống rượu có chừng mực làm giảm nguy cơ mạch vành, tai biến mạch máu năo và suy tim sung huyết. Trái lại, uống cấp tính những lượng lớn rượu (binge drinking) được thấy liên kết với một nguy cơ gia tăng bị nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo và rung nhĩ. Đó là những dữ kiện đă được xác nhận. Tuy nhiên có một sự nghi ngờ về ảnh hưởng của việc uống rượu đều đặn lên nguy cơ phát triển bệnh rung nhĩ, và nhất là ở các phụ nữ : những công tŕnh nghiên cứu khác nhau đă chỉ chứng tỏ một mối liên kết có ư nghĩa nơi đàn ông. Có thể có hai cách giải thích cho điều được quan sát này. Hoặc là các phụ nữ ít nhạy cảm đối với rượu, hoặc số phụ nữ tham gia vào các công tŕnh nghiên cứu quá thấp nên không thể xác lập được một mối liên hệ.
BẮT ĐẦU TỪ HAI LY.
Một công tŕnh nghiên cứu mới đây mang lại một thông tin bổ sung. Trên 34.000 phụ nữ hơn 45 tuổi và mạnh khỏe vào lúc bắt đầu nghiên cứu, đă được theo dơi trong một thời gian trung b́nh 12 năm. Họ đă báo cáo mức độ uống rượu của họ trong một bảng câu hỏi : không uống ly nào, dưới một ly mỗi ngày, dưới hai ly mỗi ngày, hay hơn hai ly mỗi ngày. Những kết quả cho thấy rằng chỉ những phụ nữ đă uống hơn hai ly mỗi ngày mới có một nguy cơ gia tăng quan trọng bị rung nhĩ lâu dài. Những kết quả này có khuynh hướng cho thấy rằng trên thực tế phụ nữ nhạy cảm với rượu hơn là đàn ông. Thật vậy, một điều tra trước đây đă thiết lập ngưỡng 5 ly mỗi ngày nơi đàn ông.
CẤP TÍNH VÀ MĂN TÍNH.
Chúng ta hăy trở lại với những người ăn Noel và Năm Mới. Công tŕnh nghiên cứu nói trên không liên hệ với việc uống những lượng rượu cao nơi những người hầu như không hề uống rượu trong năm.Về vấn đề này, chẳng phải hoài nghi bao nhiêu : những người này có nguy cơ bị rung nhĩ gia tăng, dầu cho số lượng rượu uống trong năm là bao nhiêu. Vậy một nồng độ rượu cao đúng là có hại về lâu về dài đối với điện sinh lư của tim
(LE GENERALISTE 18/12/2008)
4/ RƯỢU VÀ CÁC HUYẾT QUẢN
Nếu một hoặc hai ly rượu vang mỗi ngày có thể có lợi cho tim và các huyết quản, th́ trái lại sự hấp thụ những lượng lớn rượu trong một khoảng thời gian giới hạn làm gia tăng nguy cơ bị xơ mỡ động mạch (athérosclérose). Một thí nghiệm được thực hiện in vitro bởi John P.Cullen và các cộng sự viên (Đại Học Rochester, Hoa Kỳ) đă làm sáng tỏ một cơ chế khả dĩ. Những liều lượng cao acétaldéhyde, chất chuyển hóa chính của rượu, có thể kích thích sự dính kết của các bạch cầu mono (monocytes) với hậu quả là làm gia tốc quá tŕnh xơ mỡ động mạch.
Vậy rượu dường như gây nên những tác dụng đối nhau, tùy theo cách uống : uống có mức độ (1-2 ly mỗi ngày) có một tác dụng bảo vệ tim. Nhưng hoàn toàn trái lại nếu ta “ tiết kiệm ” những nồng độ có ích hàng ngày trong năm, để uống chúng chỉ trong một lần vào dịp đêm Giáng Sinh.
(LE GENERALISTE 18/12/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )
5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?
Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.
Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.
Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.
Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)[/color]
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 138 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 9/8/2009 )
5/ RƯỢU TỐT VÀ XẤU CHỐNG BỆNH ALZHEIMER
PREVENTION. Theo một công tŕnh nghiên cứu được công bố mới đây, uống một hoặc hai ly rượu vang mỗi ngày làm giảm bớt nguy cơ bị bệnh Alzheimer nơi những người già.
Về rượu, dường như không bao giờ có ǵ là quyết định và lư tưởng cả. Trong khi cuốn sách mỏng của viện quốc gia ung thư (Inca) cách nay vài tháng chỉ rơ rằng việc uống chỉ một ly rượu mỗi ngày làm gia tăng một ít nguy cơ mắc phải ung thư, th́ một công tŕnh nghiên cứu mới đây, được tŕnh bày vào đầu tuần này, nhấn mạnh rằng cũng sự uống rượu có mức độ này làm giảm xác suất trở thành nạn nhân của bệnh Alzheimer.Tài liệu xuất bản sau cùng này, được tŕnh bày nhân hội nghị các chuyên gia ở Vienne, Áo, dành cho căn bệnh thoái hóa thần kinh Alzheimer, dựa trên một cuộc điều tra, được tiến hành nơi 3.079 người tuổi từ 75 và hon. Những người này đă được quan sát trong 6 năm và đă được yêu cầu ghi chú một cách chính xác việc uống rượu của họ. Rồi họ được chia thành 4 loại : không hề uống rượu, từ 1 đến 7 ly rượu mỗi tuần, 8 đến 14 ly mỗi tuần và hơn 14 ly được uống trong cùng thời gian, theo Kaycee Sink, một trong các tác giả của công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi đại học Hoa Kỳ Wake Forest de Winston-Salem (Bắc Caolina). Sau khi xem xét các bệnh nhân mỗi 6 tháng, th́ ra trong số những người chỉ uống giới hạn mỗi ngày một hay hai ly rượu, nhất là rượu vang, th́ nguy cơ bị bệnh Alzheimer được giảm 37%.
Ngược lại, trong số những người vốn đă có những rối loạn nhẹ về trí nhớ và đă uống hơn 14 ly mỗi tuần, nguy cơ bị bệnh Alzheimer tăng cao đến 2 lần nhiều hơn so với những người kiêng uống bất cứ loại rượu nào.
MỘT LỰA CHỌN “ CORNELIEN ”
Trong một báo cáo, được xuất bản năm 2007, đối chiếu một số lớn các công tŕnh được thực hiện trên toàn thế giới, Inca kết luận rằng “ việc uống rượu đều đặn không được khuyến nghị. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ rượu có mức độ với một nguy cơ càng cao khi sự tiêu thụ càng lớn ”. Ư niệm này hiển nhiên gây nên sự la ó phản đối nơi những nhà làm rượu và những nhà trồng nho, nhưng cũng nơi vài thầy thuốc, xác nhận rằng tiêu thụ rượu mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại các bệnh tim mạch. G.S Dominique Marininchi, tổng giám đốc Inca, đă t́m cách làm giảm bớt cuộc luận chiến : “ Chúng tôi đă muốn cho một thông tin. Và nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không nguy cơ, nghĩa là ngưỡng mà người ta không quan sát thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Lời phát biểu của chúng tôi không phải là cấm đoán, nhưng là để thông tin.” Thực ra, tất cả vấn đề là muốn biết chúng ta có muốn một cuộc sống với một nguy cơ zero hay không : bởi v́ uống rượu có mức độ cũng có những lợi ích khác (cảm thấy thoải mái và làm dễ đời sống xă hội).
Ở Vienne, người ta nhắc lại rằng với sự gia tăng tuổi thọ, khoảng 16 triệu người sẽ bị bệnh Alzheimer ở Châu Âu vào năm 2050, so với 7 triệu được thống kê năm 2.000. Bị một ung thư hay mất trí nhớ : một lựa chọn cornélien.
(LE FIGARO 6/8/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 150 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 30/11/2009 )
4/HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH : MỘT ÍT RƯỢU CÓ TÁC DỤNG BẢO VỆ.
Các lối sống của 40.000 phụ nữ, mà trong số đó 2000 người được nhập viện v́ huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse), đă được phân tích bởi một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ. Các tác giả t́m mối tương quan giữa chế độ ăn uống và sự xuất hiện của bệnh huyết khối tĩnh mạch. Ngược lại với mọi chờ đợi, nguy cơ đă được thu giảm 26% nơi các phụ nữ tuyên bố là đă uống rượu mức độ nhẹ mỗi ngày, so với các phụ nữ kiêng cữ.
(PARIS-MATCH 15/10-21/10/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 157 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/1/2010 )
6/ RƯỢU : SỰ TÁI PHÁT CỦA UNG THƯ VÚ.
Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng rượu làm dễ sự xuất hiện của ung thư vú. Nhưng tác dụng thật sự của nó lên các phụ nữ đă được điều trị vẫn không được rơ ràng. Một nhóm nghiên cứu California (của Kaiser Permanente, Auckland) đă tŕnh bày, nhân hội nghị mới đây ở San Antonio, những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu : hơn 3 hay 4 ly nước uống có chất cồn mỗi tuần làm gia tăng 30% nguy cơ tái phát khối u ! Các nhà nghiên cứu đă thực hiện một theo dơi đều đặn các bệnh nhân theo thời gian, ngay khi họ được đưa vào công tŕnh nghiên cứu (1997) trong 8 năm. Tổng cộng, 1900 phụ nữ được chia thành hai nhóm, một nhóm tập hợp những phụ nữ uống rượu, nhóm kia gồm các phụ nữ không uống hay chỉ uống đôi khi. Sau 8 năm, 349 phụ nữ đă có một tái phát ung thư vú. Những tái phát này đă xảy ra thường hơn nơi các phụ nữ măn kinh uống rượu đều đều. Rượu vang (vin) là thức nước uống được tiêu thụ thường hơn hết (bởi 90% các phụ nữ). Theo Marilyn Kwan, rượu gây nên một sự gia tăng nồng độ œstrogène, thế mà phần lớn các ung thư vú đều phụ thuộc hormone này (oestrogénodépendant ).
(PARIS MATCH 23/12-30/12/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 8/2/2010 )
3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.
Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.
PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).
Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).
“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.
Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”
SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .
Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.
Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 167 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 29/3/2010 )
1/ RƯỢU VANG CÓ ĐƯỢC CHỨNG MINH LÀ TỐT CHO SỨC KHỎE HAY KHÔNG ?
Ngày nay chúng ta thường chấp nhận rằng một sự tiêu thụ có mức độ nhưng đều đặn rượu vang đỏ (vin rouge) (một hay hai ly mỗi ngày) bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch. Đó là “ nghịch lư Pháp ” (paradoxe français) nổi tiếng từ 40 năm nay. Các cổ nhân đă nói rằng “ ruợu ngon làm vui trái tim của con người ”(Le bon vin réjouit le cœur de l’homme).
Gần chúng ta hơn, Louis Pasteur đă không do dự khi xác nhận rằng“ rượu vang là nước uống lành mạnh nhất và vệ sinh nhất mà ta có được. Tuy vậy những tác dụng có hại của rượu đúng là được xác lập. Rượu vang phải chăng là ngoại lệ trong số các nước uống được pha chế cồn (boissons alcoolisées) hay phải chăng chính cách uống “ theo kiểu Pháp ”, có chừng mực nhưng đều đặn mà ta phải quy kết ?
Nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học với những kết quả nói chung giống nhau ủng hộ cho giả thuyết về một tác dụng bảo vệ của rượu vang đỏ, (mà những nước uống có chất cồn khác không có được), được thể hiện chủ yếu bởi một sự giảm huyết áp và các nguy cơ bị tai biến mạch máu năo và tim.
Nhưng những thử nghiệm lâm sàng dài hạn, cho phép rút ra những kết luận về các hiệu quả của một sự tiêu thụ có mức độ rượu vang, trên thực tế không thể thực hiện được. Thật vậy, xét v́ tiến triển rất chậm của các bệnh tim mạch, để cho những kết quả về mặt thống kê có giá trị, trong nhiều năm buộc cần phải có một chế độ kiểm soát nghiêm ngặt nơi một số rất lớn những người t́nh nguyện, được chia thành những người chứng và những người được điều trị,
NHỮNG THÍ NGHIỆM KHÔNG HOÀN TOÀN.
Ngoài cồn (alcool), rượu vang chứa các chất polyphénols, trong số đó có những hợp chất tạo nên sắc màu rượu vang đỏ, dường như có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại những tác dụng có hại của “ stress oxy hóa ”, một hiện tượng oxy hóa (oxydation) các hợp chất trong tế bào, gia tăng với tuổi tác và can thiệp trong các bệnh măn tính có liên quan với sự lăo hóa.
Polyphénols của rượu vang, hay sự liên kết của chúng với những nồng độ nhỏ cồn, có thể tham dự vào những tác dụng bảo vệ của rượu vang lên hệ tim mạch. Tuy nhiên những kết luận này được rút ra từ những thí nghiệm trên các tế bào hay động vật, hay những thử nghiệm lâm sàng ngắn hạn. Nhiều nghi vấn khoa học tồn tại về sự hấp thụ bằng đường tiêu hóa và số phận của các chất polyphénols này trong cơ thể .
Mặt khác, các polyphénols này được t́m thấy trong các loại thức ăn khác : chúng hiện diện với những lượng quan trọng trong vài nước vắt nho đỏ (raisin rouge), nhưng cũng có mặt trong các trái cây đỏ, trong vài loại rau xanh, trong trà và cacao, với cùng những tác dụng bảo vệ.
Nhưng người ta cũng chứng thực rằng tỷ lệ tử vong tim mạch thấp nhất được quan sát chủ yếu trong miền nam nước Pháp và trong những nước khác của vùng Địa trung hải ; thế mà, ở đó rượu vang cạnh tranh với những thành phần khác của món ăn cổ truyền của những vùng này, các trái cây và các rau xanh, không quên dầu olive.
Xét v́ nhiều điều không chắc chắn về những tác dụng có thể có lợi của rượu vang (vin), ngược với những tác dụng có hại được xác lập của cồn (alcool), do đó khuyến nghị tiêu thụ đều đặn rượu vang, ngay cả với lượng vừa phải, v́ một lư do không phải là sự lạc thú thưởng thức một cách khôn ngoan, là điều không thận trọng.
(LE FIGARO 8/3/2010)
UNG THƯ : CHỈ MỘT LY RƯỢU CŨNG ĐỦ LÀM TĂNG NGUY CƠ.
Alimentation. Được biến đổi trong cơ thể thành chất sinh ung thư, cồn (alcool) làm gia tăng 168% khả năng bị ung thư miệng, hầu và thanh quản.
Đây là một tin xấu đối với những kẻ thích uống rượu, dầu chỉ một tí ít thôi, và nghĩ rằng như vậy là “phải chăng”. Thật vậy, những công tŕnh nghiên cứu mới đây cho thấy rằng không có sự tiêu thụ rượu nào mà không có nguy cơ bị ung thư. Như là, sự việc chỉ uống một ly rượu vang mỗi ngày cũng đủ để làm gia tăng nguy cơ này từ 9% lên đến 168% tùy theo định vị của ung thư. Hôm qua, các giáo sư Dominique Maraninchi, giám đốc của viện ung thư quốc gia, và Didier Houssin, tổng giám đốc y tế, đă tŕnh bày một cuốn sách mỏng dành cho các thầy thuốc và đưa ra những lời khuyến nghị ăn uống để pḥng ngừa ung thư Những lời khuyến nghị này, được căn cứ trên một báo cáo quốc tế năm 2007, đă phân tích hơn 7000 điều tra khoa học, nhấn mạnh vào mối liên quan giữa rượu và ung thư. Khoảng 10,8% các ung thư nơi đàn ông và 4,5% nơi phụ nữ là do rượu.
Trong những năm 1990, nước uống này đă được xem như là có lợi cho sức khỏe nếu uống với liều lượng nhỏ. Nhưng thời thế đă thay đổi. Những nguy cơ liên kết với những liều lượng nhỏ sóng điện từ, dioxine, hoạt động phóng xạ là đối tượng của những bàn căi và âu lo mạnh mẽ trong xă hội. Nguy cơ mắc phải ung thư liên kết với sự tiêu thụ một hay hai ly rượu vang mỗi ngày có vẻ rơ ràng và không hề là đối tượng của một tranh căi nào. Ngay cả những lợi ích của rượu vang lên tim cũng bắt đầu bị xét lại.
Các nước uống cồn (boissons alcoolisées) được liên kết với một sự gia tăng của các ung thư của miệng, của hầu, của thanh quản, của thực quản, của đại trực tràng, của vú và của gan. Nguy cơ gia tăng với lượng tiêu thụ. Một ly rượu được tiêu thụ mỗi ngày làm gia tăng 168% nguy cơ bị ung thư miệng, hầu và thanh quản, làm gia tăng 28% nguy cơ ung thư thực quản, 10% nguy cơ ung thư vú và 9% nguy cơ ung thư đại tràng.
WHISKY, RƯỢU VANG HAY BIA
Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể bắt đầu từ một ly mỗi ngày, Paul Martel, nữ giám đốc nghiên cứu của Inra đă giải thích như vậy hôm qua. Hậu quả tùy thuộc vào lượng cồn tiêu thụ và không tùy thuộc vào loại nước uống cồn. Một ly cồn (alcool) tương ứng với 3 centilitres whisky, với 10 centilitres rượu vang hay champagne, với 25 centilitres bia...
Làm sao cồn làm gia tăng nguy cơ bị ung thư? Một báo cáo năm 2007 của Viện ung thư quốc gia đă tŕnh bày vấn đề này. Như là, rượu hay éthanol được biến hóa trong cơ thể thành acétaldéhyde, một phân tử được công nhận là chất sinh ung thư nơi người, chủ yếu bởi một enzyme, ADH (alcool déshydrogénase), hiện diện trong gan, nơi miệng... Acétaldéhyde cuối cùng được thải bởi một enzyme khác. Tuy nhiên nồng độ của phân tử sinh ung thư là acétaldéhyde này có thể tồn tại rất lâu trong cơ thể nơi những người uống rượu nhiều hay nơi những người được chương tŕnh hóa về mặt di truyền để làm thoái hóa rất chậm acétaldéhyde. Rượu cũng tác dụng trực tiếp, tại chỗ (lên miệng, hầu, thanh quản, thực quản) như một chất dung môi (solvant), làm gia tăng tính thẩm thấu của các niêm mạc đối với những chất gây ung thư như thuốc lá. Điều này giải thích tác dụng hiệp đồng của hai yếu tố này. Năm 2007, Trung tâm quốc tế chống ung thư đă xếp loại cồn (alcool) trong loại các tác nhân gây ung thư đối với người..
(LE FIGARO 18/2/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 119 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 31/3/2009 )
1/ CUỘC LUẬN CHIẾN VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA UNG THƯ VÀ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU
Các chuyên gia khẳng định: việc uống rượu đều đặn là việc không nên làm.
Cuốn sách mỏng của Viện ung thư quốc gia và của Tổng giám đốc y tế, trong tháng qua đă giải thích rằng ngay việc uống một ly rượu mỗi ngày cũng làm gia tăng một ít nguy cơ bị ung thư, đă gây nên sự la ó ầm ĩ. Những nhà làm rượu, những người trồng nho, và ngay cả một vài thầy thuốc đă lâm chiến chống lại tài liệu này và xác nhận rằng sự tiêu thụ rượu với mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại bệnh tim mạch. Ngay cả một cuốn sách mỏng nhằm nói chống lại cũng đang được sửa soạn để phát hành. “ Chủ đề này đă bị hiểu sai, giáo sư Dominique Maraninchi, tổng giám đốc viện quốc gia ung thư, đă giải thích như vậy. Chúng tôi đă muốn đưa ra một thông tin. Chúng tôi nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không gây nguy cơ, nghĩa là ngưỡng trong đó người ta không nhận thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Những lời phát biểu của chúng tôi không phải là để cấm đoán bất cứ điều ǵ, nhưng chỉ là những thông tin.” Đối với giáo sư Michel Reynaud, “ tất cả vấn đề là xem liệu chúng ta có muốn có một cuộc sống với một nguy cơ số không hay là không. Nếu những lợi ích của một lượng nhỏ rượu vang trên các bệnh tim mạch vẫn không chắc chắn, trong khi những nguy cơ bị ung thư được xác lập khá rơ, th́ việc tiêu thụ rượu vẫn có những lợi ích khác. Uống rượu đặc biệt cho phép con người ta cảm thấy thoải mái. Uống rượu làm dễ sự giao tiếp trong đời sống xă hội của ḿnh. Ngược lại, điều chắc chắn là, những liều lượng nhỏ rượu, được tiêu thụ một cách đều đặn, là nguy hiểm hơn những liều nhỏ thuốc trừ sâu hay c̣n nguy hiểm hơn cả các antennes-relais ”. Nguy cơ của những liều lượng nhỏ rượu cũng được liên kết với một tố bẩm cá nhân, với sự liên kết với những độc chất khác như thuốc lá..
Sự phân tích các mối liên kết giữa ung thư và rượu được căn cứ trên những điều tra dịch tễ quy mô lớn, so sánh trên những nhóm người với số lượng to lớn, tỷ lệ mắc phải ung thư với những thói quen tiêu thụ rượu. Những nghiên cứu thí nghiệm cho phép kiểm tra tính đúng đắn của những kết luận này, bằng cách xem xét tác dụng của rượu lên các canh cấy tế bào, lên các mô h́nh động vật.
MỘT SỰ VỮNG VÀNG KHÔNG THỂ TRANH CĂI
Năm 2007, Viện ung thư quốc gia đă phát hành một báo cáo hoàn chỉnh về vấn đề này, xem xét mức độ nguy cơ tùy theo lượng rượu được uống vào. Các kết quả không phải là kết quả của một điều tra, nhưng là tổng số của nhiều công tŕnh nghiên cứu khoa học trên thế giới. Điều này mang lại một sự vững chắc không thể tranh căi được. Mặc dầu vài con số khiến những giải thích dị biệt bởi v́ dịch tễ học thường để tồn tại những vùng không rơ ràng. Bản báo cáo này, được biên soạn bởi một nhóm chuyên gia, dầu sao đảm bảo một cách rơ ràng rằng “ việc tiêu thụ rượu đều đặn là không nên. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ mức độ trung b́nh, với một nguy cơ càng cao nếu sự tiêu thụ càng cao. ” Ngay cả đối với những lợi ích tim mạch, mối liên hệ cũng không rơ ràng lắm. Trong những năm 1980, rượu vang với mức tiêu thụ thấp đă được xem là một yếu tố bảo vệ. Ngày nay, những điều chắc chắn này đă hơi bị tan biến đi. Vài chuyên gia, nhưng không phải là tất cả, cho rằng những kết quả này là thiên lệch. Từ nay uống rượu với mức độ thấp chỉ có lợi ích là cho cảm giác khoái trá và cảm giác dễ chịu. Trong thời buổi của chúng ta hiện nay, điều đó không phải là không đáng kể.
(LE FIGARO 25/3/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 123 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 24/4/2009 )
4/ UỐNG RƯỢU BỊ TRANH CĂI NƠI PHỤ NỮ.
Một công tŕnh nghiên cứu trên hơn 1 triệu phụ nữ ở Vương Quốc Anh gợi ư rằng việc tiêu thụ rượu, ngay cả với những lượng nhỏ, làm gia tăng nguy cơ phát triển vài loại ung thư. Naomi Allen và những cộng sự viên (Đại học Oxford) đă phân tích các dữ kiện có liên quan đến 1.280.296 phụ nữ tuổi trung niên, đă tham dự vào công tŕnh nghiên cứu Million Women Study. Nh́n toàn thể, những người tham dự uống khoảng một ly mỗi ngày. Một tỷ lệ thấp hơn trong số những người tham dự đă uống 3 ly hoặc nhiều hơn mỗi ngày, 24% đă không bao giờ uống rượu. Trong một thời kỳ theo dơi trên 7 năm, 68.775 phụ nữ đă phát triển một ung thư. Trong số những phụ nữ uống đều đặn dưới 3 suất rượu mỗi ngày, người ta quan sát thấy một sự gia tăng 1,5% nguy cơ bị ung thư, đặc biệt là ung thư miệng, họng, thực quản, hầu, trực tràng, gan và vú. Việc tiêu thụ rượu mỗi ngày càng gia tăng, th́ nguy cơ bị ung thư càng lớn. Những nguy cơ giống nhau dầu loại rượu được uống là loại nào. Trái lại, uống rượu ít hay có mức độ, được liên kết với sự giảm rơ rệt nguy cơ phát triển ung thư tuyến giáp và lymphome non-Hodgkinien.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/4/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 169 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/4/2010 )
3/ NGHIỆN RƯỢU : NHỮNG HƯỚNG MỚI.
Mặc dầu những thuốc mới đang được thử nghiệm, nhưng ta không thể không biết tầm quan trọng của hỗ trợ tâm lư (soutien psychologique).
DROGUE. Đối với 2 triệu người Pháp tiêu thụ quá nhiều rượu và đă bị phụ thuộc (dépendant), vấn đề không những là cai rượu (sevrage) mà c̣n là ngăn ngừa các tái phát. Các con số chứng tỏ điều đó : sau khi cai rượu, một năm sau, khoảng 1/3 đă không đụng trở lại một giọt rượu nào. 1/3 khác trải qua những giai đoạn kiêng khem và những thời kỳ tái phát. Sau cùng, 1/3 c̣n lại đă không bao giờ thành công cai được rượu. Đối với GS Patrice Couzigou (thay thuốc chuyên khoa gan-dạ dày-ruột, CHU de Bordeaux), điều đó không có ǵ là ngạc nhiên : “ Vấn đề không phải là có một cuộc sống không rượu (une vie sans alcool) mà là t́m ra một cân bằng mới trong cuộc sống, không có chất cồn. Thế mà chỉ với việc kê đơn thuốc mà thôi điều đó không có thể và sẽ không bao giờ có thể thực hiện được. Phải thay thế sự phụ thuộc rượu (dépendance à l’alcool), có hại, bằng những phụ thuộc khác dương tính hơn (thể thao, giải trí, âm nhạc...) tùy theo những quan tâm chính của mỗi người. Điều đó đ̣i hỏi một “ prise en soins ” sur mesure và đ̣i hỏi thời gian.” Về thuốc men, nó chỉ có thể mang lại một sự hỗ trợ bổ sung. Hiện nay nhiều thử nghiệm điều trị đang được tiến hành ở Pháp và Hoa Kỳ, với một thứ thuốc đầy hứa hẹn, baclofène (Loresal), được cho là làm giảm sự thèm rượu, nhưng không phải v́ thế là một giải pháp nhiệm màu.
Một trong những vấn đề được đặt ra bởi sự lạm dụng rượu (abus d’alcool), đó là sự lạm dụng này bị che khuất quá thường và quá lâu. Khi người ta lo lắng th́ thường đă quá muộn. Người ta thường có thói quen gợi ra một nguy cơ đối với sức khỏe khi uống trung b́nh trên 3 ly chuẩn mỗi ngày (như các ly rượu được phục vụ ở các bar) đối với những người đàn ông hay 2 ly mỗi ngày đối với các phụ nữ (hoặc 21 ly mỗi tuần đối với những người đàn ông và 14 ly đối với các phụ nữ) nhưng chúng ta không b́nh đẳng trước sự phụ thuộc (dépendance), vài người mẫn cảm hơn nhiều so với những người khác. “ Ngoài ra, việc không thể kiêng uống trong vài trường hợp, ví dụ mỗi lần ra đi vui chơi giữa các bạn bè, th́ có lẽ đă là một dấu hiệu phụ thuộc tâm thần (dépendance psychique), mặc dầu khoảng 2 triệu người Pháp có liên hệ nghĩ là minh không bị như vậy, lấy cớ là họ có thể nhiều ngày không uống khi họ không ra khỏi nhà ”, BS Kiritzé-Topor, thầy thuốc chuyên khoa về rượu đă nhấn mạnh như thế.
Sau cùng, không cần phải là “ nô lệ ” của rượu mới khỏi trả giá cho các hậu quả : khoảng hai trường hợp tử vong sớm th́ có một được liên kết với rượu, xảy ra noi những người tiêu thụ rượu nhưng không phụ thuộc. Như thế, để làm tốt, cần phải xét lại công tác phát hiện những người có nguy cơ.
“ Hiện nay, trên 5 triệu người Pháp lạm dụng rượu, rất ít được theo dơi bởi một thầy thuốc v́ vấn đề này ”, BS Kiritzé-Topor đă xác nhận như vậy. Việc cai (sevrage) của những người phụ thuộc rượu (alcoolo-dépendant) tự nó không đặt vấn đề. Sự cai rượu này dựa trên một phác đồ (protocole) đă chứng tỏ có hiệu quả : 1,5 đến 2 lít nước uống mỗi ngày (không cồn, không đường và không caféine). Các benzodiazépine trong 48 giờ với liều mạnh, rồi giảm dần, không vượt quá 10 ngày. Vitamine B1 và acide folique. Và trong 3 đến 10 ngày, vụ việc được giải quết : ít mệt hơn, ít các thay đổi tính khí đột ngột hơn, nhưng ăn ngon hơn … ít nhất, cho đến các ly rượu sắp đến. Bởi v́ các tái phát là rất (quá) thường xảy ra và đó mới đúng là vấn đề.
Để cố giải quyết điều này, khoảng 100.000 bệnh nhân nhận một trong hai điều trị hiện nay giúp duy tŕ sự cai rượu : naltrexone (Nalorex) và acamprosate (Campral), nhằm làm cho sự duy tŕ kiêng khem được dễ dàng hơn. Những loại thuốc này nhằm ức chế sự ham muốn liên kết với việc uống rượu. Tỷ lệ thấp các bệnh nhân được điều trị bởi những thuốc này nói lên sự ưa thích hơn của các chuyên gia đối với tâm lư liệu pháp (psychothérapie), đặc biệt là những liệu pháp hành vi và nhận thức (thérapie comportementale et cognitive).
Và không phải sự nghiên cứu hiện nay về baclofène (không được phép đưa ra thị trường trong chỉ định này) làm thay đổi cục diện. Chất giăn cơ (myorelaxant) này, b́nh thường được chỉ định để điều trị các co thắt (contracture spastique), lại làm bệnh nhân ít nhiều hờ hững với rượu khi thuốc được cho với liều rất cao (2 đến 4 lần liều lượng b́nh thường). Một công tŕnh nghiên cứu của Ư, được công bố trên The Lancet năm 2007, đă cho thấy rằng có nhiều người kiêng rượu trong số những bệnh nhân được điều trị với baclofène hơn so với những người được cho placebo. Nhưng trong thời gian bao lâu ? Với những tác dụng phụ trước mắt và lâu dài nào ? Những công tŕnh nghiên cứu đang được tiến hành sẽ mang lại câu trả lời.
(LE FIGARO 22/3/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 178 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 15/6/2010 )
8/ TẠI SAO RƯỢU LÀ MỘT NGUYÊN NHÂN QUAN TRỌNG CỦA CÁC UNG THƯ ?
GS Roger Normann
Biologiste et Spécialiste en Santé Publique
Trong khi tất cả chúng ta đều ư thức về vai tṛ của chứng nghiện thuốc lá (tabagisme) là nguồn gốc của các ung thư, th́ sự liên kết giữa việc tiêu thụ rượu quá mức và các ung thư thường ít được biết đến.Tuy vậy, ở Châu Âu, khoảng 150.000 trường hợp ung thư có thể được quy trực tiếp cho rượu. Ở Pháp, gần 10% các trường hợp tử vong do ung thư được liên kết với sự lạm dụng rượu nơi đàn ông và 3% nơi phụ nữ. Như thế ruợu là nguyên nhân thứ hai có thể tránh được của ung thư sau thuốc lá. Sự liên kết giữa việc tiêu thụ các đồ uống có chất cồn (boissons alcooliques) và các ung thư đặc biệt rơ ràng đối với các ung thư của phần trên của những đường hô hấp-tiêu hóa trên (cancers des voies aéro-digestives supérieures), các ung thư đại-trực tràng, cũng như những ung thư gan và vú, nhưng, mặc dầu các cơ chế gây bệnh khác nhau đối với mỗi loại ung thư, nhưng người ta biết rằng, dầu đó là loại ung thư ǵ chăng nữa, không phải loại rượu là nguyên nhân gây bệnh, mà luôn luôn là lượng cồn được tiêu thụ.
KHUẨN CHÍ RUỘT : KẺ ĐỒNG LƠA CỦA RƯỢU.
Các vi khuẩn và các men hiện diện trong xoang miệng và phần tận cùng của ruột có những enzymes có tác dụng xúc tác sự biến đổi rượu thành acétaldéhyde. Không phải chính rượu mà là sự tích tụ acétaldéhyde mới là độc. Nồng độ acétaldéhyde trong nước miếng có thể 10 đến 100 lần cao hơn trong máu, làm dễ sự xuất hiện của ung thư. Nồng độ này càng mạnh khi người ta đồng thời vừa hút thuốc và uống rượu, tạo nên một tác dụng cộng lực của rượu và thuốc lá trong các ung thư của các đường hô hấp-tiêu hóa trên (voies aéro-digestives supérieures) (miệng, thanh quản, hầu, thực quản). Thiếu vệ sinh răng• miệng cũng làm dễ sự hiện diện trong miệng của quần thể vi khuẩn gây nên sự tích tụ tại chỗ của acétaldéhyde từ alcool. Sự oxy hóa của alcool bởi khuẩn chí ruột với sự tích tụ tại chỗ acétaldéhyde cũng giải thích sự gia tăng quan trọng của nguy cơ ung thư đại-trực tràng nơi những người tiêu thụ đều đặn các đồ uống có chất cồn.
NHỮNG GỐC TỰ DO, VŨ KHÍ BÍ MẬT CỦA RƯỢU.
Sau khi được hấp thụ ở ruột, alcool được oxy hóa ở gan và được loại bỏ. Đó là xa lộ mà các đồ uống cồn đi qua với hiệu quả năng lượng mà ta đă biết... cho đến lúc, bị bảo ḥa, xa lộ gởi trả lại rượu thặng dư về phía các đường nối (bretelles), ở đó hoành hành cac gốc tự do, những loại phản ứng khả dĩ gây nên những chỗ găy và những thương tổn của các hệ sửa chữa của ADN, cũng như những rối loạn của sự điều ḥa của các gène bảo vệ, với sự tăng sinh vô tổ chức của các tế bào. Như thế, stress oxy hóa, liên kết với sự tăng sản xuất các gốc tự do trong lúc chuyển hóa rượu theo đường này, là một nguyên nhân quan trọng của ung thư gan. Theo cùng hiện tượng, rượu làm tăng tác dụng sinh ung thư của các độc chất có thể được chứa trong thức ăn hay các loại thuốc. Sự lạm dụng rượu cũng tác động lên cân bằng hormone với một vai tṛ làm dễ ung thư vú.
TIÊU THỤ CÓ MỨC ĐỘ : MỘT KHẨU HIỆU NGUY HIỂM...
Nguy cơ ung thư gia tăng theo lượng rượu được tiêu thụ. Nhưng điều này chỉ có tính cách chỉ dẫn, v́ lẽ mỗi người có một khả năng phản ứng và tính nhạy cảm khác nhau đối với rượu. Những chiến dịch pḥng ngừa giải thích những cái mốc “ tiêu thụ có ít nguy cơ hơn ” không nhấn mạnh đầy đủ nguy cơ mắc phải ung thư, phần lớn không được biết đến đối với những đồ uống cồn. Những chiến dịch hẳn phải khiến các người tiêu thụ giảm bớt sự tiêu thụ của họ, nhưng điều quan trọng là ghi chú rằng một nguy cơ tiềm tàng làm gia tăng một ung thư hiện hữu ngay cả đối với những tiêu thụ dưới những điểm mốc này. Cần khuyến nghị, trên cơ sở một đơn vị rượu =10g, đối với một người đàn ông, đừng vượt quá 21 đơn vị cồn mỗi tuần và 14 đối với một phụ nữ.
(LE FIGARO 17/5/2010)
9/ MỘT GENE LÀM BUỒN NGỦ VÀ BẢO VỆ KHỎI BỊ NHIỄM ĐỘC RƯỢU.
ADDICTION. Tại sao vài người rơi vào giấc ngủ chỉ sau một ly rượu van trong khi những người khác có thể liên hồi ly này qua ly khác cho đến cuối đêm mà chẳng thấy buồn ngủ chút nào ? Sự khác nhau có thể là do một gène. Một gène, theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, bảo vệ các cá thể , mà người ta thường nói là “ không chịu được ” rượu, khỏi bị phụ thuộc vào sản phẩm này.
Để đạt được kết luận độc đáo này, nhóm nghiên cứu của Denis McCarthy (đại học Missouri) đă theo dơi hành vi của 91 thanh niên Mỹ gốc Phi Châu trong những giờ sau khi uống một lượng rượu vừa phải. Người ta nhận thấy rằng những người có khuynh hướng buồn ngủ nhất sau khi đă uống thường mang một gène được gọi là ADH1B3 hơn. Thế mà, các nhà nghiên cứu khác đă xác lập rằng loại gène này của ADH (alcool déshydrogénase, một trong những men có trách nhiệm trong sự chuyển hóa của rượu) được liên kết với với một sự phụ thuộc rượu thấp. Gène này có một đặc điểm khác : nó hầu như chỉ được t́m thấy nơi những nhóm dân có nguồn gốc châu Phi. Theo Denis MacCarthy, công bố những kết quả trong tạp chí Clinical &Experimental Research, tác dụng an thần của rượu được quan sát nơi những người mang gène ADH1B3 có thể là một trong những giải thích về sự phụ thuộc ruợu (alcoolodépendance) của họ,“ những người ít muốn uống lượng lớn nếu điều đó làm họ mệt hơn là nếu đều đó kích thích hay làm mất ức chế họ, ông ta đă nêu lên như vậy. Thật vậy các nhà nghiên cứu chưa hẳn đă chọc thủng được tất cả các bí mật của các hành vi của chúng ta đối với rượu. Nhiều gène chịu trách nhiệm sự nhạy cảm đối với chứng nghiện này đă được nhận diện, chúng tương tác một cách phục hợp đối với môi trường. Nhiều yếu tố cá nhân và xă hội cũng được nhận biết : thất nghiệp, t́nh trạng công ăn việc làm mong manh, sự cô lập, chồng/vợ nghiện rượu hay các bệnh tâm thần như bệnh trầm cảm, bệnh tâm thần phân liệt hay các rối loạn nhân cách...
Ở quy mô gia đ́nh, nguy cơ phát triển một sự phụ thuộc rượu được nhân lên ba lần nơi các trẻ có người thân nghiện rượu, nhưng chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong số các trẻ này cuối cùng trở thành phụ thuộc rượu (15% các con trai và 5% con gái ). Ngoài các gène, hành vi của các bố mẹ chúng và sự giáo dục của họ, các đứa trẻ bị ảnh hưởng nhiều bởi ...cinéma. Việc xem các phim cấm trẻ vị thành niên, trong đó 90% có những biểu diễn về rượu, có một vai tṛ không phải là không đáng kể, một cuộc điều tra nơi 3600 học sinh trung học Hoa kỳ mới được công bố gần đây đă kết luận như vậy. Trong hai năm theo dơi, chỉ 3% các thiếu niên đă không xem những phim như thế đă bắt đầu uống, trong khi tỷ lệ này là 19% trong số những thiếu niên đă đôi khi được xem những phim như vậy, và 25% nơi những thiếu niên đă được xem một cách không hạn chế những phim như vậy.
(LE FIGARO 10/5/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 183 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/7/2010 )
7/ BỆNH LOĂNG XƯƠNG : SỰ PH̉NG NGỪA LÀ CÔNG VIỆC CỦA SUỐT CẢ CUỘC ĐỜI.
Không phải bởi v́ bệnh loăng xương thường bắt đầu sau 60 tuổi nên phải đợi dến năm 50 tuổi mới bắt đầu phản ứng. Bởi v́ chúng ta vốn sinh ra không được b́nh đẳng và rằng khung xương của chúng ta cũng không thoát khỏi quy tắc đó, nên phải hành động để bù các xương mỏng manh (os fragiles), bằng cách tuân theo một cách rất nhanh chóng những thói quen tốt. “ Cái vốn xương (capital osseux) của chúng ta, ta có được phần lớn là do sự kế thừa của chúng ta (khoảng 70%). Cách dinh dưỡng của chúng ta, hoạt động vật lư của chúng ta,... can thiệp đến 30%. Tuy nhiên điều đó có thể đủ để làm nghiên cán cân của khối lượng xương của chúng ta về phía tốt và như thế ngăn ngừa hay hạn chế sự xuất hiện của một bệnh loăng xương ”, GS Thomas đă đánh giá như vậy.
Trong thời thiếu niên, kẻ thù tệ hại nhất của xương là chứng chán ăn (anorexie). Rối loạn hành vi ăn uống (trouble du comportement alimentaire) này có thể gây nên một bệnh loăng xương thật sự ngay lúc c̣n rất trẻ, với những hậu quả sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Lại c̣n tệ hại hơn khi chứng chán ăn này xảy ra nơi một cô thiếu nữ bởi v́ trong trường hợp này, sự sản xuất oestrogène có tính chất bảo vệ bị ngưng lại, như thế cô ta bị măn kinh. Và sự tiết các hormone khác cũng bị rối loạn, bắt đầu là leptine, một kích thích tố có nhiệm vụ điều ḥa sự ăn ngon miệng và có một tác động lên mô xương.
CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG, THUỐC LÁ, RƯỢU...
Ngoài chứng chán ăn, vài chế độ ăn uống, ở một mức độ nhỏ hơn, có thể đóng một vài tṛ có hại. Đó đặc biệt là trường hợp của những chế độ ăn uống quá nhiều muối và đạm (thí dụ quá nhiều thịt) làm dễ sự thất thoát calcium trong nước tiểu. Về thuốc lá và rượu được tiêu thụ quá mức, chúng có một tác dụng độc hại trực tiếp lên xương. Vả lại cũng như lên hầu hết các cơ quan khác..
Một chế độ ăn uống cân bằng, đủ dồi dào calcium (không nhất thiết là calcium phát xuất từ các sản phẩm sữa) là thiết yếu. Thế mà calcium, ta t́m thấy trong nhiều thức ăn : các nước uống, nhưng cũng có trong sardine (khoảng 330 mg đối với 100g), các brocolis (105mg/100g),các rau lá (légumew feuilles) (80mg/100g)…Dĩ nhiên phải ăn uống một cách cân bằng suốt cả cuộc đời, nhưng có lẽ c̣n hơn thế nữa vào tuổi dậy th́. Và v́ vitamine D là cần thiết cho sự hấp thụ và sự gắn của calcium lên xương, nên việc đi ra ngoài vào mùa đông hay dùng các bổ sung vitamine D trong trường hợp thiếu hụt là điều hợp lư. Đó là điều hầu như không thể thoái thác được khi lớn tuổi, bởi v́ khả năng hấp thụ của calcium ở ruột bị giảm. “ V́ lư do này, các thầy thuốc thường đề nghị calcium và vitamine D cho những bệnh nhân có một mật độ xương hơi thấp và điều này, trước khi kê đơn những loại thuốc của bệnh loăng xương ”, GS Thomas đă xác nhận như vậy.
(LE FIGARO 31/5/2010)
10/ RƯỢU VÀ CÁC THIẾU NIÊN : CÁC TẾ BÀO THẦN KINH BỊ LÂM NGUY.
Ở các thiếu niên, khuynh hướng các “ cuộc chè chén tốc hành ” (biture express) (hyperalcoolisation) , ngoài những nguy cơ xảy ra các tai nạn, là rất có hại cho năo bộ của chúng. Một công tŕnh nghiên cứu Hoa Kỳ vừa cho thấy rằng trên mức nồng độ cồn trong máu 1,7g, việc lập đi lập lại những ngộ độc này gây nên những tổn hại nghiêm trọng cho các tế bào thần kinh của thùy hải mă (hippocampe) (nơi của trí nhớ và học tập).
(PARIS MATCH 1/7-7/7/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 186 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/8/2010 )
8/ SỰ SAY RƯỢU CÓ HẠI NGHIÊM TRỌNG CHO TUỔI TRẺ.
Một công tŕnh nghiên cứu trên các động vật linh trưởng (primate) xác nhận ảnh hưởng của rượu lên sự phát triển của thùy hải mă (hippocampe), vùng năo bộ cần thiết cho học tập và ghi nhớ.
Nơi các thiếu niên, một ly đă là quá nhiều, c̣n nhiều ly, th́ xin chào các tổn hại trên năo bộ ! Ít nhất cũng nơi khỉ macaque. Một công tŕnh nghiên cứu, được tiến hành trên động vật linh trưởng này, lần đầu tiên mang lại bằng cớ về ảnh hưởng của rượu lên sự phát triển của hồi hải mă (hippocampe), một vùng của năo bộ chủ yếu trong việc ghi nhớ và học tập. Các nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Scripps (Californie) đă tạo khả năng cho hai nhóm khỉ macaque thiếu niên, được uống tha hồ, một lần mỗi ngày : những con khỉ thuộc nhóm thứ nhất uống nước đường, c̣n những con khỉ thuộc nhóm thứ hai uống nước tương tự nhưng có pha rượu. Và như thế trong 1 tháng. Kết luận : nhóm tiếp cận với rượu đă uống không có mức độ, thường đi đến một t́nh trạng say thực sự. Hai tháng sau khi cai rượu, bilan đối với thùy hải mă của chúng đă không thể đảo ngược : số các tế bào mới cũng như sự tăng sinh của chúng đă bị sụt giảm một nửa so với những động vật kiêng rượu.
Những kết quả này, than ôi, theo cùng chiều hướng với một công tŕnh nghiên cứu, được công bố bởi American Journal of Psychiatry vào tháng năm năm 2000, lần này được tiến hành trên người. Công trinh nghiên cứu này đă phát hiện, nơi các thiếu niên, một sự nhạy cảm mạnh hơn của thùy hải mă đối với rượu : thể tích của thùy hải mă càng bị thu giảm khi việc uống rượu đă bắt đầu càng sớm và càng kéo dài. Bây giờ chúng tôi biết rằng, năo bộ đang được tạo thành của các thiếu niên là rất nhạy cảm với độc tính của rượu, BS Georges Picherot, trưởng khoa nhi đồng của CHU de Nantes đă lấy làm lo ngại như vậy.Thế mà, việc tiêu thụ rượu mạnh lập đi lập lại, càng ngày càng có liên hệ đến các trẻ em dưới 15 tuổi.” Thật vậy, mặc dầu sự tiêu thụ rượu nh́n toàn bộ đang giảm đều đặn từ 50 năm qua, nhưng những hành vi đáng lo ngại như chứng nghiện rượu do nhu cầu giao tiếp xă hội (alcoolisme mondain) của những người trưởng thành và “ những cuộc chè chén tốc hành ” (beuveries express) nơi các vị thành niên. Chúng được liên kết với sự tiêu thụ rượu mạnh càng ngày càng thường xảy. Việc bán rượu whisky đă nhảy vọt 20% trong 5 năm vừa qua. Nơi các thiếu niên, nh́n toàn bộ sự tiêu thụ rượu vẫn ổn định và thấp hơn so với những nơi khác ở châu Âu, Georges Picherot đă nói thêm vào như vậy. Nhung chúng ta không thoát khỏi sự xuất hiện những trường hợp say cấp tính nơi những trẻ em càng ngày càng nhỏ tuổi. ”
(SCIENCES ET AVENIR 8/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 189 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 30/8/2010 )
8/ NHỮNG TÁC DỤNG CHỒNG BÉO PH̀ CỦA MỘT CHẤT DẪN XUẤT TỪ RƯỢU VANG.
Resvératrol cũng rất được nghiên cứu trong sự lăo hóa và các bệnh tim mạch.
OBESITE. Trong thiên nhiên, hiện diện nơi các loại rượu vang, nhưng cũng trong hơn 70 loài thực vật, trong đó có nho, lạc (arachide) hay cacao, resvératrol không ngừng làm say mê và làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu. Trong ṿng 20 năm, resvératrol (thuộc họ lớn các polyphénols) đă là đối tượng của hơn 3.300 ấn bản khoa học. Trước hết, do tính chất chống oxy hóa của nó, bảo vệ chống lại các bệnh tim mạch và các ung thư. Resvératrol, được mang lại do sự hấp thụ đều đặn rượu vang, là một trong những giải thích sinh học cho cái nghịch lư Pháp (paradoxe français), cái mâu thuẫn rơ ràng giữa một tỷ lệ tử vong tim mạch thấp và một chế độ ăn uống giàu mỡ và đường. Những công tŕnh khác cũng phát hiện những lợi ích lên tuổi thọ, các bệnh thoái hóa thần kinh (affections neuro-dégéneratives), bệnh đái đường, chứng béo ph́. Mặc dầu chung đối với các polyphénols, nhưng những tác dụng này mạnh mẽ đối với resvératrol.
Công tŕnh nghiên cứu mới nhất, được công bố tuần này bởi một nhóm nghiên cứu người Pháp trong tạp chí BMC Physiology, mang lại những dữ kiện chưa từng có trước đây nơi những động vật linh trưởng (primate), khi chứng tỏ rằng resvératrol, khi được cho bổ sung, làm giảm một cách đáng kể sự lên cân vào mùa đông, do một sự gia tăng các tiêu hao năng lượng và một tác dụng cắt đói (effet coupe-faim). Cho măi đến nay, phần lớn các công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên những động vật gặm nhấm được làm béo ph́ bằng biến đổi di truyền (manipulations génétiques) hay bằng một chế độ tăng calo (régime hypercalorique). Nhóm nghiên cứu của Fabienne Aujard (CNRS, Museum national d’histoire naturelle, Brunoy) đă chọn nghiên cứu các microcèbe, những động vật linh trưởng nhỏ bé, nặng khoảng 100 g, có sinh lư học rất đặc biệt.
Những động vật họ vượn cáo (lémuriens) này có một nhịp theo mùa rơ rệt, chúng gia tăng gần như gấp đôi trọng lượng của chúng vào mùa đông nhờ một sự tích trữ mỡ dần dần. Ngoài ra, chúng là những sinh vật dị nhiệt (hétérotherme), nghĩa là nhiệt độ nội tại của chúng có thể giảm rất mạnh, điều này cũng là một nguồn tiết kiệm năng lượng. Với tuổi thọ từ 8 đến 10 năm, những động vật này là một mô h́nh càng ngày càng được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu để nghiên cứu sự lăo hóa, đặc biệt là năo bộ.
NHỮNG KẾT QUẢ CÓ SỨC THUYẾT PHỤC.
Trong ṿng 4 tuần, vào cái mùa khi mà chúng thường có khuynh hướng tích trữ mỡ cho mùa đông, 6 microcèbe đă chịu một chế độ ăn uống giàu resvératrol : 200mg/kg/ngày, một liều lượng lớn hơn liều mà một con người tiêu thụ một cách b́nh thường. Trọng lượng, nhiệt độ thân thể, các cung cấp và tiêu hao năng lượng đă được theo dơi cẩn thận.
Các kết quả rất có sức thuyết phục. “ Sự lên cân, thường là một gam mỗi ngày vào thời kỳ này, đă được chia cho năm ”, Fabienne Aujard đă kể lại như vậy. Một cán cân hơi dương tính, được giải thích bởi một sự gia tăng rơ rệt các tiêu hao năng lượng (gia tăng 29% của chuyển hóa lúc nghỉ ngơi) và một sự giảm các cung cấp năng lượng (13%, từ tuần lễ thứ ba). Các nhà nghiên cứu cũng nêu lên những biến thiên nhỏ nhất về nhiệt độ cơ thể của các microcèbe, mà không giảm hoạt động vật lư của chúng, trong khi b́nh thường chúng ở trong trạng thái đờ đẫn. “ Chúng tôi đă chờ đợi sự gia tăng các tiêu hao năng lượng, đă được mô tả nơi các con chuột. Điều đă làm cho chúng tôi ngạc nhiên, đó là tác dụng lên sự no nê (satiété), thuộc loại cắt đói (coupe-faim), hiện tượng này trước đây không được biết đến ”, Fabienne Aujard đă nhấn mạnh như vậy.
Công tŕnh của các nhà nghiên cứu của Brunoy chưa hẳn đă hoàn tất. Với cùng các con linh trưởng này, họ khảo sát các tác dụng lâu dài của resvératrol lên các bệnh lư liên quan đến tuổi tác và tuổi thọ của các động vật này.
TÁC DỤNG CẮT ĐÓI.
“ Những kết quả này rất là lư thú, đặc biệt là tác dụng cắt đói (effet coupe-faim), nhưng cần phải biết xem hiệu quả này có hiện hữu với những liều lượng sinh lư hơn của resvératrol hay không, GS Norbert Latruffe (unité Inserm 866“ lipides nutrition et cancers ”, Dijon), nghiên cứu các cơ chế tác dụng của resvératrol, đặc biệt trong lănh vực viêm và sự sinh ung thư (cancérogenèse), đă nhận xét như vậy. GS Johan Auwerx, thuộc Trường bách khoa liên bang của Lausane, cũng chào đón các công tŕnh trên một mô h́nh các động vật linh trưởng này. “ Đó là một bước nữa tiến về phía con người. Cách nay vài năm, nhà nghiên cứu này đă xác lập rằng các tính chất chống đái đường và chống béo ph́ của resvératrol được liên kết với sự hoạt hóa của một enzyme (sir1) thuộc họ các sirtuines. Thật vậy, resvératrol tác dụng bằng cách kích thích các ty lạp thể (trung tâm năng lượng của tế bào), do đó cơ thể bắt đầu đốt cháy các dự trữ của ḿnh.
Sau khám phá này, GS Auwerx đă nhận diện một phân tử tổng hợp, SRT 1720, một loại super-resvératrol, mà những kết quả đă là ngoạn mục nơi các con chuột. Từ nay, các chất hoạt hóa của sirtuines đang được thử nghiệm nơi người trong nhiều bệnh lư, trong đó có bệnh đái đường và các tim-mạch. Thay v́ các thuốc điều trị, từ nay GS Auwerx t́m cách dự kiến một chất bổ sung dinh dưỡng có chất căn bản là resvératrol. Nhưng c̣n lâu mới có để sử dụng . “Thànhphần cuối cùng chưa được xác định. Và với điều lệ mới của Châu Âu về các alicament, việc phát triển hứa hẹn sẽ dài lâu như đối với việc phát triển một loại thuốc ”, nhà nghiên cứu thở dài phát biểu như vậy.
(LE FIGARO 24/6/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 191 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 13/9/2010 )
9/ UỐNG MỘT ÍT RƯỢU LÀ TỐT ĐỂ LÀM GIẢM NGUY CƠ BỊ VIÊM ĐA KHỚP.
Uống rượu với lượng vừa phải được liên kết với một sự giảm đáng kể của nguy cơ phát triển một loạt các bệnh thấp khớp (maladies rhumatismales).
Uống rượu với lượng vừa phải được xác nhận là làm giảm nguy cơ phát triển một viêm đa khớp dạng thấp (polyarthrite rhumatoide), chứng hư khớp (arthrose), bệnh viêm khớp phản ứng (arthrite réactionnelle), viêm khớp vẩy nến (arthrite psoriasique) và đặc biệt là bệnh viêm cứng khớp đốt sống (spondylarthrite ankylosante), theo một công tŕnh nghiên cứu Ḥa Lan, được thực hiện trên 997 bệnh nhân bị những bệnh thấp khớp viêm (rhumatisme inflammatoire) khác nhau và 6.874 người chứng. Tác dụng đặc biệt có tính cách bảo vệ nơi những bệnh nhân bị viêm đa khớp dạng thấp với sự hiện diện của các kháng thể chống protéines citrullinées (ACPA : anticorps anti-protéines citrullinées).
Các nhà nghiên cứu đă chứng thực rằng mức độ viêm toàn thể càng gia tăng khi lượng rượu được tiêu thụ càng giảm, nhưng người ta không quan sát thấy một cách thật sự mối liên hệ giữa liều lượng-đáp ứng (relation dose-réponse). Đối với các tác giả của công tŕnh nghiên cứu, ta có thể đề xuất hai cách giải thích rất khác nhau trước điều chứng thực này : hoặc là các bệnh nhân vốn bị bệnh nặng hơn nên tiêu thụ ít rượu hơn trong khung cảnh sự biến đổi lối sống của họ do chính căn bệnh, hoặc sự hiện diện của rượu trong cơ thể có một tác dụng bảo vệ chống lại sự viêm toàn thể.
Thật vậy người ta đă làm một chứng thực như thế đối với viêm đa khớp dạng thấp, nhưng công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng tác dụng bảo vệ này của rượu cũng đóng một vai tṛ trong một loạt những bệnh viêm khớp khác, BS Anekoos Leonoor Huidekoper (đại học Leiden, Hoà lan) đă nhấn mạnh sự cần thiết một công tŕnh nghiên cứu đi xa hơn trong lănh vực các đường viêm (voie de l’inflammation) để hiểu một cách chính xác rượu có thể đóng vai tṛ bảo vệ của nó ở mức nào.
GS Paul Emery (Đại Học Leeds), chủ tịch của EULAR, thêm vào loại chứng chứng thực này lời cảnh cáo bắt buộc, khi nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là tiêu thụ rượu với lượng vừa phải, v́ lẽ một số vấn đề không những y khoa mà cả xă hội liên kết với việc uống rượu quá mức. Do đó, những lời khuyến nghị sử dụng rượu phải được đặt lại trong bối cảnh rộng lớn hơn này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 3/9/2010)
10/ RƯỢU VÀ RỐI LOẠN NHỊP TIM.
Sự tiêu thụ nhanh một lượng tương đối cao rượu có thể gây nên một loạn nhịp nhanh (tachyarythmie). Mặc dầu một sự cố như thế nói chung có một tiên lượng thuận lợi, nhưng bệnh nhân cần nên xem đó là một tín hiệu báo động.
Người ta biết từ lâu rằng sự lạm dụng măn tính rượu có thể là nguồn gốc của một bệnh cơ tim (cardiomyopathie) gây giăn sau một số năm nào đó, một bệnh cơ tim tự bản thân gây nên các loạn nhịp nhĩ hay thất (arythmie auriculaire ou ventriculaire). Cách nay khoảng hai mươi năm, các nhà nghiên cứu cũng đă khám phá rằng một sự hấp thụ ồ ạt rượu có thể gây nên những rối loạn nhịp nơi những người không hề bị bệnh tim trước đó.
17 LY MỖI NGÀY !
Vào năm 1978, thầy thuốc chuyên về tim Hoa Kỳ Philip Ettinger đă mô tả 32 đợt rối loạn nhịp nơi 24 bệnh nhân uống đều đặn những lượng lớn rượu. Mặt khác, đó trường hợp ngay trước đợt loạn nhịp của họ. Công tŕnh nghiên cứu này làm xuất hiện thuật ngữ holiday heart syndrome. Trên nguyên tắc, những người Mỹ hiểu chữ holiday là những ngày hội hè cuối năm. Tuy nhiên, thuật ngữ binge drinking, tương ứng với sự uống vào một lượng lớn rượu trong một thời gian ngắn, là một hiện tượng phát triển rộng răi và trước hết liên quan đến những kỳ nghỉ hè, và nhất là những người trẻ tuổi. Năm nay, Viện khoa học y tế công cộng flamand (Bỉ) đă xác lập rằng cứ 8 thanh niên từ 15 đến 24 tuổi th́ có một nhiễm độc alcool ít nhất một lần mỗi tuần. C̣n Viện chống cồn Ḥa Lan (Nederlands Instituut voor Alcoholbeleid) xác nhận rằng những thanh niên, trải qua những kỳ nghỉ học xa cha mẹ, uống trung b́nh 17 ly rượu mỗi ngày, so với 7 ly đối với các con gái. Nhiều cơ chế khác nhau giải thích tác dụng gây rối loạn của rượu lên nhịp tim. Ta có thể chia những cơ chế này thành những tác dụng trực tiếp và gián tiếp. Rượu làm giảm lượng sodium xuyên qua tế bào và khiến pH nội bào bị hạ xuống. Về các cơ chế gián tiếp, đó là sự phóng thích gia tăng adrénaline và noradrénaline, và một sự gia tăng các nồng độ trong máu của axít béo tự do cũng như sự sản xuất acétaldéhyde, chất chuyển hóa chính của éthanol.
TUỲ THEO TRƯỜNG HỢP.
Phải nghĩ đến holiday heart syndrome đứng trước một loạn nhịp nhanh nơi một người không có tiền sử về tim. Rối loạn thường gặp nhất là rung nhĩ (fibrillation auriculaire), thường biến mất một cách ngẫu nhiên trong 24 giờ. Cần ghi nhận rằng vài người bị rung nhĩ với một sự tiêu thụ rượu hoàn toàn có mức độ, đối với một người uống trung b́nh. Nói chung, bệnh nhân ghi nhận hồi hộp khiến phải đi khám bệnh. Trong trường hợp đáp ứng tâm thất nhanh (réponse ventriculaire rapide), ta có thể thấy xuất hiện một ngất xỉu, khó thở lúc gắng sức hay cơn đau thắt ngực. Hỏi bệnh sẽ t́m kiếm, chừng nào có thể được, những tiền sử về những đợt hôn mê rượu (coma éthylique) và một sự lạm dụng caféine.
Ngoại trừ tính không đều của nhịp tim và một t́nh trạng say rượu, thăm khám vật lư thường không có ǵ đặc biệt. Tuy nhiên nên kiểm tra kali-huyết, trong khi điện tâm đồ cho phép loại trừ những vấn đề khả dĩ khác, như một thiếu máu cục bộ (ischémie) hay một nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire). Có thể cần t́m kiếm những chẩn đoán bổ sung khác. Thật vậy phải ghi nhớ rằng bệnh nhân có thể bị một rung nhĩ ngay cả khi không uống rượu. Sau cùng, chúng ta hăy ghi nhận rằng những đợt binge drinking đều đặn có thể dẫn đến bệnh cơ tim (cardiomyopathie) hay những vấn đề thuộc về gan.
MỘT SỰ PHỤC HỒI NHANH CHÓNG VÀ VÀI BIỆN PHÁP CẦN LÀM.
Một monitoring điện tâm đồ có thể đủ. Người ta có thể cho một chất betabloquant để làm chậm lại một đáp ứng tâm thất quá nhanh. Sau khi rối loạn nhịp biến mất, các bệnh nhân trẻ không bị bệnh tim mạch không c̣n cần phải điều trị ǵ thêm nữa. Tuy nhiên, nên tránh mọi gắng sức quan trọng trong vài ngày sau đợt thiếu máu cục bộ liên kết với rượu, bởi v́ rối loạn nhịp có thể tái phát dưới ảnh hưởng của sự phóng thích catécholamine. Cũng vậy, caféine sẽ cần tránh trong thời kỳ này, và từ nay rượu sẽ bị chống chỉ định nơi những người này.
(LE GENERALISTE 2/9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 193 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 27/9/2010 )
5/ TA CÀNG UỐNG, THỂ TÍCH NĂO CÀNG NHỎ.
Ethanol, cái phân tử nhỏ tan trong nước và một phần trộn lẫn trong mỡ này, len lỏi vào trong tất cả các tế bào. Sau khi được hấp thụ, trong vài phút, éthanol được phân bố đến tất cả các cơ quan, trong đó có năo bộ, gây nên những tác dụng khác nhau tùy theo lượng được uống vào. Như thế, nếu nhịp tim và huyết áp gia tăng sau ly đầu tiên, th́ chúng lại sụt giảm với những liều lượng mạnh hơn. Cũng vậy, nếu người uống lúc đầu cảm thấy một sự sảng khoái (désihibition), th́ sau đó anh ta cảm thấy những rối loạn vận động và nhận thức. Tác dụng an thần được khuếch đại, có thể dẫn đến hôn mê rượu (coma éthylique), thậm chí tử vong. Ngày nay, người ta biết rằng rượu có một tác dụng kép lên các neurone. Các tế bào thần kinh này được điều ḥa bởi các chất dẫn truyền thần kinh kích thích (excitateur) (glutamate) hay ức chế (inhibiteur) (GABA). Rượu ức chế nhiều hơn các thụ thể GABA và làm giảm hoạt tính của các thụ thế đối với glutamate. Kết quả : một sự ức chế năo bộ và hành vi. Chụp h́nh ảnh xác nhận tác dụng có hại này. Một công tŕnh nghiên cứu của Pḥng thí nghiệm chụp h́nh ảnh thần kinh (Laboratoire de neuro-imagerie) của Bethesda (Mariland, Hoa Kỳ), được thực hiện trên 20 người t́nh nguyện vào năm 2006, chứng minh rằng sự hấp thụ những liều lượng vừa phải rượu làm giảm chuyển hóa glucose trong năo bộ, đặc biệt là trong vùng vỏ năo truớc trán (cortex préfrontal) (nơi của những chức năng nhận thức cao cấp). Đáng lo ngại hơn, Wellesley College (Massachusetts, Hoa Kỳ), vào năm 2008, phát hiện, trên 1839 người, một mối liên hệ thẳng giữa việc tiêu thụ rượu và thể tích toàn bộ của năo : người ta càng uống nhiều rượu th́ thể tích năo càng giảm sút. Vào năm 2007, những nhà nghiên cứu của CEA và của Inserm đă chứng thực, trên 31 người phụ thuộc rượu (alcoolodépendant) một sự giảm chất xám trong nhiều vùng năo bộ và cho đến 20% ít hơn trong những vùng trán, cũng như một thương tổn của chất trắng (các sợi thần kinh). Tuổi lúc tiếp xúc lần đầu với rượu có tính chất quyết định. “ Chúng tôi đă cho thấy rằng một con chuột uống rượu trong thời kỳ niên thiếu có một khuynh hướng gia tăng bị nhiễm độc ở tuổi trưởng thành ”, Mickael Maassila, giám đốc nghiên cứu của Inserm (Amiens) đă giải thích như vậy.
Một tai họa : “ Năo bộ ở thời kỳ niên thiếu đang trong quá tŕnh thành thục, với sự tỉa cành phân nhánh các nối kết thần kinh và sự xuất hiện những neurone mới. Rượu cản lại hai cơ chế này và khiến các neurone bị chết 2,5 lần nhiều hơn nơi người trưởng thành ”, ông nói thêm như vậy. Vào năm 2000, American Journal of Psychiatry tiết lộ rằng, hồi hải mă (hippocampe) (vùng năo bộ có can dự trong trí nhớ và học tập) càng bị thu giảm thể tích khi sự uống rượu xảy ra càng sớm. Vào năm này, Viện Scripps (Californie) xác nhận : nơi các động vật linh trưởng nhỏ tuổi uống rượu, số những tế bào hải mă và sự tăng sinh của chúng sụt giảm một nửa so với những động vật không uống. Các công tŕnh nghiên cứu nơi chuột cho thấy rằng vỏ năo vùng trán (cortex frontal) cũng rất bị ảnh hưởng. Nhóm nghiên cứu của Mickael Naassila vừa phát động một công tŕnh nghiên cứu, cộng tác với Anh, để kiểm tra tác dụng này. Các sinh viên năm thứ nhất sẽ chịu những trắc nghiệm thần kinh-tâm lư và chụp h́nh ảnh năo bộ hôm nay và trong 3 năm nữa, để quan sát xem nhưng đồ đệ của binge drinking (được định nghĩa ít nhất 5 ly rượu uống nhanh) có bị mất các năng lực của họ hay không.
(SCIENCE ET AVENIR 9/2010)
6/ NHỮNG ĐIỀU TRỊ CÁ THỂ HÓA CHỐNG CHỨNG NGHIỆN RƯỢU.
Tính hiệu quả của các thứ thuốc nhằm làm dễ sự cai rượu thay đổi tùy theo profil di truyền và lâm sàng của bệnh nhân.
ADDICTION. Những loại thuốc mới, nhưng chủ yếu những điều trị nhắm đích hơn, tùy theo profil di truyền hay lâm sàng của các bệnh nhân. Cũng như những lănh vực khác của y khoa, và nhất là ung thư, sự nghiên cứu điều trị trong alcoologie đă di vào một kỷ nguyên mới, theo các chuyên gia hội họp từ 13 đến 16 tháng 9 ở Paris, ở hội nghị quốc tế của Isbra (International Society for Biomedical Research on Alcoholism)
Sư phụ thuộc rượu (dépendance à l’alcool) là chứng nghiện (addiction) phổ biến nhất trên thế giới, và là chứng nghiện gây tàn phá nhất về mặt sức khỏe vật lư và tâm thần. Ở Pháp, sự tiêu phụ rượu đang giảm xuống, nhưng vẫn quan trọng. Số những người uống quá mức được đánh giá là 5 triệu, số những người phụ thuộc rượu (alcoolodépendants) là 2 triệu.
“ Chúng tôi biết xác định càng ngày càng rơ hơn các loại lâm sàng của phụ thuộc rượu, và liên kết chúng với những đặc điểm di truyền, để thích ứng các điều trị ”, GS Michel Raynaud, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần (Paris) và là người tổ chức hội nghị, đă loan báo như vậy. Hiện nay, chỉ có vài loại thuốc được phép lưu hành trên thị trường. Acamprosate (Aotal) và naltrexone (Revia), kềm chế sự thèm uống, là một hỗ trợ để điều trị sự cai uống. Disulfirame (Espéral) tác dụng bằng cách gây nên những rối loạn khó chịu (phừng mặt, nôn mửa...) trong trường hợp uống đồng thời với rượu. Những kết quả của chúng là không phủ nhận được nhưng nh́n toàn bộ vẫn c̣n khiêm tốn. “ Trung b́nh, sau một năm, naltrexone và acamprosate giúp cho 30% những người nghiện rượu, điều này muốn nói 70% trường hợp thất bại. Nhưng từ nay chúng ta biết rằng tỷ lệ những người đáp ứng là cao hơn nhiều trong vài nhóm, GS Karl Mann (nhà chuyên khoa về nghiện ở Đức) đă giải thích như vậy. Tỷ lệ đáp ứng đối với naltrexone lên đến 50% nơi những bệnh nhân mang một gène đặc biệt. Một đặc điểm di truyền khác ảnh hưởng lên đáp ứng đối với acamprosate.
Hiện nay, phương pháp di truyền-dược lư (pharmaco-génétique) này chỉ ở trong giai đoạn nghiên cứu, GS Michel Lejoyeux, thầy thuốc tâm thần (Paris) và chủ tịch của Hiệp hội về rượu học (alcoologie) Pháp đă nhấn mạnh như vậy. Tương tự đối với những thăm khám h́nh ảnh, và đặc biệt là IRM, một phương pháp cũng đầy hứa hẹn để tiên đoán tính hiệu quả của một thứ thuốc hay một nguy cơ tái phát.
Nhưng sự đáp ứng với điều trị cũng có thể đánh giá đơn giản hơn, theo những tiêu chuẩn lâm sàng. GS Mann đă hiệu chính một bảng câu hỏi gồm khoảng 15 đề mục cho những bệnh nhân bị tái phát. Những bệnh nhân uống rượu trở lại trong một bối cảnh hội hè đáp ứng với naltrexone tốt hơn những người uống lại trong một khung cảnh trầm uất, nhà chuyên gia người Đức đă giải thích như vậy.
Đồng thời, những loại thuốc mới đang được nghiên cứu. Trong số những thuốc mới nhất, nalmefene, đối tượng một thử nghiệm lâm sàng ở Pháp. “ Loại thuốc này tác dụng lên các thụ thể opioide như naltrexone. Nhưng ở đây mục tiêu lại khác, đó không phải là sự cai nghiện mà là trở lại một sự tiêu thụ được kiểm soát (une consommation contrôlée) ”, GS Lejoyeux đă xác nhận như vậy. Những kết quả quyết định được dự kiến năm 2011. Đối với bệnh nhân cũng như đối với các nhà nghiên cứu rượu học, khái niệm “ sự tiêu thụ được kiểm soát này mới xuất hiện gần đây. Cho măi đến ngày hôm nay, sự cai rượu (abstinence) là mục tiêu duy nhất. “ Sự tiêu thụ được kiểm soát là một hướng nghiên cứu rất lư thú, nhưng vẫn phải thận trọng đối với thực hành hàng ngày ”, GS Lejoyeux c̣n xác nhận như vậy.
Những loại thuốc cũ hơn, nhưng được kê đơn trong những căn bệnh khác, như baclofène (myorelaxant) hay topiramate (thuốc chống động kinh) cũng đang được đánh giá. Nhưng dầu hiệu quả của chúng như thế nào đi nữa, thuốc men không phải là tất cả. Điều trị thuốc, đó là 30% của điều trị, những thầy thuốc chuyên khoa tâm thần đánh giá như vậy. Sự đi kèm xă hội (accompagnement social) và tâm lư liệu pháp vẫn là yếu tố thiết yếu.
(LE FIGARO 15/9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 195 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/10/2010 )
9/ BỆNH ALZHEIMER : UỐNG MỘT ÍT … ĐỂ KHỎI MẤT TRÍ
Ư tưởng thật nghịch lư. Nhưng những công tŕnh nghiên cứu mới đây đă gợi ư một cách nghiêm chỉnh rằng, một sự tiêu thụ có mức độ rượu, và rượu vang, có thể có một vai tṛ ngăn ngừa chống sự xuất hiện của bệnh Alzheimer. Công tŕnh nghiên cứu này, được thực hiện bởi đại học Wale Forest (Caroline du Nord, Hoa Kỳ) trên 3.000 người 75 tuổi hoặc hơn, cho thấy rằng một hay hai ly mỗi ngày sẽ làm giảm 40% nguy cơ phát triển một rối loạn nhận thức (trouble cognitif). Về các cơ chế, th́ đó c̣n là một bí mật lớn. Trong khi đó cùng nguy cơ được nhân lên hai nơi những người tiêu thụ nặng, hơn 14 ly mỗi tuần.
Một kết quả cần phải uyển chuyển, đối với BS Luc Letenneur, nhà dịch tễ học thuộc Viện y tế công cộng, dịch tễ và phát triển (Bordeaux). “ Những công tŕnh nghiên cứu khác được gọi là quan sát th́ lại không ḥa hợp. Và các ư kiến th́ mâu thuẫn, không những về liều lượng bảo vệ mà c̣n loại rượu được tiêu thụ.” Điều này có nghĩa là ta không biết phải uống bao nhiêu và uống cái ǵ. Thế th́ trên thực tiễn, phải rút ra những lời khuyến nghị nào ? “ Các lăo niên không có chống chỉ định y khoa và không có sự tiêu thụ gây vấn đề, có thể tiếp tục uống một cách chừng mực, nhà khoa học đă tŕnh bày như vậy. Bởi v́ điều đó có thể góp phần cho một chế độ ăn uống tốt lành, một khả năng giao thiệp tốt hơn, nói vắn tắt, góp phần làm cho “ già mà mạnh khỏe ” (bien vieillir). Ngược lại, không nên bắt uống người nào đó đă chưa bao giờ uống cả. “ Cồn hay rượu vang không và sẽ không bao giờ là một thứ thuốc pḥng ngừa cả.”
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 196 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 18/10/2010 )
9/ BỆNH BÉO PH̀ : UỐNG MỘT ÍT...ĐỂ GẦY MỘT ÍT.
Ta tha hồ nói điều đó trong tất cả các régime : cồn (alcool), bao gồm rượu vang (vin), làm béo ph́, v́ lẽ các calo mà nó chứa. Thật vậy, mỗi gam chứa 7 kcal, so với 4 đối với glucide và protéine, 9 đối với các lipide. Điều này có nghĩa là 1 ly rượu vang 100 ml, hoặc 10 g cồn, tương ứng với 70 kcal, một ly rượu khai vị (apéritif) 25 ml tương ứng với 60 kcal và một lon bia 250 ml tương đương với 100 kcal. Nhưng, tại sao những người tiêu thụ quá mức lại không bị béo ph́ ? Một công tŕnh nghiên cứu mới đây đă chứng minh rằng ṿng thân (tour de taille) của những người nghiện rượu không quan trọng hơn ṿng thân của những người kiêng khem. Những người nghiện rượu có một chỉ số khối lượng thân thể (IMC : indice de masse corporelle) ngay cả dưới mức trung b́nh. Trả lời : các calo phát xuất từ rượu đều “ trống rỗng ”. Bởi v́ rượu được chuyển hóa trong một hệ thống đặc biệt, được gọi là hệ thống oxy hóa éthanol của ty lạp thể (Meos : système mitochondrial d’oxydation de l’éthanol), hệ thống này tiêu thụ rượu dưới dạng nhiệt lượng hơn là tích trữ nó.
Vậy chính không phải chứng béo ph́ đe dọa những người nghiện rượu, mà đúng hơn là sự suy dinh dưỡng, như xảy ra nơi 15 đến 30% những người phụ thuộc rượu (alcool-dépendant) ! Những t́nh trạng thiếu sắt, folate và vitamine được quan sát trong nhóm những người này, v́ những lư do kinh tế xă hội, thường kém dinh dưỡng. Tuy nhiên, tùy theo tính chất của rượu được uống, những calo thật sự cũng có thể được hấp thụ vào. Đó đặc biệt là trường hợp của các rượu khai vị như porto hay muscat, có nhiều đường, hay bia, chứa mạch nha (malt). Những cung cấp năng lượng thật sự như thế được tích trữ. Nhưng cũng đừng quên tất các những calo phát xuất...từ đậu phụng (cacahuètes) của rượu khai vị ! Bởi v́ rượu kích thích ăn ngon. Ngược lại, một công tŕnh nghiên cứu khác mới đây đă cho thấy rằng, nơi những phụ nữ trên 39 tuổi, những người uống từ 15 đến 30 g mỗi ngày (một ly rưởi đến 3 ly mỗi ngày), nguy cơ tăng thể trọng hạ 30% so với những người kiêng khem. Nhưng chú ư điều đó chỉ được quan sát trong 10 năm và biến mất sau 50 tuổi !
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)
CÁC BỆNH TIM MẠCH : UỐNG MỘT ÍT ĐỂ BẢO VỆ TRÁI TIM M̀NH.
Đó là một lư lẽ chính ủng hộ rượu vang : rượu vang có một hiệu quả bảo vệ tim (effet cardioprotecteur), duy tŕ ư tưởng của nghịch lư Pháp (french paradox) nổi tiếng, xuất hiện trong những năm 1990. Rất nhiều công tŕnh nghiên cứu đă đều đồng quy theo chiều hướng này, chứng tỏ tác dụng dương tính cùa các polyphénol lên cholestérol xấu. Một trong những công tŕnh nghiên cứu mới nhất, công tŕnh của một nhóm nghiên cứu Pháp của Inserm, đă nhận diện một cơ chế phân tử có liên quan đến tác dụng giăn mạch của delphinidine (anthocyane), một polyphénol hiện diện trong rượu vang đỏ. Các nhà nghiên cứu đă cho thấy, nơi chuột, rằng chất này hoạt hóa một thụ thể được biết là có tác dụng kích thích sự sản xuất oxyde d’azote, một gốc tự do (radical libre) có tác dụng giăn mạch. Để được như thế, không cần phải tiêu thụ rượu vang để có được những kết quả bảo vệ này ! Những thức ăn thức uống khác như cà phê, chè xanh hay chocolat, đều giàu polyphénol. Ngoài ra, như Pierre Ducimetière, nhà dịch tễ học của Inserm, mới đây đă viết, “ nghịch lư Pháp không c̣n tồn tạinữa ”. Thật vậy, những công tŕnh nghiên cứu khác đă chứng minh rằng trên b́nh diện bệnh động mạch vành, nước Pháp chiếm một vị trí trung gian theo một gradien bắc-nam, nhưng chắc chắn không phải là ngoại lệ. Ngoài ra, “ không ǵ chứng tỏ rằng rượu vang là yếu tố duy nhất giải thích, BS Jean Dallongeville, thuộc Viện Pasteur de Lille đă xác nhận như vậy. Những người uống có mức độ của những công tŕnh nghiên cứu này nói chung là những người không hút thuốc, ăn uống lành mạnh và tập thể thao.”
(SCIENCE ET AVENIR 9/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 198 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 01/11/2010 )
10/ RƯỢU VÀ THAI NGHÉN : 9 THÁNG KIÊNG KHEM.
“ Số không rượu (zéro alcool) trong thời kỳ thai nghén. ” “ Đó là điều logo, được dán trên những chai rượu từ năm 2007, muốn nói. Gan của thai nhi c̣n non trên b́nh diện enzyme. Kết quả : rượu không được thoái hóa ở gan và chưa được 60 phút sau khi người mẹ uống một ly rượu, có thể nói, thai nhi cũng cụng ly. Người ta chấp nhận rằng bệnh cảnh được gọi là hội chứng làm thấm rượu thai nhi (SAF : syndrome d’alcoolisation fœtal) tương ứng với một sự uống rượu đều đặn trên hai ly mỗi ngày hay những lần uống rượu cấp tính với hơn 4 ly. Hội chứng này có liên quan đến 7000 trẻ em mỗi năm ở Pháp, nguyên nhân đầu tiên không phải do di truyền của phế tật tâm thần (handicap mental) của trẻ em. Chậm tăng trưởng, các thương tổn của hệ thần kinh trung ương, những khó khăn trong học tập..., bệnh cảnh lâm sàng là phức tạp. Ngoài ra, một công tŕnh nghiên cứu của Viện theo dơi y tế (InVs : Institut de veille sanitaire) và của Inserm, được thực hiện năm 2008, đánh giá rằng những thể bán phần nhiều hơn 3 lần những thể hoàn toàn. Tất cả những bất thường này đều có thể tránh được. Lại nữa, không có ngưỡng của nguy cơ (seuil de risque), v́ vậy người ta khuyên 9 tháng kiêng khem. “ Mặc dầu chỉ một ly uống riêng rẻ dĩ nhiên không gây nên cho tất cả mọi người những thương tổn của những tác dụng độc hại (bởi v́ điều đó tùy thuộc vào mức độ nhạy cảm di truyền của các bà mẹ), nhưng những lượng nhỏ chất cồn có thể gây nên những thương tổn thần kinh nơi thai nhi ”, BS Ingrid Chazeron, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần của bệnh viện Clermont-Ferrand đă giải thích như vậy. Ở Pháp, cứ hai phụ nữ th́ có một thú nhận là có uống rượu. So với 12% ở Hoa Kỳ và 60% ở Nga. Một con số phát xuất từ công tŕnh nghiên cứu quốc gia duy nhất, được tiến hành ở Auvergne năm 2004 nơi 1000 phụ nữ có thai. “ Việc thiếu được thông tin nơi những phụ nữ này đă làm chúng tôi ngạc nhiên, thầy thuốc chuyên khoa tâm thần, người điều hành công tŕnh nghiên cứu, đă nói tiếp như thế. Ngoài ra, khẩu hiệu “ zéro alcool ” không phải là một thông điệp tốt, bà đă xác nhận như vậy. Tốt hơn là đả thông họ về các cách tiêu thụ và những nguy cơ gặp phải. Như ở Canada, là nơi thông điệp được hướng về những điểm mốc tiêu thụ.” Dầu sao, nếu c̣n cần phải có một luận cứ bổ sung, th́ hai công tŕnh nghiên cứu mới đây vừa để lộ những yếu tố buộc tội mới : một nguy cơ nhân lên hai lần phát triển một thể leucémie aigue myéloblastique, do một tương tác giữa các yếu tố di truyền và sự tiếp xúc tiền sinh, và một khả năng sinh đẻ (fertilité) bị hạ thấp đối với những người con trai của những bà mẹ nghiện rượu.
(SCIENCES ET AVENIR 10/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 199 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 09/11/2010 )
1/RƯỢU CÓ THỂ CÓ HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA CÁC TINH TRÙNG.
Các cháu trai mà bà mẹ đă uống rượu trong thời kỳ thai nghén, có nguy cơ khả năng sinh sản thấp hơn.
REPRODUCTION. ở Châu Âu và Hoa Kỳ, trong những thập niên qua việc giảm số các tinh trùng, được chứng thực nơi những người đàn ông, có thể là do, ít nhất một phần, sự tiếp xúc với rượu trong tử cung.
Trong một công tŕnh nghiên cứu, được công bố mới đây trong tạp chí Human Reproduction, Cecillia Ramlau-Hansen và các đồng nghiệp của bệnh viện đại học Aarhus (Đan Mạch) cho thấy rằng, những người đàn ông, mà mẹ đă uống nhiều hơn một ly mỗi ngày trong thời kỳ thai nghén, có sự sản xuất các tinh trùng bị giảm 1/3, và rằng những hậu quả đă có thể được nhận thấy bắt đầu chỉ 2 ly mỗi tuần, hoặc 24 g alcool. Đây là lần đầu tiên một mối liên hệ như vậy được phát hiện. “ Mặc dầu hiện nay đó chỉ là một sự tương quan, nhưng hướng mới này là đáng quan tâm ”, GS Louis Bujan, thuộc đại học Paul-Sabatier và của CHU de Toulouse đă đánh giá như vậy. Chúng ta hăy nhắc lại rằng, việc tiêu thụ rượu bởi các phụ nữ có thai đă là nguyên nhân đầu tiên không phải do di truyền của sự chậm phát triển trí tuệ nơi đứa trẻ sinh ra đời.
Chính vào năm 1992, lần đầu tiên, hai nhà nghiên cứu Đan Mạch khác đă báo cáo với giới hữu trách y tế của đất nước họ về sự giảm không đổi, từ nhiều thế hệ, của sự sản xuất các tinh trùng của đồng bào họ. Bởi v́ cùng lúc đó người ta chứng thực một sự tăng cao của các bất thường của sự phát triển của bộ máy sinh dục nam và của các ung thư tinh hoàn, nên các mối nghi ngờ đều hướng về những yếu tố môi trường, nhất là sự tiếp xúc với vài hợp chất hoá học, các chất làm rối loạn nội tiết (perturbateur endocrinien).
Rất nhanh chóng Đan Mạch đă ở hàng đầu trong những nghiên cứu được thực hiện trong lănh vực này. Và điều này v́ nhiều lư do. Vào thời kỳ đó, đất nước đă phải đương đầu với một t́nh trạng giảm khả năng sinh sản rơ rệt của các cặp vợ chồng. Thật vậy, Đan Mạch giữ kỷ lục Châu âu về sinh đẻ bằng thụ thai nhân tạo (FIV : fécondation in vitro), và hiện nay vẫn nhu vậy với một tỷ lệ gần 5%, hoặc gấp ba lần so với nước Pháp. Sau đó, việc tạo điều kiện cho các nhà khoa học Đan Mạch được tham khảo các hồ sơ y khoa của tất cả các bệnh nhân được nhập viện từ năm 1977, đă cho phép họ thực hiện những nghiên cứu thống kê trên nhiều thế hệ. Các điều tra, được tiến hành nơi các phụ nữ mang thai bởi nhóm nghiên cứu của Miels Stakkebaek ở Rigshospitalet de Copenhague, trước hết đă cho thấy tác dụng có hại của chứng nghiện thuốc lá của người mẹ lên khả năng sinh đẻ của các người con gái, với một thời hạn để thụ thai tăng gấp đôi nếu các phụ nữ đă được tiếp xúc trong tử cung với thuốc lá cũng là những người hút thuốc. Vào năm 2007, Cecilia Ramlau-Hansen và các đồng nghiệp báo cáo một sự giảm gần 20% độ tập trung của tinh trùng của những người đàn ông, vốn đă bị tiếp xúc với thuốc lá của người mẹ khi c̣n trong tử cung. Sau cùng, một công tŕnh nghiên cứu mới của Đan Mạch, được thực hiện một cách đặc biệt lên những phôi thai người, với tuổi dưới một tam cá nguyệt, xuất phát từ IVG, đă phát hiện một sự suy giảm khối lượng dự trữ của những tế bào sinh sản trong những cơ quan sinh dục của cả hai giới tính, do đă bị tiếp xúc trong tử cung với thuốc lá.
Những tác dụng được xác nhận này của thuốc lá, và bây giờ được nghi ngờ đối với rượu, càng đáng lo ngại khi số các phụ nữ tiếp tục hút hay uống trong thời kỳ thai nghén. Ở Pháp, một công tŕnh nghiên cứu của Stéphanie Toutain, thuộc Đại Học Paris-Descartes, mới đây gợi ư rằng nhiều phụ nữ c̣n đánh giá thấp những nguy hiểm của một sự tiêu thụ rượu và tương đối hóa các nguy cơ tùy theo loại nước uống hay tùy theo lúc thai nghén. Theo công tŕnh nghiên cứu, lời ghi “ Zéro alcool trong thời kỳ thai nghén ” trên các chai rượu từ năm 2007 có lẽ không đủ. Cecilia Ramlau-Hansen nghĩ rằng cần phải đi xa hơn bởi v́ “ mặc dầu c̣n quá sớm để xác nhận một mối liên hệ trực tiếp nhân quả, nhưng công tŕnh nghiên cứu của chúng tôi tăng cường ư tưởng cho rằng, các phụ nữ có thai phải tuyệt đối tránh rượu, và ngay cả đối với mọi phụ nữ đă có ư định như vậy, bởi v́ khi những phụ nữ này khám phá ra rằng ḿnh có thai th́ họ có thể đă mang một bào thai đă nhiều tuần lễ rồi ”.
(LE FIGARO 28/10/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 201 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 22/11/2010 )
8/UNG THƯ ĐẠI TRÀNG : LỐI SỐNG, CH̀A KHÓA CỦA PH̉NG NGỪA.
Nếu như chúng ta ăn uống lành mạnh, không hút thuốc, uống rượu có mức độ và tập nhiều thể dục hơn, khi đó ta có thể ngăn ngừa ¼ trong 1,2 triệu ung thư đại tràng được chẩn đoán mỗi năm.
Helene Kirkegaard và các cộng sự viên (Đan Mạch) đă phân tích các dữ kiện liên quan đến 55.487 người đàn ông và đàn bà tuổi từ 50 đến 64, không có các tiền sử về ung thư. Họ đă theo dơi nhóm người này trong khoảng 10 năm. Những người tham dự đă điền một bảng câu hỏi thăm ḍ lối sống và thói quen ăn uống của họ.
Trên cơ sở những dữ kiện được thu thập, mỗi người tham dự được cấp một chỉ số lối sống (index de style de vie) (được cho điểm từ 0 đến 5). Người ta gán cho mỗi người tham dự một điểm theo tiêu chuẩn mà người này thỏa măn : không hút thuốc, bước nửa giờ mỗi ngày, không uống hơn 7 ly rượu mỗi tuần nếu đó là một phụ nữ (14 nếu đó là người đàn ông), có một tour de taille dưới 88 cm đối với các phụ nữ (102 cm đối với những người đàn ông) và ăn uống lành mạnh. Trong thời gian theo dơi, 678 trường hợp ung thư đại trực tràng đă được chẩn đoán. Theo các tác giả, giả sử tất cả những người tham gia đều đạt được chỉ số lối sống 5 điểm, th́ điều đó có thể làm giảm 23% số các trường hợp ung thư. Vậy thông điệp sau cùng là khuyến khích dân chúng theo đuổi một lối sống lành mạnh.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 16/11/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 207 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 03/01/2011 )
9/ UỐNG MỘT ÍT ĐỂ CÓ ÍT VẤN ĐỀ TIM MẠCH HƠN.
Nhiều công tŕnh nghiên cứu nhấn mạnh những lợi ích của việc uống rượu đều đặn và có mức độ trên b́nh diện tim mạch. Với sự nhấn mạnh vào ư niệm có mức độ.
Những lợi ích của rượu được tiêu thụ với những lượng hợp lư (phải luôn luôn nhấn mạnh vào khía cạnh về lượng này) vẫn tiếp tục được phát hiện trên b́nh diện tim mạch, ngay cả vài người tiếp tục nhấn mạnh vào sự kiện cho rằng, ngay cả với những lượng giới hạn, rượu vẫn độc đối với năo bộ.
MỘT LỢI ÍCH NƠI NHỮNG BỆNH NHÂN ĐƯỢC MỔ BẮT CẦU.
Nơi những bệnh nhân nam giới đă bị một phẫu thuật bắt cầu động mạch vành (pontage coronarien) (và do đó, theo định nghĩa, có nguy cơ tim mạch gia tăng), sự tiêu thụ rượu với những lượng từ nhẹ đến trung b́nh (khoảng 2 đến 3 ly mỗi ngày) được liên kết với một sự giảm ¼ những can thiệp tim sau này, các nhồi máu cơ tim, các tai biến mạch máu năo và những tử vong, so sánh với điều xảy ra nơi những người không uống một chút nào.
Các tác giả cũng nhấn mạnh một điều chứng thực khác của cũng công tŕnh nghiên cứu này: những bệnh nhân được mổ bắt cầu với một loạn năng thất trái (dysfonction ventriculaire gauche) và uống rượu với lượng từ vừa phải đến quan trọng (hơn 6 ly mỗi ngày) ngược lại có một nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim mạch. tăng gấp đôi. Đó là điều được chứng tỏ bởi một công tŕnh nghiên cứu của Ư, được tiến hành ở Đại học La Sapienza (Rome). Do đó các tác giả khuyên đừng uống rượu trong trường hợp loạn năng thất trái và suy tim. AHA (American Heart Association) nhắc lại lời khuyến nghị đừng uống rượu v́ mục đích pḥng ngừa, chính là do các nguy cơ liên kết với việc uống nhưng lượng quá quan trọng.
NƠI CÁC PHỤ NỮ ĐANG GIÀ ĐI.
Sự tiêu thụ đều đặn và có mức độ (lại ở đây ta đừng quên tầm quan trọng của sự tiết độ), hoặc 2 đến 4 ly mỗi ngày, sinh ra một lợi ích giới hạn nhưng đáng kể về mặt t́nh trạng sức khỏe toàn bộ nơi những phụ nữ đang lăo hóa. Đó là kết luận của một phân tích các dữ kiện của công tŕnh nghiên cứu nổi tiếng Nurses’ Health Study, được tiến hành trên khoảng 14.000 người trong số những phụ nữ đă đạt đến hay vượt quá tuổi 70. Người ta nhận thấy rằng sự tiêu thụ có mức độ và đều đặn rượu làm gia tăng 11% đến 26% những cơ may sống sót. Mặt khác những cơ may này lớn hơn nơi những phụ nữ tiêu thụ những lượng rượu chừng mực một cách đều đặn so với những phụ nữ uống không thường xuyên hay những phụ nữ uống say túy lúy (binge drinking, saoulerie aigue).
ÍT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO HƠN NƠI CÁC PHỤ NỮ.
Chính cũng từ những dữ kiện của công tŕnh nghiên cứu Nurses’Health Study (toàn bộ được thực hiện trên 84.000 phụ nữ), được theo dơi trong hơn 20 năm, mà các nhà nghiên cứu của đại học Havard đă có thể xác định rằng việc uống những lượng rượu dưới 15 g mỗi ngày dẫn đến một sự giảm 20% nguy cơ bị tai biến mạch máu năo so với những phụ nữ không bao giờ uống rượu. Trái lại, nơi những phụ nữ được điều trị bởi hormone, những phụ nữ uống hơn 2 ly mỗi ngày có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo cao hơn những phụ nữ không uống chút nào.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/12/2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 221 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 12/04/2011 )
6/ RƯỢU LIỀU MẠNH : NGUY CƠ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Kết quả của công tŕnh phân tích, được công bố bởi một nhóm các nhà nghiên cứu Canada, 84 thử nghiệm về ruợu, được đánh giá là đáng tin cậy, đưa đến hai kết luận. Đối với những người uống một liều từ 2,5 và 15 gam mỗi ngày(1 hay 2 ly) tỷ lệ tử vong tim mạch cũng như năo được giảm từ 14% đến 25 % so với những người không uống. Trên 2 ly, nguy cơ đối với những động mạch vành không thay đổi, nhưng làm gia tăng nguy cơ bị đột qụy, gia tăng 60% nơi những người uống mỗi ngày hơn 60% (5 ly hay hơn).
THÔNG TIN Y HỌC VỀ TRÀ (Tea)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Trà (Tea)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 10 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 23/1/2007 )
2/ PAS DE LAIT DANS LE THE
Sửa hủy bỏ những tác dụng có lợi của trà lên chức năng huyết quản. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và thực nghiệm chững tỏ rằng trà có đặc tính antioxydant, chống viêm và giăn mach.Thêm sửa vào trà có biến đổi những đặc tính này không ? Một nhóm nghiên cứu người Đức, Mario Lorenz và các cộng sự viên đă phân tích trên 16 phụ nữ khoẻ mạnh. Cac phụ nữ t́nh nguyên này phai uong 3 lần, mỗi lần 500ml : hoac trà đen mới pha chế, hoặc trà đen với 10% sửa không có kem, hoặc nước sôi (nhóm kiểm chứng).
Chức năng ṇi mạc (endothélium) của động mạch cánh tay được do bằng siêu âm,trước và 2 giờ sau khi uống. Các kết quả chứng tỏ rằng, so với nước, trà đen cái thiện đáng kể chức năng nội mac huyết quản, trong khi đó thêm sửa vào trà sẽ hủy bỏ hoàn toàn tác dụng này. Trong sô các protéines khác nhau của sửa, caséine tham gia vào tác dụng cản này, có lẻ bằng cách tạo nên những phức hợp với các catéchines của trá.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 16/1/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 16 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 4/3/2007 )
4/ SỮA HUỶ BỎ HIỆU QUẢ CỦA TRÀ
Một làn sữa mỏng sẽ làm tiêu tan tác dụng bảo vệ của trà den lên các mạch máu ( tác dụng bảo vệ này là do các tính chất chống oxi hoá,chống viêm và giăn mạch của trà den).Theo nhóm nghiên cứu ở Berlin, so sánh các tác dụng của trà thiên nhiên với trà pha sữa lên độ dẻo của mạch máu,thi 3 caséines cùa sửa là nguyên nhân của tác dụng hủy bỏ này.Các protéines này liên kết với catéchines là những phân tử có tác dụng có lợi của trà.Sự biến đổi hoá học này làm giảm nồng độ catéchines và huỷ bỏ đặc tính bảo vệ của chúng
( SCIENCE ET VIE 3/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 23 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 29/4/2007 )
1/ TRÀ XANH BẢO VỆ CHỐNG BỆNH SIDA ?
Các nhà khoa học đă nhân diện một cấu chất trong trà xanh có khả năng đua tranh với siêu vi khuẩn HIV bằng cách ngăn cản tác dụng của siêu vi khuẩn này lên hệ miễn dịch.Chất cấu thành của trà xanh nêu trên là épigallocatéchine gallate (EGCG).EGCG đến tọa vị trước các thụ thể (récepteurs) CD4 của các T4 và như vậy ngăn cản virus HIV liên kết với hệ miễn dịch.Theo M.Willamson,sự việc uống trà xanh có thể làm giảm nguy cơ bị nhiễm trùng bởi HIV và giới hạn sự khuếch tán của siêu vi khuẩn.Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho biết rằng nước trà xanh không phải là một điều trị chống bệnh Sida và dầu sao đó cũng không phải là một phương cách chắc chắn đề pḥng ngừa nhiễm trùng HIV.
Đúng hơn nếu trà xanh kết hợp với các thuốc điều trị thường dùng có thể góp phần tạo cho các bệnh nhân có huyết thanh dương tính một cuộc sống có chất lượng hơn. Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng nghiên cứu của họ đang c̣n ở trong một giai đoạn rất sớm sủa: c̣n cần phải thực hiện các nghiên cứu trên động vật trước khi có thể rút ra những kết luận về một hiệu quả bảo vệ khả dĩ của trà xanh.Các nhà nghiên cứu cũng nhắc lại rằng các nghiên cứu chỉ quan tâm đến khả năng in vitro của một thành phần hóa học của trà xanh trong việc phong tỏa sự nối kết giữa HIV với những CD4 của người. Nhưng đă nhiều lần được chứng tỏ rằng các chất có khá năng in vitro ngăn cản một nhiễm trùng do HIV lại không có thể như vậy trong t́nh huống thực tế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/4/2007)
color=purple]THỜI SỰ Y HỌC SỐ 50 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 10/11/2007 ) [/color]
6/ CAFE, TRÀ : TỐT CHO CÁC PHỤ NỮ TRÊN 65 TUỔI
Tiêu thụ ít nhất 3 tách café hoặc 6 tách trà mỗi ngày sẽ có tác dụng có lợi lên các chức năng nhận thức (fonction cognitive) của các phụ nữ 65 tuổi hoặc hơn. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trong 4 năm bởi nhóm nghiên cứu Karen Richie của Viện quốc gia y tế và nghiên cứu y học (INSERM) trên gần 7000 người.
Caféine đặc biệt có một vai tṛ dương tính chống lại các rối loạn liên kết với bệnh Alzheimer ( trí nhớ, luận lư, ngôn ngữ ). Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này của họ thêm 2 năm nữa, đánh giá rằng việc tiêu thụ caféine có lẽ không đóng vai tṛ lên sự xuất hiện của bệnh Alzheimer mà chỉ có ảnh hưởng lên tiến triển của bệnh mà thôi.
(READER’S DIGEST 11/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 81 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 13/6/2008 )
2/ CÀ PHÊ, TRÀ VÀ NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ
Ganmaa và các cộng sự viên ( Hoa Kỳ) đă thu góp các dữ kiện liên quan đến 86.000 phụ nữ đă tham gia vào công tŕnh nghiên cứu Nurses’ Health Study về sự tiêu thụ cà phê, trà và caféine. Các người tham gia ở trong lứa tuổi 30 đến 55 vào lúc khởi đầu công tŕnh nghiên cứu. Suốt trong 22 năm theo dơi, 5.272 phụ nữ trong số những người tham gia, đă phát triển một ung thư vú. Sau khi điều chỉnh về các yếu tố khác nhau khả dĩ ảnh hưởng lên các kết quả (tuổi tác, chứng nghiện thuốc lá, thể dục, các tiền sử gia đ́nh ung thư vú, t́nh trạng măn kinh, các tiền sử về điều trị bằng hormone, số con có đuợc), các nhà nghiên cứu đă không nhận thấy rằng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ uống ít nhất 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày là cao hơn so với các phụ nữ chỉ uống mỗi tách mỗi ngày.
(LE JOURNAL DU MEDECIN (6/6/2008 )
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 82 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 20/6/2008 )
9/ RAU XANH, TRÀ, RƯỢU VANG VÀ CACAO CÓ LỢI CHO NHỮNG NGƯỜI HÚT THUỐC
Các flavonoides là những chất chống gây ung thư (anticancérigènes). Nguy cơ phát triển ung thư phổi được giảm 32 đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định.
Thở, đó là tự oxy hóa ! Thật vậy việc sử dụng oxy, sinh tử, cũng sản sinh những dạng oxy được gọi là phản ứng (réactif), có thể tấn công những cấu trúc sinh học. Những hiện tượng oxy hóa này được xem như là một yếu tố lăo hóa và là một yếu tố làm dễ nhiều loại bệnh khác nhau, nhất là ung thư. Vậy phổi đứng hàng đầu trong việc chịu các hiện tượng này.
Việc tiếp xúc này lại càng rơ nét hơn đối với những người hút thuốc, và người ta đánh giá rằng sự tiếp xúc với oxy phản ứng góp phần rất lớn trong việc làm gia tăng nguy cơ ung thư phổi. Vấn đề t́m biết xem việc hấp thụ các hợp chất có khả năng làm giảm thiểu các hiện tượng oxy hóa và các tổn hại do các hiện tượng này gây ra, đă làm ngứa ngáy các nhà nghiên cứu từ nhiều năm qua. Các hợp chất này ám chỉ các chất chống oxy hóa (antioxydants). Một vài chất chống oxy hóa là các vitamine hay những oligo-éléments, nhưng nơi dự trữ các chất chống oxy hóa lớn nhất là các flavonoide, một họ gồm hơn 4.000 phân tử.
Trong pḥng thí nghiệm, các flavonoides đă chứng tỏ, ngoài khả năng chống oxy hóa đôi khi rất mạnh, những tính chất chống đột biến (antimutagénique) và chống ung thư. Được cổ vũ, các nhà khoa học đă thăm ḍ những mối liên hệ giữa sự hiện diện của những hợp chất này trong thực phẩm và sức khỏe của dân chúng. Các thức ăn như rau xanh, trái cây, trà, rượu vang và ngay cả cacao đều giàu các flavonoides. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă báo cáo sự hiện hữu của một mối liên hệ nghịch giữa việc tiêu thụ các flavonoides khác nhau và nguy cơ của vài bệnh tật, đặc biệt là trong lănh vực tim mạch.Và chính đó là điều vừa được chứng nhận bởi một nhóm các nhà dịch tễ học bao gồm những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ và Trung Quốc, đối đầu với ung thư phổi. Các nhà nghiên cứu mà các công tŕnh được công bố trong Cancer, đă nghiên cứu sự tiêu thụ flavonoides nơi 558 người đă phát triển một ung thư phổi, và nơi 837 người làm nhóm kiểm tra.
Công tŕnh nghiên cứu tiết lộ rằng nơi những người hút thuốc, nguy cơ phát triển ung thư phổi được thu giảm từ 32% đến 51% đối với 4 flavonoides được xác định rơ. Mặt khác, các rau xanh, trà và rượu vang, các nguồn thực phẩm quan trọng của flavonoides, cũng tỷ lệ nghịch với nguy cơ phát triển một ung thư phổi. Tuy nhiên không có một tác dụng đáng kể nào nơi những người không hút thuốc. Các dữ kiện của nghiên cứu gợi ư rằng các flavonoides có thể có một lợi ích đặc biệt nơi các người nghiện thuốc lá mặc dầu sẽ là ảo tưởng khi hy vọng rằng có thể huỷ bỏ tất cả các tác dụng của thuốc lá bằng các chất chống oxy hóa (antioxydants).
: (LE SOIR 11/6/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 09/07/2008 )
10/ CAFEINE CHỐNG UNG THƯ DA
Sự tiêu thụ caféine trong một đến hai tuần làm gia tăng hiện tượng chết được chương tŕnh hóa (apoptose hay mort programmée) của các tế bào biểu b́ bị biến đổi do tiếp xúc với các tia tử ngoại B và làm giảm nguy cơ biến đổi thành ung thư của chúng. Những dữ kiện này có được nơi loài gậm nhấm với các liều lượng caféine tương đương 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày. Các dữ kiện này xác minh những quan sát dịch tễ học cho thấy rằng những người uống cà phê hay trà bị ung thư da ít hơn so với phần dân chúng c̣n lại.
(SCIENCES ET AVENIR 7/2008).
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 90 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 22/08/2008 )
5/ TRÀ ĐEN LÀM CHẬM SỰ SUY THOÁI CỦA NĂNG LỰC NHẬN THỨC
Công tŕnh nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm dường như cho thấy rằng trà có một tác dụng bảo vệ lên chức năng thần kinh nhận thức (fonction neurocognitive). Tuy nhiên các kết quả này chưa được chứng tỏ nơi người. Một nhóm nghiên cứu của Singapour đă cố gắng chứng tỏ điều đó. Tze-Pin Ng và các cộng sự viên đă đo lường mức độ tiêu thụ trà của một nhóm người Hoa (2.501 người) 55 tuổi trở lên, vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu và 1 đến 2 năm sau. Họ cũng bắt các người tham gia chịu một trắc nghiệm Mini mental state, hay Test de Folstein.
Các kết quả cho thấy rằng việc tiêu thụ toàn bộ trà được liên kết một cách đáng kể với tỷ lệ thấp hơn bị rối loạn nhận thức (trouble cognitif). Những tác dụng này rơ ràng hơn đối với trà đen (thé noir) (được lên men) hay oolong (được lên men một nửa), là những thứ trà chủ yếu được uống bởi những người này. Trái lại, các nhà nghiên cứu không t́m thấy mối liên hệ giữa cà phê và t́nh trạng nhận thức.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/8/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 105 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 11/12/2008 )
4/ TRÀ TRÁNH XÓI M̉N RĂNG
Uống ǵ đây? Soda, nước trái cây vắt hay trà? Theo một công tŕnh nghiên cứu Hoa kỳ, nếu mục tiêu là để tránh xói ṃn ở ngà răng, th́ tốt hơn nên uống trà đen hay xanh. Đây là điều được giải thích bởi Mohamed A.Bassiouny và các cộng sự viên trong General Dentistry, tờ báo của Viện Hàn lâm Nha Khoa Tổng Quát của Hoa Kỳ. Đó là một đặc tính được thêm vào những đặc tính khác để được chứng minh của trà, như những tính chất chống oxy-hóa, hay khả năng làm hạ tỷ lệ mắc bệnh ung thư, các bệnh tim mạch và bệnh đái đường.
Như thế các tác giả đă so sánh tác dụng xói ṃn, trước mắt và lâu dài, của trà đen và xanh, của soda và nước trái cây vắt lên các chiếc răng. Họ đă nhận thấy rằng trà có một tác dụng tương tự với nước, nghĩa là không ăn ṃn, trái với các chất uống có khí (boissons gazeuses) và các nước trái cây vắt chứa quá nhiều đường được thêm vào và quá dồi dào acide citrique. Tuy nhiên họ khuyên những người uống trà tránh thêm sữa, chanh hay đường bởi v́ chúng làm giảm tác dụng của các flavonoides. Cũng tương tự đối với các trà đá (iced tea) chứa acide citrique và những lượng lớn chất đường.
Nếu không th́ trà uống nóng hay uống lạnh đều không quan trọng, miễn rằng trà được pha chế trong gia đ́nh, không thêm các chất phụ trợ. Tuy nhiên, đối với những kẻ không thể không uống nước uống acide, các tác giả khuyên uống với một ống rơm, nhai chewgum không đường để làm gia tăng sự sản xuất nước miếng hay để súc miệng với nước nhằm trung ḥa các acide và chờ một giờ trước khi đánh răng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 9/12/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 109 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH ( 17/1/2009 )
5/ RƯỢU VANG, TRÀ VÀ CHOCOLAT ĐỐI VỚI NĂO BỘ ?
Các ông và các bà lớn tuổi, tiêu thụ rượu vang giàu flavonoide, trà và chocolat, có những hiệu năng tốt hơn lúc thực hiện những trắc nghiệm về khả năng nhận thức (tests cognitifs). Đó là điều đă được chứng minh bởi một nhóm nghiên cứu Anh-Na Uy. Nhóm nghiên cứu này đă khảo sát mối liên hệ giữa sự tiêu thụ 3 thức ăn thức uống chứa flavonoides (chocolat, rượu vang và trà) và những hiệu năng nhận thức (performances cognitives). 2.031 người tham dự (70-74 tuổi, 55% là phụ nữ) đă được tuyển mộ và đă chịu những trắc nghiệm về khả năng nhận thức.
Các kết quả cho thấy rằng, so sánh với những người không ăn chocolat, không uống rượu vang hay trà, những người tiêu thụ chúng có những điểm số tốt hơn một cách đáng kể lúc làm những trắc nghiệm nhận thức và có tỷ lệ hiệu năng nhận thức kém thấp hơn.
Những người tiêu thụ ba loại thức ăn nước uống này có những điểm số tốt hơn và nguy cơ có những hiệu năng kém lúc làm trắc nghiệm thấp nhất. Những mối liên kết giữa sự tiêu thụ các thức ăn nước uống này và khả năng nhận thức (cognition) tùy thuộc vào liều lượng (dose-dépendante), với một hiệu quả tối đa đối với những tiêu thụ khoảng 10g chocolat mỗi ngày và khoảng 75-100 ml rượu vang mỗi ngày, nhưng theo đường thẳng đối với trà. Phần lớn những chức năng nhận thức được trắc nghiệm bị ảnh hưởng bởi 3 thức ăn thức uống này. Hiệu quả rơ rệt hơn đối với rượu vang và hơi thấp hơn đối với chocolat.
Do đó, trong tuổi già, một chế độ thức ăn thức uống nhiều flavonoides được liên kết với những hiệu năng tốt hơn đối với vài năng lực nhận thức và điều này tùy thuộc vào liều lượng.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/1/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 112 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH ( 6/2/2009 )
6/ TRÀ VÀ CÀ PHÊ CHỐNG LẠI CHỨNG SA SÚT TRÍ TUỆ DO TUỔI TÁC
Caféine kích thích hệ thần kinh trung ương ngắn hạn, nhưng tác dụng về lâu về dài của nó là tác dụng nào ? Những nhà nghiên cứu Phần lan, cộng tác với một nhóm nghiên cứu của Viện Karolinska ở Stockholm, đă nghiên cứu sự liên kết giữa việc tiêu thụ cà phê và/hoặc trà ở tuổi 50 với chứng sa sút trí tuệ/bệnh Alzheimer về sau này trong cuộc đời.
Công tŕnh nghiên cứu Cardiovascular Risk Factors, Aging and Dementia đă đưa vào nghiên cứu những người sống sót của Projet North Karelia và của công tŕnh Finmonica năm 1972, 1977, 1982 hay 1987 (thăm khám lúc ở tuổi 50). Sau một theo dơi trung b́nh 21 năm, 1.409 người (71%) tuổi từ 65 đến 79 tuổi, chịu một thăm khám y khoa hoàn chỉnh năm 1998. 61 trường hợp sa sút trí tuệ (48 với Alzheimer) đă được nhận diện.
Vào lúc thăm khám ở tuổi 50, sự tiêu thụ cà phê và trà đă được ghi nhận và những người uống cà phê được xếp thành 3 loại : những người uống ít (0-2 tách/ngày), trung b́nh (3-5 tách/ngày) và uống nhiều (hơn 5 tách/ ngày). So sánh với những người không uống hoặc uống ít cà phê, những người uống vào lúc 50 tuổi có một nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer thấp hơn về sau này trong cuộc đời. Nguy cơ thấp nhất (giảm 65%) được nhận thấy nơi những người uống 3-5 tách cà phê mỗi ngày. Uống trà tương đối hiếm và không liên kết với chứng sa sút trí tuệ/Alzheimer. Đối với các tác giả, Marjo Eskelinen và các cộng sự, uống cà phê ở tuổi trung niên được liên kết với một sự giảm nguy cơ mắc phải sa sút trí tuệ /Alzheimer vào lúc lớn tuổi sau này. Khám phá này có thể mở ra những khả năng pḥng ngừa, đặc biệt là dinh dưỡng, các chứng sa sút trí tuệ.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 23/1/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 158 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 25/1 /2010 )
4/ CHỐNG BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2 : TRÀ HAY CÀ PHÊ ?
Một nhóm nghiên cứu Úc Đại Lợi đă phân tích 18 công tŕnh nghiên cứu có chất lượng (trên 458.000 bệnh nhân) để đánh giá, từ năm 1966 đến 2000, những tương quan giữa việc tiêu thụ trà, cà phê và sự xuất hiện bệnh đái đường loại 2. Những loại nước uống này có một tác dụng bảo vệ quan trọng : 3 hay 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày làm giảm nguy cơ bị bệnh đái đường lần lượt 20% và 30% so sánh với những người không uống hoặc cà phê hoặc trà. Lợi ích này là do sự hiện diện của các chất chống oxy hóa (oxydant) và của magnésium
(PARIS MATCH 14/1-20/1 /2010)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 160 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 8/2/2010 )
3/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA CÁC FLAVONOIDE CỦA RƯỢU VANG, TRÀ, CACAO.
Viện hàn lâm dược học quốc gia hôm qua đă thảo luận về những đóng góp có lợi lên tim và năo bộ của những chất được chứa trong vài loại thức ăn.
PREVENTION. Rượu vang, trà, chocolat, là chủ yếu, và những thực phẩm khác chứa những chất flavonoides, có những tác dụng chống oxy hóa (antioxydant) và chống viêm, với một hiệu quả bảo vệ lên tim và năo bộ. Từ 15 năm nay, các nghiên cứu gia tăng về những chất được chứa trong thực phẩm này. Hôm qua, Viện dược học quốc gia đă dành một trong những buổi họp để bàn về những tác dụng lên sức khỏe của những chất flavonoides đầy hứa hẹn này. Tuy nhiên, trong khi nhiều xí nghiệp dược phẩm đề nghị các viên thuốc mà chất căn bản là flavonoides, th́ viện hàn lâm lại đánh giá rằng những dữ kiện hiện nay không cho phép khuyến khích các “ điều khẳng định sức khỏe ” (“ assertions santé ”) của các chất bổ trợ dinh dưỡng (adjuvants alimentaires).
Lịch sử của các flavonoides bắt đầu trong những năm 1990, với sự phát hiện của nghịch lư Pháp (paradoxe français) : các người Pháp, đặc biệt trong vùng Tây Nam, có một tỷ lệ tử vong do tim mạch thấp hơn so với những nơi khác, mặc dầu một sự tiêu thụ cao các chất mỡ bảo ḥa (một yếu tố nguy cơ tim mạch quan trọng). Ngoại lệ này được quy cho sự tiêu thụ rượu vang đỏ, đặc biệt cao ở Pháp. Các flavonoides (các hợp chất polyphénol) của rượu đă được nhận diện như là các chất trung gian của tác dụng có lợi này. Và nhiều công cuộc điều tra dịch tễ học đă cố gắng phân tích mối liên hệ giữa chế độ ăn uống giàu flavonoides và các bệnh tim mạch (đột qụy, nhồi máu) hay thoái hóa thần kinh (bệnh Alzheimer, Parkinson).
“ Toàn bộ các thông tin có được như thế cho thấy một khuynh hướng chung tán trợ cho việc liên kết giữa sự tiêu thụ rượu vang đỏ có mức độ (một hay hai ly mỗi ngày), (trên mức này, những tác dụng có hại của rượu làm đảo ngược khuynh hướng), của sự tiêu thụ trà xanh hay trà đen và cacao và tỷ lệ tử vong nguồn gốc tim mạch hay thoái hóa thần kinh, GS Jean-Claude Stoclet, ủy viên của Hội hàn lâm dược học (đại học Strasbourg) đă giải thích như vậy.
Vậy có vẻ hợp lư khi đưa ra giả thuyết, theo đó sự tiêu thụ đều đặn của vài loại trái cây giàu flavonoides hay những chế phẩm phát xuất từ đó, rượu vang đỏ, một vài nước nho vắt, trà xanh và đen (trong một chừng mực ít hơn), cacao, được liên kết với một sự giảm tỷ lệ tử vong… ”
SỰ ỨC CHẾ CỦA MỘT VÀI GENE .
Bằng cớ chính thức chỉ có thể được mang lại, sau những thử nghiệm lâm sàng so sánh một chế độ ăn uống giàu flavonoides với một chế độ ăn uống nghèo flavonoides. Chúng ta hăy ghi nhận rằng hầu hết các công tŕnh nghiên cứu không phát hiện mối liên hệ giữa một chế độ ăn uống giàu flavonoide và ung thư. Nhiều công tŕnh nghiên cứu thí nghiệm, trên cấy tế bào hay mô h́nh động vật, đă phát hiện một tác dụng của các flavonoides lên thành trong của các huyết quản, với một sự gia tăng của các yếu tố giăn mạch và chống tăng sinh (facteurs vasodilatateurs en antiprolifératifs). Những chất này cũng tác dụng bằng sự ức chế của vài loại gène, để dẫn đến một tác dụng kháng viêm.
Người ta t́m thấy ở đâu các flavonoides này ? Nhiều trăm flavonoides khác nhau đă được nhận diện. Mặc dầu có nhiều điều không chắc chắn, nhưng có vẻ như rằng các flavonoides có một tác dụng bảo vệ, thuộc về các lớp của các flavonols (rượu vang đỏ, trà, cacao) và của các chất anthocyanines (các trái cây đỏ, quả anh đào, cassis). “ Khi tính đến các dữ kiện mới đây về các hiệu quả và các cơ chế tác dụng của vài flavonoides, ta có thể dễ bị cám dỗ khi chủ trương ngay từ bây giờ một sự tăng cường flavonoides trong chế độ ăn uống, GS Stoplet đă đánh giá như vậy. Cần phải cưỡng lại sự cám dỗ này : ngoài những điều không chắc chắn về bản chất của các hợp chất hữu ích, về những lượng cần phải cho, không hoàn toàn loại bỏ sự hiện diện của những tác dụng phụ. ” Đối với GS François Chast, chủ tịch của Viện hàn lâm dược khoa, “ trên cơ sở của các dữ kiện hiện nay, một sự tăng cường các cố gắng nghiên cứu có vẻ được biện minh và khẩn cấp ”.
(LE FIGARO 28/1/2010)
10/ TRÀ XANH HIỆU QUẢ TRONG SỰ NGĂN NGỪA UNG THƯ PHỔI.
Nguyên nhân đầu tiên của tử vong ở Đài Loan là ung thư phổi.
Rất nhạy cảm với tai ương này, nhóm nghiên cứu của BS I-Hson Lin (Chung Shan Medical University) đă tiến hành một cuộc điều tra về những thói quen sinh sống của 170 bệnh nhân bị ung thư phổi và của 340 người chứng lành mạnh. Những kết luận của công tŕnh nghiên cứu mới đây đă được tŕnh bày tại hội nghị về những cơ chế phần tử, nguồn gốc của ung thư phổi, ở Colorado (Californie). Các kết quả gây ngạc nhiên : nơi những người hút thuốc không uống trà xanh, nguy cơ được nhân lên 12,7 lần so với những người hút thuốc nhưng uống trà xanh (ngay cả chỉ uống một tách mỗi ngày). Các nhà nghiên cứu đă chứng tỏ sự hiện diện của những profil di truyền được liên kết với một sự gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư này. Nơi những người có mức độ nhạy cảm di truyền (susceptibilité génétique) thuận lợi, trà xanh làm gia tăng tác dụng bảo vệ. Các chất có lợi, được chứa trong trà xanh, có một tác dụng lên tính ổn định của các tế bào và các gène của chúng. Đó là các polyphénol, các chất chống oxy hóa (antioxydant) được biết rơ, thí dụ như épigallocatéchine, có tác dụng 200 lần mạnh hơn vitamine E
THÔNG TIN Y HỌC VỀ CAFE (Coffee)
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Café (Coffee)
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
2/ CÀ PHÊ LÀ BẠN CỦA NHỮNG TRÁI TIM NGƯỜI GIÀ ?
Một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng các đồ uống có cà phê có tác dụng bảo vệ khỏi bị nguy cơ tử vong do bệnh tim nơi những người lớn tuổi.
Caféine có thể cải thiện hạ huyết áp sau khi ăn trong trường hợp nguy cơ gia tăng bị tai biến động mạch vành và tử vong nơi người lớn tuổi.James Greeberg và các cộng sự viên,một nhóm nhà nghiên cứu của Đại học Nữu Ước,đă muốn kiểm tra giả thuyết theo đó đồ uống có cà phê làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch trong tuổi già.Để thực hiện điều này,các nhà nghiên cứu đă căn cứ trên một nghiên cứu (National Health and Nutrition Examination Survey Epidemiologic Follow up Study) với 6594 người tham gia,lứa tuổi từ 32 đến 86 tuổi không có tiền sử bệnh tim mạch.
Các kết quả cho thấy rằng những người tham gia trên 65 tuổi và tiêu thụ nhiều đồ uống có cà phê,có nguy cơ tim mạch thấp hơn và tỷ lệ tử vong do tim nhỏ hơn so với những người uống it cà phê.Và hiệu quả bảo vệ này tùy thuộc vào lượng cà phê uống vào. Thật vậy nguy cơ tử vong do tim là 1, 0,77, 0,68, và 0,47 tùy theo lượng cà phê tiêu thụ: dưới ½ tách mỗi ngày,từ ½ đến 2 tách mỗi ngày,từ 2 đến 4 tách mỗi ngày và trên 4 tách mỗi ngày.Một hiệu quả bảo vệ tương tự cũng đă được nhận thấy khi sự tiêu thụ caféine được tính bằng mg/ngày Tuy nhiên,tác dụng có lợi này chỉ được nhận thấy đối với những người tham gia không bị chứng huyết cao nghiêm trọng và không một hiệu quả bảo vệ đáng kế nào được xac định ở những người dưới 65 tuổi hoặc đối với tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo của những người trên 65 tuổi.
Từ những kết quả trên,các tác giả kết luận rằng các đồ uống có cà phê có tác dụng bảo vệ đối với nguy cơ tử vong gây nên bởi bệnh tim nơi những người già.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 13/2/2007)
8/ CAFEINE VÀ TRỌNG LƯỢNG LÚC SINH.
Giảm sự tiêu thụ cà phê trong thời kỳ thai nghén từ 3 tách cà phê mỗi ngày xuống c̣n một tách không có tác dụng lên trọng lương lúc sinh của trẻ sơ sinh.Các nhà nghiên cứu Đan Mạch đă báo cáo như vậy.
Một vài công tŕnh nghiên cứu đă gợi ư rằng giảm sự tiêu thụ cà phê có thể làm gia tăng trọng lượng trung b́nh lúc sinh ,nhung phân tích một nghiên cứu mới đây trên hơn 1.200 phụ nữ khỏe mạnh đă không cho thấy anh hưởng lên thể trọng lúc sinh hay thời gian thai nghén
Các nhà nghiên cứu đă tuyển mộ 1.207 phụ nữ có thai 5 tháng hay hơn.Các phụ nữ này cho biết uống it nhất 3 tách cà phê có caféine mỗi ngày.Một nửa trong số các phụ nữ này được cho uống cà phê có caféine trong khi đó một nửa kia được chỉ thị cho uống cà phê không có caféine suốt trong thời gian thai nghén.Kết quả cho thấy rằng trọng lượng trung b́nh của trẻ sơ sinh nhóm các bà mẹ uống cà phe không có caféine cao hơn nhóm các bà mẹ uống cà phê với caféine một cách không đáng kể về mặt thống kê(14 gr).
Các nhà nghiên cứu công nhận rằng sự tiêu thụ caféine không phải là vô hại nhưng mặt khác sự giảm uống cà phê không có ảnh hưởng đáng kể nào lên trọng lượng của trẻ sơ sinh
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 15/2/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 31 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 15//6/2007 )
6/ CAFE LÀM GIẢM NGUY CƠ BỊ UNG THƯ GAN
Có một số dữ kiện gợi ư rằng việc uống café có thể bảo vệ gan chống lại mọi tấn công có nguồn gốc khác nhau và làm giảm nguy cơ bị carcinome hépatocellulaire (CHC). Một phân tích mới đây gợi ư rằng việc uống café có thể làm giảm nguy cơ bị ung thư gan. Các BS Susanna và Alicja thuộc Viện Karolinska , Stockholm đă thực hiện sự phân tích này.Tổng cộng có 9 công tŕnh nghiên cứu với 2.260 trường hợp và 239.146 kiểm chứng đă hội đủ các chỉ tiêu đề ra. Nh́n toàn bộ, một gia tăng tiêu thụ 2 tách café mỗi ngày liên kết với sự giảm nguy cơ bị ung thư gan 43%.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/6/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 38 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 9/8/2007 )
9/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA PHỤ NỮ
Sự tiêu thụ ít nhất 3 tách cà phê (hoặc 6 tách trà) mỗi ngày bảo vệ các phụ nữ trên 65 tuổi khỏi bị sa sút trí nhớ, so với các phụ nữ uống một tách hoặc ít hơn. Đó là kết luận của các công tŕnh của đơn vị Inserm 888 «Các Bệnh lư của hệ thần kinh: nghiên cứu dịch tễ và lâm sàng ». Gần 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông tuổi 65 hoặc hơn, đă được theo dơi trong ṿng 4 năm. Đối với đàn ông th́ không có một hiệu quả nào có thể định mức được.
(LE FIGARO 7/8/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 39 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 25/8/2007 )
1/ CAFEINE BẢO VỆ TRÍ NHỚ CỦA CÁC PHỤ NỮ
Một nhóm nghiên cứu người Pháp thuộc Inserm đă nhận thấy ở những người nghiện café (trên 3 tách mỗi ngày) có trí nhớ ngôn từ (mémoire verbale) ít bị sa sút hơn và trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale) cũng vậy nhưng với mức độ ít hơn. Karen Richie, cộng tác với Alex de Mendona của pḥng thí nghiệm khoa học thần kinh thuộc Đaị Học Lisbonne, đă nghiên cứu mối liên hệ giữa việc tiêu thụ caféine và các hiệu năng về nhận thức (performances cognitives) (trí nhớ, ngôn ngữ, logique) nơi những người già trên 65 tuổi hoặc hơn. Như thế các nhà nghiên cứu đă theo dơi 4.197 phụ nữ và 2.820 đàn ông suốt trong 4 năm : các nhà khảo sát đă đánh giá các hiệu năng về nhận thức của những người này, sự xuất hiện chứng sa sút trí tuệ (démence) và việc tiêu thụ caféine vào lúc bắt đầu công tŕnh nghiên cứu, sau 2 và 4 năm. Công tŕnh nghiên cứu này, được đặt tên là 3C, đă được tiến hành ở Montpellier, Dijon và Bordeaux.
Có những suy đoán vững chắc về caféine từ khi các công tŕnh nghiên cứu trên động vật đă gợi ư rằng caféine, bằng cách tác động lên các thụ thể adénosine, làm giảm thiểu những tổn hại trên năo bộ. Karen Ritchie đă xác định rơ như vậy trong một thông báo của Inserm.
Thật vậy, những kết quả nghiên cứu chứng tỏ rằng caféine có một hiệu quả bảo vệ, nhưng chỉ xảy ra ở phụ nữ mà thôi. So sánh với các phụ nữ chỉ uống một tách hoặc ít hơn mỗi ngày, người ta nhận thấy ở các bà nghiện nặng café (hơn 3 tách mỗi ngày) ít có sự sa sút trí nhớ về ngôn từ (mémoire verbale) hơn, cũng như trí nhớ thị giác và không gian (mémoire visuo-spatiale). Hiệu quả bảo vệ của café càng ngày càng gia tăng với tuổi. Ngược lại, việc tiêu thụ caféine đă không làm giảm nguy cơ mắc phải chứng sa sút trí tuệ (démence) trong 4 năm theo dơi của công tŕnh nghiên cứu.
Các kết quả của chúng tôi chứng tỏ rằng các phụ nữ càng xa dần thời kỳ măn kinh th́ lợi ích của caféine càng quan trọng. Chúng tôi cần theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này thêm hai năm nữa để xem xét tốt hơn mối liên hệ giữa caféine và bệnh Alzheimer. Có thể việc tiêu thụ caféine không có vai tṛ trong sự xuất hiện của bệnh Alzheimer nhưng có ảnh hưởng trong tiến triển của bệnh này. Cần phải t́m hiểu tại sao caféine chỉ bảo vệ cho phụ nữ mà thôi: có thể là đàn ông và phụ nữ chuyển hoá caféine một cách khác nhau hoặc cũng có thể do tác dụng hổ tương của các hormone. Phải làm sáng tỏ cơ chế sinh học để đánh giá xem một điều trị với caféine có thể hữu ích hay không.”
“(LE JOURNAL DU MEDECIN 17/8/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 40 ( 2/9/2007 )
2/ NHIỀU CAFE HƠN, ÍT NGUY CƠ HƠN
Ít nguy cơ ǵ? Ung thư gan! Đó là kết luận gây xao xuyến đạt được bởi một nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu dược liệu học Milan dưới sự lănh đạo của Francesca Bravi. Thế mà kết luận này không phải là không có tầm quan trọng bởi v́ ung thư gan là một trong những ung thư gây chết người nhất sau ung thư phổi và dạ dày. Tổ Chức Y Tế Thế Giới đă quy cho ung thư này là nguyên nhân của 660.000 trường hợp tử vong trên quy mô hành tinh.
Bravi và nhóm nghiên cứu đă thực hiện một phân tích các tài liệu khoa học liên quan đến mối quan hệ giữa việc tiêu thụ café và nguy cơ carcinome hépatocellulaire (dạng ung thư chiếm tỷ lệ 90% trên toàn bộ các trường hợp ung thư gan). Các tác giả chỉ đưa vào trong công tŕnh phân tích những nghiên cứu đề cập đến những dữ kiện về lượng liên hệ đến việc tiêu thụ café và tỷ lệ mắc bệnh carcinome hépatocellulaire. Theo tiêu chuẩn này, tổng cộng có một chục công tŕnh nghiên cứu với tổng số khoảng 2.260 bệnh nhân. 6 nghiên cứu được thực hiện ở Nam Âu và Nhật bản (1.551 trường hợp) trong khi đó 4 nghiên cứu khác là những nghiên cứu nhóm (études de cohorte) của Nhật bản.
NGUY CƠ ĐƯỢC THU GIẢM
Các tác giả xác nhận rằng nh́n toàn bộ th́ những người uống café có nguy cơ bị carcinome hépatocellulaire giảm 41% so với những người không bao giờ uống café. Sự giảm nguy cơ này cũng rơ rệt nơi những người Nhật mặc dầu họ ít thích café hơn so với dân vùng Nam Âu. Ngoài ra sự giảm nguy cơ ít rơ rệt hơn nơi những người uống café có chừng mực (30%) so với những người tiêu thụ nhiều (55%)
Các nhà nghiên đă quan sát thấy rằng uống thêm một tách café mỗi ngày cho phép làm giảm từ 23% đến 25% nguy cơ mắc phải carcinome hépatocellulaire. Bravi và nhóm nghiên cứu cũng đă gợi ư rằng café làm giảm nguy cơ mắc phải những bệnh lư khác của gan. Đến lượt sự suy giảm này làm giảm tỷ lẽ carcinome hépatocellulaire.
CÂU HỎI BỎ NGỎ
Các tác giả cũng đă xác định rằng việc xem xét các thành phần hóa học của café đă phát hiện những tác dụng có lợi lên gan của vài cấu tử này. Café dường như liên kết với một mối nguy cơ bị xơ gan ít hơn. Ngược lại, các nghiên cứu trên động vật và in vitro đă xác lập rằng những thành phần khác của café cản trở quá tŕnh khử độc các chất gây ung thư và do đó có một tác dụng không thuận lợi lên gan. Như vậy việc khẳng định café tốt cho gan hơi bị thu giảm. Ngoài ra mối liên hệ giữa việc tiêu thụ café và sự thu giảm nguy cơ mắc phải carcinome hépatocellulaire không cho phép kết luận rằng vế thứ hai là kết quả của vế thứ nhất. Cũng có thể rằng những người bị ung thư gan uống café ít hơn, dẫu cho hai yếu tố này thường không liên kết với nhau. Nếu mối liên hệ giữa việc uống café và sự phát sinh ung thư gan là không thể phủ nhận được th́ vấn đề c̣n lại là phải xác định đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả..
(LE GENERALISTE 30/8/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 44 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 30/9/2007 )
3/ CAFE PH̉NG NGỪA BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2
Một phân tích méta xác nhận rằng việc tiêu thụ đều đặn café làm giảm nguy cơ mắc phải bệnh đái đường loại 2. Nhiều công tŕnh nghiên cứu ngang (études transversales) đă chứng tỏ một hiệu quả bảo vệ của café trên nguy cơ phát triển bệnh đái đường loại 2. GS André Scheen, trưởng khoa đái đường thuộc CHU Sart (Liège) đă thực hiện một tổng hợp các công tŕnh nghiên cứu dọc (études longitudinales) về vấn đề này.
Tại sao phải quan tâm vấn đề này đến thế? Là bởi v́ sự khẩn cấp được đặt ra do trận dịch đái đường loại 2 đă được loan báo sẽ xảy ra trong những năm sắp đến và bởi v́ café là một loại nước uống phổ biến khắp nơi trên thế giới, v́ vậy café sẽ là một công cụ pḥng ngừa thực tiễn.
Theo kết quả của những công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh (prospective study) th́ hiệu quả bảo vệ của café lên sự phát triển của bệnh đái đường loại 2 được xác nhận. “ Tầm quan trọng của tác dụng bảo vệ được quan sát không phải là không đáng kể (giảm nguy cơ từ 30 đến 60 %) và mức độ hiệu quả có thể so sánh với các điều trị bằng dược liệu. Phần lớn các công tŕnh này được thực hiện trên quảng đại quần chúng và sẽ là lư thú khi biết được các tác dụng đặc hiệu hơn của café lên những người có nguy cơ cao ”. Các tác giả đă xác định như vậy. Ngoài ra, một tác dụng tuỳ thuộc liều lượng (dose-dépendant) được quan sát và hiệu quả này rơ rệt hơn với café décaféiné hơn là với café chính quy ” (regular).
Vấn đề cơ chế và chất chịu trách nhiệm cho tác dụng lợi ích này chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên các tác giả cho rằng giả thuyết về acide chlorogénique, mặc dầu chưa được chứng minh nhưng khá hấp dẫn. Song tất cả những nhận xét này khiến ta phải thận trọng : “ Tuy nhiên c̣n hơi sớm để đưa ra những lời khuyên quả quyết về vấn đề này ”. Các tác giả đă kết luận như thế.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 25/9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 50 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 10/11/2007 )
6/ CAFE : TỐT CHO CÁC PHỤ NỮ TRÊN 65 TUỔI
Tiêu thụ ít nhất 3 tách café hoặc 6 tách trà mỗi ngày sẽ có tác dụng có lợi lên các chức năng nhận thức (fonction cognitive) của các phụ nữ 65 tuổi hoặc hơn. Đó là kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được tiến hành trong 4 năm bởi nhóm nghiên cứu Karen Richie của Viện quốc gia y tế và nghiên cứu y học (INSERM) trên gần 7000 người.
Caféine đặc biệt có một vai tṛ dương tính chống lại các rối loạn liên kết với bệnh Alzheimer ( trí nhớ, luận lư, ngôn ngữ ). Các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục theo đuổi công tŕnh nghiên cứu này của họ thêm 2 năm nữa, đánh giá rằng việc tiêu thụ caféine có lẽ không đóng vai tṛ lên sự xuất hiện của bệnh Alzheimer mà chỉ có ảnh hưởng lên tiến triển của bệnh mà thôi.
(READER’S DIGEST 11/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 61 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (27/1/2008)
7/ CAFFEINE CÓ LIÊN HỆ TRONG VIỆC LÀM SẨY THAI
Uống quá nhiều cà phê trong thời kỳ thai nghén có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, một công tŕnh nghiên cứu mới đă phát biểu như vậy, và các tác giả gợi ư rằng các phụ nữ có thai có thể cần giảm bớt lượng cà phê uống vào hoặc phải từ bỏ toàn bộ.
Nhiều Bác sĩ chuyên khoa Sản đă khuyên các phụ nữ hạn chế caffeine, mặc dầu vấn đề này đă gây nhiều tranh căi, với các công tŕnh nghiên cứu mâu thuẫn nhau, các dữ kiện không rơ ràng và những lời khuyến nghị khác nhau trong nhiều năm qua.
Công tŕnh nghiên cứu mới, được công bố hôm thứ hai trên tờ Journal of Obstetrics and Gynecology, nhận thấy rằng các phụ nữ có thai uống 200 mg caffeine hoặc hơn mỗi ngày (lượng được chứa trong 10 ounces cà phê hoặc 25 ounces trà), có thể làm tăng gấp đôi nguy cơ sẩy thai của họ. 10 ounces tương đương với khoảng 300 ml.
Các phụ nữ có thai nên từ bỏ caffeine trong ít nhất 3-4 tháng đầu của thời kỳ thai nghén, BS De-Kun Li, tác giả lănh đạo công tŕnh, một nhà dịch tễ học về sinh sản thuộc Kaiser Permanente Division of Research, ở Oakland, California, đă phát biểu như vậy. “Nếu v́ bất cứ lư do nào đó, họ thật sự không thể từ bỏ được, th́ nên cắt giảm chỉ c̣n một tách hoặc chuyển sang decaf (cà phê không có caffeine)”, BS Li nói như vậy. “Ngừng uống caffeine thật sự không có một tác dụng âm tính nào”
Các nhóm chuyên môn nghề nghiệp như American College of Obstetricians and Gynecologists và American Society for Reproductive Medicine đă không có lập trường chính thức về caffeine, các đại diện đă nói như vậy.
Hôm thứ sáu, Website của March of Dimes đă nói rằng hầu hết các chuyên gia đồng ư rằng lượng caffeine được chứa trong 8-16 ounces cà phê uống mỗi ngày là an toàn. Website ghi nhận rằng vài công tŕnh nghiên cứu đă liên kết việc tiêu thụ caffeine với liều lượng cao hơn với sự sẩy thai và với trọng lượng lúc sinh thấp, nhưng web site phát biểu: “Tuy nhiên không có bằng cớ vững chắc cho rằng caffeine gây nên những vấn đề này. Cho đến khi được biết rơ nhiều hơn, các phụ nữ tốt hơn nên giới hạn lượng caffeine uống vào trong thời kỳ thai nghén”. Bây giờ đây, sau khi đă duyệt lại công tŕnh nghiên cứu mới, March of Dimes dự kiến thay đổi thông điệp của ḿnh, khuyên các phụ nữ đang có thai hoặc đang cố thụ thai, giới hạn việc tiêu thụ caffeine hàng ngày c̣n 200 mg hoặc ít hơn, Janis Biermann đă nói như vậy.
Công tŕnh nghiên cứu của Li bao gồm 1.063 phụ nữ có thai được phỏng vấn một lần về lượng caffeine được tiêu thụ. Vào lúc phỏng vấn, thời gian thai nghén trung b́nh là 71 ngày. Nhưng 102 người đă sẩy thai (không đáng ngạc nhiên v́ hầu hết các trường hợp sẩy thai xảy ra rất sớm trong thời kỳ thai nghén). Sau đó thêm 70 phụ nữ nữa bị sẩy thai. Như vậy tỷ lệ sẩy thai toàn thể là 16%.
Trong số 264 phụ nữ nói là họ đă không dùng caffeine, 12,5% bị sẩy thai. Nhưng tỷ lệ sẩy thai là 24,5 % nơi 164 phụ nữ đă tiêu thụ 200mg caffeine hoặc hơn mỗi ngày. Nguy cơ sẩy thai gia tăng được liên kết với chính caffeine chứ không phải với các yếu tố nguy cơ đă được biết như tuổi của người mẹ hoặc thói quen hút thuốc, các nhà nghiên cứu đă nói như vậy.
Li nói rằng công tŕnh nghiên cứu đă trả lời một câu hỏi quan trọng mà nghiên cứu trước đây vẫn để bỏ ngơ. Các phụ nữ bị chứng nôn mửa vào buổi sáng (morning sickness) ít bị sẩy thai hơn là những phụ nữ không có chứng khó ở này, có lẽ bởi v́ những thay đổi về hormone là nguyên nhân của chứng nôn mửa này, đă góp phần cho sự phát triển của một thai nghén lành mạnh. Nhưng các nhà nghiên cứu đă nói rằng chứng nôn mửa vào buổi sáng có thể dẫn đến những kết quả làm sai lạc trong công tŕnh nghiên cứu caffeine.
Những nhà nghiên cứu này lư luận rằng bởi v́ cảm thấy khó ở, vài phụ nữ có thể đă uống ít caffeine. Khuynh hướng này có thể làm cho có cảm tưởng rằng sự việc các phụ nữ có vẻ ít bị sẩy thai hơn là bởi v́ họ đă tránh tiêu thụ caffeine.
Li nói rằng ông ta và các đồng nghiệp đă cẩn thận phân tích các dữ kiện và đă xác định rằng nguy cơ làm sẩy thai do caffeine là thật sự và không thể được giải thích bởi các tỷ lệ khác nhau trong chứng nôn mửa buổi sáng.
BS Carolyn Westhoff, một giáo sư sản phụ khoa và dịch tể học, thuộc Columbia University Medical Center, Nữu Ước, đă tỏ ra dè dặt về công tŕnh nghiên cứu. Bà ghi nhận rằng nghiên cứu hoặc giải thích sự sẩy thai là việc khó làm. Bà nói rằng hầu hết các trường hợp sẩy thai đều là do bất thường về nhiễm sắc thể, và không có bằng chứng cho rằng caffeine có thể gây nên những vấn đề đó.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 21/1/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 69 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 22/3/2008 )
2/ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 2 : COI CHỪNG CAFEINE !
Caféine làm gia tăng đường trong máu. Đó là một thông điệp mà BS James Lane thuộc đại học Duke ( Durham, Caroline du Nord, Hoa Kỳ) đă gởi đến cho các bệnh nhân đái đường loại 2 ( đái đường không phụ thuộc vào insuline, hay đái đường béo). Các bệnh nhân thuộc loại đái đường này đông nhất (85% các trường hợp). Bằng một loạt các xét nghiệm khá phức tạp (đường huyết, insuline…) được thực hiện nơi 14 người bị bệnh đái đường béo ( 11 đàn ông, 3 phụ nữ), công tŕnh nghiên cứu của ông đă chứng tỏ rằng sự hấp thụ caféine làm gia tăng nồng độ glucose trong máu, 9% sau bữa ăn sáng, 15% sau bữa ăn trưa và 26% sau bữa ăn chiều. Nguyên nhân chính xác vẫn không được biết tới.
(PARIS MATCH 13/3-19/3/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 75 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (2/5/2008)
10/ MỘT ÍT CÀ PHÊ CHỐNG LẠI BỆNH AZHEIMER
Những nồng độ cao cholestérol và những rối loạn của hàng rào huyết-năo (barrière hémato-encéphalique) có liên quan trong bệnh sinh của bệnh Alzheimer. Bằng cách dùng các con thỏ được nuôi dưỡng theo một chế độ ăn uống giàu cholestérol (2%), K.Chen và các cộng sự viên đă kiểm chứng giả thuyết về một tác dụng bảo vệ của việc uống cà phê kinh niên (3mg mỗi ngày được đưa vào trong nước uống trong 12 tuần). Các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng lượng tương đương với một ly cà phê mỗi ngày bảo vệ barrière hémato-céphalique chống lại những tổn hại gây nên bởi một chế độ ăn uống giàu chất mỡ. Thật vậy caféine dường như phong bế một vài trong những tác dụng làm rối loạn của cholestérol làm dễ vỡ barrière hémato-encéphalique. Các kết quả này xác nhận những dữ kiện trước đây chứng tỏ rằng caféine ngăn ngừa chứng mất trí nhớ trong tuổi già và trong bệnh Alzheimer. Đối với các tác giả caféine là một chất công hiệu và dễ có và khả năng làm ổn định barrière hémato-encéphalique làm cho caféine có một vài tṛ quan trọng trong điều trị các rối loạn thần kinh.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 29/4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 76 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (10/5/2008)
10/ CÀ PHÊ KHÔNG CÓ TÁC DỤNG LÊN NHỊP TIM.
Nhiều bệnh nhân cho rằng cảm thấy hồi hộp khi uống quá nhiều cà phê. Tác dụng của caféine lên tỷ lệ rối loạn nhịp tim đă được thăm ḍ qua một công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh của Đan mạch, được thực hiện bởi Frost và các cộng sự viên trên 48.000 người. Sau khi uống những lượng quan trọng caféine (997 mg caféine mỗi ngày), không có một tác dụng nào đă được quan sát cả. Một công tŕnh nghiên cứu viễn cảnh khác của Hoa Kỳ, được thực hiện bởi Klatsky và các cộng sự viên, đă theo dơi trong 8 năm 129.000 người và đă không thể xác lập được mối liên hệ giữa sự tiêu thụ cà phê và việc xảy ra tử vong do các rối loạn nhịp tim. Cũng vậy không có một tương quan nào thuộc loại này được phát hiện qua các nghiên cứu trong đó caféine được tiêu thụ với các liều lượng lên đến 450 mg mỗi ngày. Cũng có vẻ như là cà phê không ảnh hưởng loại hoặc tần số các rối loạn nhịp tim. Trái lại, việc hạn chế tiêu thụ cà phê không chứng tỏ tác dụng lên tim đập nhanh thất (tachycardie ventriculaire).
Nguồn : LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 77 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (17/5/2008)
6/ CÀ PHÊ KHÔNG ẢNH HƯỞNG LÊN TRÁI TIM BỊ BỆNH
Trong các nước công nghiệp hóa, các bệnh tim mạch là một trong những nguyên nhân chính của tử vong. Các công tŕnh nghiên cứu khác nhau đă được tiến hành để t́m mối liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và sự phát triển của các bệnh tim mạch. Sự liên hệ của cà phê trong việc xuất hiện các bệnh lư này đă không có thể được chứng minh, ngay cả bởi các công tŕnh nghiên cứu quy mô lớn. Ngoài ra, tiên lượng sau nhồi máu cơ tim đă không bị ảnh hưởng bởi việc tiêu thụ cà phê.Về mặt lâu dài, các nghiên cứu viễn cảnh cũng đă không chứng tỏ được sự liên hệ giữa caféine và các bệnh tim mạch. C̣n về vai tṛ bảo vệ của cà phê th́ như thế nào? Năm 2006, một công tŕnh nghiên cứu của Women’s Health Study, được tiến hành trên hơn 41.000 phụ nữ tiêu thụ cà phê, đă kết luận rằng nguy cơ tử vong nơi những người tiêu thụ cà phê là thấp hơn so với những người không tiêu thụ. Hiệu quả có lợi này có thể là do một tác dụng chống oxy hóa của một vài thành phần trong cà phê, làm kềm hăm quá tŕnh viêm và như thế làm giảm các nguy cơ tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu Thụy Điển được thực hiện trên 7.500 đàn ông đă t́m thấy lại những nguy cơ được biết rơ của suy tim : tuổi tác, bệnh sử gia đ́nh nhồi máu cơ tim, bệnh đái đường, các cơn đau ngực, chứng nghiện thuốc lá, lạm dụng rượu, chỉ số khối lượng cơ thể (BMI : body mass index) cao và cao huyết áp. Cà phê được nhận thấy liên kết đồng thời với một nguy cơ thấp bị bệnh đái đường và một nguy cơ thấp tử vong do nguyên nhân tim mạch nơi một người bị bệnh đái đường. Ngoài ra, một công tŕnh được thực hiện năm 2006 đă cho thấy rằng việc cho caféine nơi những bệnh nhân bị suy tim làm gia tăng sự chịu đựng của họ đối với sự gắng sức.
LE MAGAZINE DES GLEMS (4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 78 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (25/5/2008)
5/ CÀ PHÊ KHỔNG LÀM TĂNG CAO HUYẾT ÁP
Về mặt nhất thời, cà phê gây nên một cao huyết áp nhẹ. Tác dụng này thấy rơ ngay sau khi uống cà phê và có thể so sánh với tác dụng của nhiều t́nh huống thông thường của đời sống hàng ngày. Trái lại, các nghiên cứu đă chứng tỏ rằng về lâu về dài, cà phê không ảnh hưởng (hoặc ít) lên huyết áp. Các kết quả của một phân tích méta 16 công tŕnh nghiên cứu so sánh tác dụng của cà phê và tác dụng của caféine, đă chứng tỏ rằng caféine gây nên cao huyết áp động mạch quan trọng hơn cà phê. Từ các công tŕnh nghiên cứu này người ta suy ra rằng tác dụng của caféine rất có thể được bù trừ bởi những thành phần khác của cà phê như potassium, magnésium hay các polyphénols. Những công tŕnh nghiên cứu khác c̣n đưa đến kết luận rằng cà phê không có tác dụng hoặc có tác dụng rất thu hẹp lên huyết áp. Vậy, một sự tiêu thụ b́nh thường cà phê không gây nên vấn đề về huyết áp: không cần thiết phải áp đặt những hạn chế lên bệnh nhân cao huyết áp tiêu thụ cà phê một cách b́nh thường. Mặc dầu vậy vẫn khôn ngoan khuyên những người thái quá nên uống cà phê có chừng mực.
Nguồn : LE MAGZINE DES GLEMS (4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 81 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 13/6/2008 )
2/ CÀ PHÊ, TRÀ VÀ NGUY CƠ BỊ UNG THƯ VÚ
Ganmaa và các cộng sự viên ( Hoa Kỳ) đă thu góp các dữ kiện liên quan đến 86.000 phụ nữ đă tham gia vào công tŕnh nghiên cứu Nurses’ Health Study về sự tiêu thụ cà phê, trà và caféine. Các người tham gia ở trong lứa tuổi 30 đến 55 vào lúc khởi đầu công tŕnh nghiên cứu. Suốt trong 22 năm theo dơi, 5.272 phụ nữ trong số những người tham gia, đă phát triển một ung thư vú. Sau khi điều chỉnh về các yếu tố khác nhau khả dĩ ảnh hưởng lên các kết quả (tuổi tác, chứng nghiện thuốc lá, thể dục, các tiền sử gia đ́nh ung thư vú, t́nh trạng măn kinh, các tiền sử về điều trị bằng hormone, số con có đuợc), các nhà nghiên cứu đă không nhận thấy rằng nguy cơ bị ung thư vú nơi các phụ nữ uống ít nhất 4 tách cà phê hay trà mỗi ngày là cao hơn so với các phụ nữ chỉ uống mỗi tách mỗi ngày.
(LE JOURNAL DU MEDECIN (6/6/2008 )
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 84 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 09/07/2008 )
10/ CAFEINE CHỐNG UNG THƯ DA
Sự tiêu thụ caféine trong một đến hai tuần làm gia tăng hiện tượng chết được chương tŕnh hóa (apoptose hay mort programmée) của các tế bào biểu b́ bị biến đổi do tiếp xúc với các tia tử ngoại B và làm giảm nguy cơ biến đổi thành ung thư của chúng. Những dữ kiện này có được nơi loài gậm nhấm với các liều lượng caféine tương đương 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày. Các dữ kiện này xác minh những quan sát dịch tễ học cho thấy rằng những người uống cà phê hay trà bị ung thư da ít hơn so với phần dân chúng c̣n lại.
(SCIENCES ET AVENIR 7/2008).
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 85 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH( 18/7/2008 )
7/ CAFEINE LÀM DỊU BỚT BỆNH XƠ CỨNG RẢI RÁC
Các nồng độ cao cà phê bảo vệ chuột chống lại bệnh thần kinh thường xảy ra nhất của các người trưởng thành trẻ tuổi. Là chất có hoạt tính dược lư được tiêu thụ nhiều nhất, caféine hiện diện trong nhiều thức ăn như cà phê, trà, soda hay chocolat. Các công tŕnh nghiên cứu về tác dụng của caféine lên sức khỏe không ngừng gia tăng, phát hiện lần lượt những tính chất có lợi và có hại của caféine. Công tŕnh nghiên cứu mới nhất gợi ư rằng caféine với liều lượng cao, bảo vệ chống lại bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques).
Được công bố on line trong Annales de l’académie américaine des sciences, công tŕnh nghiên cứu này đă được thực hiện trên loài chuột.
Các nhà nghiên cứu của Oklahoma Medical Research Foundation, cộng tác với Đại Học Cornell ( Nữu Ước) và Đại Học Turku ( Phần Lan), đă khám phá ra rằng 6 đến 8 tách cà phê mỗi ngày bảo vệ các động vật gặm nhấm này chống lại bệnh viêm năo tủy tự miễn dịch thực nghiệm (encéphalomyélite auto-immune expérimentale). Đây là bệnh xơ cứng rải rác trên động vật dùng làm thí nghiệm. Nhờ đâu caféine có được tính chất này? Caféine ngăn cản adénosine phát khởi một loạt các phản ứng dẫn đến bệnh viêm năo tủy tự miễn dịch thực nghiệm. Adénosine là một trong 4 phần tử cấu tạo ADN. Rất thông thường nơi cơ thể con người, adénosine đặc biệt đóng một vài tṛ chủ yếu trong quá tŕnh sinh hóa của giấc ngủ, của sự thức tỉnh và sự chuyển năng lượng. Trong công tŕnh nghiên cứu này, caféine có tác dụng phong bế sự liên kết giữa adénosine và một trong các thụ thể (récepteur) của nó. Kết quả : vài tế bào lympho T (các bạch cầu đóng một vài tṛ chủ chốt trong đáp ứng miễn dịch) không thể đến được hệ thần kinh trung ương và do đó làm phát khởi những phản ứng dẫn đến một bệnh tương đương với xơ cứng rải rác ở loài chuột.
“ĐÁNG NGẠC NHIÊN VÀ ĐẦY PHẤN KHỞI”
“Đó là một khám phá gây hứng khởi và hoàn toàn đáng ngạc nhiên ”, Linda Thompson, thầy thuốc chuyên khoa ung thư, một trong các tác giả của công tŕnh này đă đánh giá như vậy. Nhưng mặc dầu các kết quả này tỏ ra đầy hứa hẹn, tuy vậy một con chuột không phải là một con người! Những nghiên cứu quan trọng c̣n cần phải được thực hiện để xem caféine có cùng tác dụng lên cơ thể con người hay không. Phải bắt đầu bằng một nghiên cứu nh́n về quá khứ : vạch lại các thói quen của những người tiêu thụ cà phê và tác dụng của caféine trên các triệu chứng của những người bị bệnh xơ cứng rải rác. “Nếu một công tŕnh nghiên cứu như thế phát hiện mộ
( LE SOIR 2/7/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 86 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (24/7/2008)
8/ CÀ PHÊ VÀ CHOLESTEROL
Cà phê bị gán cho một vai tṛ trong việc làm gia tăng nồng độ của cholestérol. Cần phải uyển chuyển hơn điều khẳng định này và xác định rơ rằng điều đó tùy thuộc vào cách pha chế. Hai diterpène hiện diện trong dầu cà phê (huile de café), cafestol và kahweol, có thể là nguyên nhân của sự gia tăng này. Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă cho thấy rằng sự tiêu thụ cafestol hàng ngày làm gia tăng nồng độ cholestérol trong máu, nhưng sự gia tăng này ít hơn trong trường hợp tiêu thụ lâu dài. Do đó những công tŕnh nghiên cứu ngắn hạn có thể dẫn đến việc đánh giá quá cao về tác động của cà phê lên nồng độ của cholestérol. Về kahweol, vai tṛ của nó trong hiện tượng này không được rơ ràng lắm. Sự liên kết của cafestol với kahweol có tác động lên nồng độ cholestérol hơn là kahweol đơn độc .
Một cà phê, trong đó bột cà phê được cho tiếp xúc lâu dài với nước sôi và không được lọc (như trong trường hợp cà phê Thổ hay Hy lạp), chứa những diterpènes này với nồng độ cao, trái với cà phê được lọc hay một “espresso”. Vậy v́ lư do thận trọng, đối với những bệnh nhân bị cao huyết áp và tăng cholestérol-huyết, tốt hơn là nên tránh những cách pha chế đầu và theo cách pha chế sau.
(LE MAGAZINE DES GLEMS 4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 87 - BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THỊNH (1/8/2008)
4/ TÁC DỤNG CỦA CÀ PHÊ LÊN HỆ TIÊU HÓA
Cà phê luôn luôn mang lại hạnh phúc cho những người ham thích thứ nước uống này. Trong quá khứ người ta loại trừ cà phê ra khỏi chế độ ăn uống của bệnh nhân bị bệnh loét dạ dày. Nhưng chúng ta có thể tự hỏi là thật sự có một sự liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và sự làm dịu bớt hay làm nặng thêm những rối loạn dạ dày hay không.
Trong quá khứ, người ta rất thường đưa cà phê vào trong những hạn chế của chế độ ăn uống liên quan với những bệnh của hệ tiêu hóa. Sau đó người ta đă nhận thức rằng tất cả điều đó không có ǵ là đúng cả, dầu cho đó là những rối loạn đường ruột, những rối loạn dạ dày và ngay cả những vấn đề hồi lưu (reflux) và khó tiêu (dyspepsie).
TIÊU CHẢY VÀ ĐẠI TRÀNG DỄ BI KÍCH THÍCH : MỘT SỰ MIỄN TỐ
Các kết quả của một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi Brown và các cộng sự viên trên 99 người, về mối liên hệ giữa việc uống nhiều loại đồ uống khác nhau, nhất là cà phê và số lần đại tiện, đă phát hiện nơi 1/3 những người này, một sự cải thiện chuyển động tiêu hóa của ruột. Nơi những người đáp ứng, một hiệu quả có lợi của cà phê lên tính vận động của ruột già đă có thể được chứng tỏ bằng những đo lường động lực. Rao và các cộng sự viên đă quan sát thấy rằng cà phê không có caféine, cũng như cà phê b́nh thường, kích thích sự vận động của ruột già nhưng hiệu quả của cà phê b́nh thường là rơ ràng hơn hiệu quả của cà phê không có caféine. Công tŕnh nghiên cứu này cũng đă chứng tỏ rằng hiệu quả dương tính của cà phê là 60% quan trọng hơn, so với việc chỉ uống nước mà thôi. Nhiều công tŕnh nghiên cứu khoa học đă thường báo cáo rằng cà phê có một tác dụng kích thích lên hoạt động của ruột già nơi một vài bệnh nhân.Trong số các công tŕnh nghiên cứu này, một sự xem xét lại vấn đề do Dapoigny và các cộng sự viên thực hiện, đă gợi ư rằng cà phê, b́nh thường hay không có caféine, có thể liên kết với những trường hợp ỉa chảy. Do kích thích hoạt động vận động của ruột già và trực tràng. Nhưng trong nhiều công tŕnh nghiên cứu, không một tác dụng nào của cà phê đă có thể được phát hiện lên các biểu hiện của chứng đại tràng co thắt (colon spastique) hay lên trên sự xuất hiện của một bệnh viêm ruột già loét (colite ulcéreuse).
THỦ PHẠM, ĐÓ LÀ HELICOBACTER PYLORI
Các quan niệm liên quan đến sinh lư bệnh lư của các bệnh thực quản và dạ dày đă tiến triển nhiều trong những thập niên vừa qua. Ngày nay, chúng ta biết rằng một nhiễm trùng bởi Helicobacter pylori là nguyên nhân của phần lớn các loét dạ dày và rằng một sự tiếp xúc quá độ với độ chua của dạ dày chịu trách nhiệm loét thực quản và tá tràng. Cà phê có một vai tṛ nào đó trong các rối loạn này hay không ? Một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện bởi Gikas và các cộng sự viên kết luận rằng cà phê dường như không có một tác dụng nào lên Helicobacter pylori. Cũng không có một tương quan nào được xác lập giữa việc tiêu thụ cà phê và sự phát triển một loét dạ dày, một công tŕnh nghiên cứu khác của Đan Mạch đă kết luận như thế. Những nghiên cứu khác đă gợi ư rằng nguy cơ là do những yếu tố khác với chính bản thân cà phê, đặc biệt là sự hiện diện của đường trong cà phê và sự gia tăng thể trọng. Các nhà nghiên cứu đă phát hiện rằng cà phê làm gia tăng tính thẩm thấu của niêm mạc dạ dày và dường như cà phê làm gia tốc sự tống xuất của dạ dày (vidange gastrique), nhưng tác dụng này thay đổi tùy theo người. Về những thương tổn tá tràng, cà phê cũng như các đồ uống có caféine dường như không có vai tṛ trong các bệnh lư này.
ĐAU VÀ VỊ CHUA
Vài người sau khi uống một tách cà phê đă ghi nhận bị ựa chua. Trên lư thuyết, cũng như các đồ uống chua, cà phê với pH thay đổi từ 5 đến 6, dường như đúng là gây nên tác dụng này. Do đó, nhiều công tŕnh nghiên cứu đă được thực hiện để cố gắng phát hiện sự hiện diện của một mối liên kết như vậy. Có lẽ có một mối liên kết nhưng nhiều lư lẽ có khuynh hướng xác nhận rằng caféine không chịu trách nhiệm về hiện tượng này mà chính do những chất khác chứa trong cà phê. Mặt khác một công tŕnh nghiên cứu của Ḥa Lan đă kết luận rằng cà phê không có tác dụng quan trọng lên sự trào ngược (reflux) nơi những người vốn đă bị mắc phải chứng bệnh này và không có tác dụng chút nào lên những người lành mạnh, và rằng tác dụng của cà phê ít quan trọng hơn tác dụng của một bữa ăn lên hiện tượng này. Một công tŕnh nghiên cứu khác, được thực hiện ở Na Uy, đă không chứng tỏ mối liên hệ giữa nguy cơ hồi lưu dạ dày-thực quản (reflux gastro-oesophagien) và việc tiêu thụ cà phê.
Mới đây thôi, một công tŕnh nghiên cứu của Thụy Điển đă cho thấy rằng sau khi điều chỉnh những yếu tố nguy cơ chính gây nên trào ngược dạ dày-thực quản (chỉ số khối lượng cơ thể, chứng nghiện thuốc lá và sự nhàn rổi không hoạt động) th́ sự liên hệ giữa việc tiêu thụ cà phê và những vấn đề hồi lưu biến mất. Công tŕnh nghiên cứu này cũng đă cho thấy rằng những người tiêu thụ nhiều cà phê (hơn 7 tách mỗi ngày) có ít nguy cơ phát triển hồi lưu dạ dày-thực quản hơn những người khác, ngay cả sau khi đă điều chỉnh những yếu tố nguy cơ. Và sau cùng, cà phê thường được quy cho là nguyên nhân của những vấn đề khó tiêu (dyspepsie) nhưng các công tŕnh nghiên cứu đă không thể phát hiện mối liên hệ nhân quả giữa việc tiêu thụ cà phê và sự xuất hiện nhưng rối loạn khó tiêu này.
LE MAGAZINE DES GLEMS (4/2008)
THÔNG TIN Y HỌC VỀ SỬ DỤNG MUỐI ĂN
Lynn Ly tổng hợp thông tin về Sử Dụng Muối Ăn
từ các bài Thời Sự Y Học của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thịnh
MUỐI VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH
Nếu giảm ăn muối làm giảm nguy cơ bị cao huyết áp và cao huyết áp có thể dẫn đến bệnh tim, thế th́ ăn ít muối có cải thiện sức khỏe tim của chúng ta hay không?
Một công tŕnh nghiên cứu được công bố online trong The British Medical Journal, theo dơi 2 nhóm người trong hơn 1 thập niên sau khi những người này được yêu cầu giảm ăn muối trong 48 tháng. Có hơn 3000 người tham dự, từ 30 đến 50 tuổi, và tất cả đều nằm trong t́nh trạng có nguy cơ đặc biệt gây cao huyết áp.
Hai nhà nghiên cứu,được lănh đạo bởi Nancy Cook thuộc Brigham and Women’s Hospital, đă nhận thấy rằng những người đă giảm nhiều lượng muối ăn vào th́ có nguy cơ bị bệnh tim mạch giảm 20%. Nguy cơ tử vong của họ cũng được giảm đến 1/5.
Những nghiên cứu trước đây đă nhận thấy rằng ăn ít muối trong khẩu phần liên kết với huyết áp thấp hơn, nhưng các nhà nghiên cứu đă nới rằng để xác định điều này có ư nghĩa như thế nào đối với bệnh tim là điều khó hơn.
(INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 3/5/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 72 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 11/4/2008 )
6/ MUỐI : KỂ THÙ LỚN CỦA UNG THƯ DẠ DÀY
Ung thư dạ dày : 870.000 trường hợp mới mỗi năm trên thế giới. 7000 trường hợp mới ở Pháp. Ở Pháp, tỷ lệ tử vong của ung thư dạ dày đă được chia 4 từ năm 1950, và tỷ lệ mắc bệnh này cũng thụt lùi rơ rệt. Nhiều thủ phạm đă được nhận diện, như việc tiêu thụ nhiều muối, ăn các thức ăn được hun khói hay ngâm nước muối. Việc giảm rơ rệt tỷ lệ mắc phải ung thư dạ dày, một phần, thường được gán cho sự xuất hiện của tủ lạnh, đă làm cho việc hun khói (fumage) và ướp muối (salage) để bảo quản thức ăn trở thành vô ích. Ở Nhật Bản, nơi cá sống và rau ngâm muối rất được tiêu thụ, nên tỷ lệ ung thư dạ dày vẫn cao. Dẫu sao, mối liên hệ giữa ung thư dạ dày với việc tiêu thụ quá nhiều muối là không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Người ta đă có thể ước tính rằng nguy cơ bị ung thư dạ dày được nhân lên 1,5 đến 6,2 lần đối với những người tiêu thụ quá nhiều muối. Mặc dầu nước muối đă không c̣n được dùng nữa, nhưng đôi khi vẫn khó có thể thoát khỏi NaCl, được chứa trong nhiều thức ăn ( các món ăn được nấu...) Và các thịt rất mặn như thịt lợn nhân gấp đôi nguy cơ bị ung thư dạ dày. Ở Pháp, mặc dầu mức độ trung b́nh tiêu thụ muối đă giảm 5% trong 6 năm, nhưng sự tiêu thụ vẫn c̣n cao : gần 8g mỗi ngày, trong khi lượng muối được khuyến nghị là 5g.
Về mặt pḥng ngừa, người ta biết rằng các trái cây ( tất cả nhưng đặc biệt là cam quưt) và các loại rau (tất cả nhưng tốt hơn là tỏi tây, hành) đều có một tác dụng bảo vệ. Trong những năm qua, vai tṛ của một vi khuẩn, Helicobacter pylori, cũng đă được nhận diện. “ Không có vi khuẩn, không có ung thư ”, Groupe d’études françaises des Helicobacter (GEFH) đă xác nhận như thế, bởi v́ ung thư chỉ phát triển với sự hiện diện của vi khuẩn này. Một trị liệu bằng kháng sinh đơn giản và nhanh chóng trong ṿng 7 ngày cho phép làm biến mất vi khuẩn Helicobacter. GEFH chủ trương thực hiện các sinh thiết một cách có hệ thống trong khi thực hiện nội soi dạ dày và không chỉ, như những khuyến nghị chính thức chủ trương, nơi những người được gọi là có nguy cơ bởi v́ có một tiền sử gia đ́nh.
(SCIENCES ET AVENIR 4/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 170 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH ( 19/4/2010 )
6/ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG : QUÁ NHIỀU MUỐI.
Vào năm 2008, Pierre Meneton, nhà nhiên cứu của Inserm, đánh giá rằng sự tiêu thụ muối ở Pháp (đạt 10 đến 12 g mỗi người và mỗi ngày) là 3 hay 4 lần cao hơn nhu cầu, và chịu trách nhiệm mỗi năm ít nhất 75.000 tai biến tim mạch. Theo ông, sự thặng dư chủ yếu được liên kết với muối được chứa trong các sản phẩm chế biến kỹ nghệ. New England Journal of Medicine vừa công bố những công tŕnh của các nhà dịch tễ học thuộc 3 đại học lớn của Hoa Kỳ (San Francisco, Stanford và Columbia), đưa đến cùng kết luận. Các nhà nghiên cứu đă lấy lại một mô h́nh các tính toán thống kê, cho phép những dự đoán đáng tin cậy trong lănh vực tim mạch. Nơi các người Mỹ, tiêu thụ cùng lượng muối như các người Pháp, một sự giảm bớt 3 g mỗi ngày cho phép mỗi năm làm giảm số các trường hợp mới các bệnh động mạch vành 60.000, các tai biến mạch máu năo 120.000, các nhồi máu cơ tim từ 99.000 đến 54.000. Với mỗi gam muối bớt đi mỗi ngày, lợi ích được chia ba.
(PARIS MATCH 1/4-7/4/2010)
Một cuộc nghiên cứu mới đây tại Hoa Kỳ dùng mô h́nh máy tính để tiên đoán việc giảm bớt 3 gram muối mỗi ngày có thể ảnh hưởng đến tim như thế nào. Kết quả là bệnh tim giảm được 13%.
Giảm bớt muối cũng dẫn đến giảm 8% các chứng tai biến mạch máu năo và giảm bớt 4% con số tử vong. Cuộc nghiên cứu cũng tiên đoán là các trường hợp bị bệnh tim sẽ giảm bớt 11%, và tiết kiệm được 240 tỉ đô la tiền chăm sóc sức khỏe.
Tạp chí The New England Journal of Medicine công bố một phúc tŕnh về cuộc nghiên cứu này. Biên tập viên chính của bản phúc tŕnh là bà Kirsten Bibbins-Domingo thuộc trường đại học California tại San Francisco. Bà Domingo nói không ai nhận ra được sự khác biệt về khẩu vị nếu ăn ít hơn 3 gram muối mỗi ngày.
Mỗi gram muối chứa 400 miligram chất sodium. Chính phủ liên bang Mỹ cho biết là một người Mỹ trung b́nh tiêu thụ mỗi ngày 10 gram muối.
Tuy nhiên Hiệp hội Tim Hoa Kỳ khuyến cáo là một người khỏe mạnh không nên tiêu thụ nhiều hơn 3 gram muối. Hiệp hội này cho biết thêm là muối trong khẩu phần của người Mỹ đă gia tăng 50% kể từ những năm 1970 trong khi huyết áp cao cũng tăng. Tiêu thụ ít muối có nghĩa là giảm được huyết áp.
Thị trưởng New York Michael Bloomberg đang dẫn đầu chương tŕnh giảm muối, được phổ biến trên cả nước Mỹ. Nguyên tắc cơ bản của chương tŕnh này là làm áp lực lên những công ty thực phẩm và những nhà hàng.
Tuy nhiên nhiều người cho rằng chương tŕnh này một sự can thiệp của chính quyền vào đời tư của người dân.
Nhưng Thị trưởng Bloomberg đă thành công trong những lănh vực khác, như yêu cầu các cửa hàng bán thức ăn nhanh trong thành phố của ông phải công khai hóa những thông tin về calori trên các món ăn.
Quote:
Lynn Ly chú Thích (05 March 2010)
Đọc thông tin này ... th́ thấy rơ ràng là các công tŕnh nghiên cứu khoa học nào cũng cần có tiền trợ cấp ... Một khi 1 công tŕnh nghiên cứu khoa học tuyên bố 1 thông tin ǵ có ảnh hưởng đến thu nhập của 1 tài phiệt kinh tế nào đó ... th́ sẽ có liền những công tŕnh nghiên cứu khác được h́nh thành ... để khẳng định lại hoặc phản bác lại ... Đây cũng là 1 điểm tốt ... v́ có nhiều ư kiến khác nhau , nhiều hướng nh́n khác nhau ... và cách thức áp dụng khoa học cho ra kết quả minh chứng khác biệt . Tuy nhiên điều bất di bất dịch là từng cá thể con người phải biết thu gom và áp dụng thông tin dựa vào sự phản hồi của cơ thể cá nhân đó , sự phản hồi của cơ thể là câu trả lời đứng đắn nhất để dựa vào đó quyết định nên làm ra sao, nên tiếp tục hay ngưng lại ... Cho nên số lượng sử dụng muối thế nào là nhiều thế nào là ít, thế nào là tốt / xấu th́ tùy thuộc vào đ̣i hỏi cơ thể của từng cá nhân . Lời phát biểu của bác sĩ David McCarron mà chị Lynn tô đỏ ... ông nói rất hợp ư (chị) Lynn !!!
TIẾP TỤC TRANH CĂI VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA MUỐI ĐỐI VỚI SỨC KHỎE
Theo VoaNews - Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ , Caty Weaver - Washington DC
Thứ Tư, 03 tháng 3 2010
Một số công tŕnh nghiên cứu cho rằng bớt ăn muối có lợi cho sức khỏe . Bác sĩ Michael Alderman nói rằng giảm bớt lượng muối tiêu thụ có thể có hiệu quả tốt, nhưng cũng có thể có hại và chưa có đủ bằng chứng về những lợi hại của nó .
Các nhà khoa học không chắc liệu giảm bớt muối có làm giảm bớt bệnh tim mạch không. Trong một bài trước đây, chúng tôi có tường tŕnh về một cuộc nghiên cứu cho thấy chỉ cần bớt ăn một chút muối mỗi ngày, chúng ta cũng giúp ích rất nhiều cho trái tim. Kết quả nghiên cứu được đăng trên tập san y học New England Journal of Medicine. Các nhà khoa học sử dụng một mô h́nh máy tính để cho thấy chỉ cần bớt ăn 3 gram muối mỗi ngày cũng ảnh hưởng đến các ca mắc bệnh tim tại Hoa Kỳ. Các nhà khoa học nói rằng kết quả sẽ giảm được 13% ca nhồi máu cơ tim, 8% ca tai biến mạch máu năo, 4% số người chết, 11% các ca tim mạch mới. Quy ra tiền, sẽ tiết kiệm được 240 tỉ đôla chăm sóc sức khỏe. Quy ra con số, sẽ ngăn được 100.000 ca nhồi máu cơ tim và 92.000 ca tử vong mỗi năm. Các nhà nghiên cứu này thuộc các trường đại học San Francisco, Stanford, và Columbia. Họ đang chuẩn bị thực hiện một chiến dịch trên toàn nước Mỹ nhằm thuyết phục mọi người sử dụng bớt muối. Ba nước Anh, Nhật và Phần Lan cũng đă mở chiến dịch như vậy.
Tuy nhiên, một số nhà khoa học nói rằng một chiến dịch như vậy là một cuộc thí nghiệm quan trọng, ảnh hưởng đến hàng triệu người, do đó cần phải cẩn thận. Bác sĩ Michael Alderman chuyên viên về cao máu đang dạy tại trường y khoa Albert Einstein ở New York. Ông đồng ư ăn bớt muối sẽ giúp ích cho những người bị cao máu, nhưng ông nói cuộc nghiên cứu chưa cho thấy rơ ràng giảm bớt muối sẽ làm giảm bớt các ca nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu năo. Ông c̣n cho rằng muối có những ảnh hưởng sinh học khác. Giảm bớt lượng muối tiêu thụ có thể có hiệu quả tốt, nhưng nó cũng có thể có hại và chưa có đủ bằng chứng thuyết phục về tất cả những lợi hại của nó.
Một người khác là bác sĩ David McCarron, chuyên khoa về bệnh thận và dinh dưỡng. Ông và nhóm của ông đă khảo sát cách ăn uống của rất nhiều người tại 33 quốc gia và nhận thấy hầu hết những người trên khắp thế giới ăn cùng số lượng muối y như nhau. Hầu hết trong số này lại c̣n ăn nhiều muối hơn là số lượng mà các giới chức y tế của Mỹ khuyến cáo. Bác sĩ McCarron nói sự tương đồng trên khắp thế giới gợi ư cho thấy bộ óc của con người có thể sẽ quyết định số lượng muối nên ăn.
Cả hai bác sĩ McCarron và Alderman đều cộng tác với Viện Muối, một tổ chức của các nhà sản xuất muối Hoa Kỳ. Bác sĩ Alderman làm tư vấn cho viện này nhưng ông nói không lănh lương của viện. C̣n bác sĩ McCarron có nhận thù lao cho những đóng góp các ư kiến khoa học cho viện.
THÔNG TIN Y HỌC VỀ HUYẾT KHỐI
(BLOOD CLOT / THROMBUS)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 19 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/3/2007)
3/ COI CHỪNG CHỨNG HUYẾT KHỐI
Các nhân viên văn pḥng ngồi hàng giờ bất động trong văn pḥng có khuynh hướng bị huyết khối (thrombose : sự tạo thành cục máu đông trong huyết quản) hơn là các hành khách của những chuyến bay đường dài.Đó là kết quả của một nghiên cứu Tân Tây Lan,được tiến hành bởi giáo sư Richard Biesley thuộc Viện Nghiên Cứu Y Học Wellington.Công tŕnh nghiên cứu cho thấy rằng 1/3 các trường hợp bệnh nhân nhập viên vi huyết khối là những nhân viên văn pḥng ngồi hàng giờ trước các computer của họ. 34% trong số 62 người đối tượng của công tŕnh nghiên cứu nằm trong t́nh trạng này trong khi đó 21% các bệnh nhân mới đây đă dùng những chuyến bay đường dài,tờ báo New Zealand Herald xác định như thế.Một vài nhân viên là nạn nhân của chứng huyết khối đă ngồi đến 14 giờ trong một ngày trước các computer của họ.
(METRO 15/3/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 27 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/5/2007)
8/ TÁC DỤNG BẢO VỆ CỦA ASPIRINE.
Dùng aspirine với liều lượng nhỏ cải thiện rất rơ rệt khả năng sống sót sau một nhồi máu cơ tim và một tai biến mạch máu năo. Thật vậy, được cho trong giai đoạn cấp tính của một nhồi máu cơ tim, th́ cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong tháng đầu tiên của trị liệu, aspirine sẽ ngăn ngừa 38 trường hợp tai biến mạch máu và 23 trường hợp tử vong có nguồn gốc huyết quản. Đối với các tai biến mạch máu năo, th́ cứ mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị, aspirine được cho ở giai đoạn cấp tính sẽ ngăn ngừa 9 tai biến mạch máu nghiêm trọng. Do đó, aspirine phải được cho nơi mỗi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu năo là điều rất hợp lư.
Nhưng chỉ định của aspirine không chỉ có thế mà thôi, bởi v́ aspirine cũng có tác dụng pḥng ngừa thứ cấp các huyết khối (thrombose). Được sử dụng cho 1000 bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu năo, aspirine trung b́nh ngăn ngừa từ 15 đến 18 trường hợp huyết khối tái phát mỗi năm. Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao như cơn đau thắt ngực, tiền sử angioplastie, thấm tách máu (hémodialyse), đái đường, hẹp động mạch cổ (sténose carotidienne), aspirine cũng có lợi ích tương tự (ngăn ngừa hơn 10 tai biến cho mỗi 1000 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm).
Sau cùng, aspirine cũng có thể được sử dụng trước khi huyết khối động mạch xảy ra, trên những bệnh nhân không có tiền sử huyết khối (pḥng ngừa nguyên phát).
6 công tŕnh nghiên cứu rộng răi đă đánh giá các lợi ích và các nguy cơ khi điều trị pḥng ngừa bằng aspirine. Tất cả các nghiên cứu này đă chứng tỏ rơ ràng rằng những lợi ích của việc dùng aspirine và sự giảm nguy cơ bị huyết khối càng quan trọng khi bệnh nhân càng kiêm nhiệm nhiều yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, quyết định điều trị nguyên phát bằng aspirine phải dựa trên sự tính toán hơn thua giữa các lợi ích của điều trị và các biến chứng có thể xảy ra do phép điều trị này.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/5/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 29 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (4/6/2007)
2/ LOCKED-IN SYNDROME THƯỜNG ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN QUÁ CHẬM
Hợp chứng cài chốt (syndrome de verrouillage) đă được nổi tiếng qua cuốn «Le Scaphandre et le Papillon», được viết bởi Jean-Dominique Bauby.
Hợp chứng cài chốt là một trạng thái thần kinh rất hiếm xảy ra (ở Pháp có dưới 500 bệnh nhân), được mô tả năm 1966 bởi Giáo Sư fred Plum (Cornell University College of Medicine) và GS Jerome Posner (New York Presbyterian Hospital). Hợp chứng chỉ những bệnh nhân hoàn toàn bị liệt tứ chi, bại liệt mặt hai bên và không thể nói được. Ác mộng y học này đă được Alexandre Dumas nhắc đến năm 1844 trong Bá tước Kích Tôn Sơn với thuật ngữ » một tử thi với đôi mắt sống động » hoặc bởi Emile Zola năm 1868. Những bệnh nhân bị hợp chứng này tỉnh táo, hoàn toàn ư thức về thân thể của ḿnh và môi trường bao quanh.
Bệnh nhân vẫn có ư thức và các trí năng vẫn b́nh thường. Các cử động duy nhất có thể thực hiện là mở và khép mí mắt và những chuyển động thẳng đứng của các nhăn cầu. Không thể nh́n về phía phải hoặc phía trái. Làm sao có thể hiểu được rằng năo bộ vẫn bảo tồn tất cả các chức năng về trí tuệ và nhận thức, rằng vỏ năo vận động hoàn toàn có khả năng gởi mệnh lệnh làm co lại một nhóm cơ nào đó, rằng vỏ năo cảm giác có thể hoàn toàn cảm thấy nóng, lạnh, đau đớn và các cử động và tuy vậy bệnh nhân lại hoàn toàn «bị nhốt sống trong các bức tường» (emmuré).
Chính thân năo (nằm phía sau và phía dưới năo bộ) là cổ eo thắt (goulot d’étranglement) giữa máy tính trung ương năo bộ và tủy sống (từ đây phát xuất rễ, tùng thần kinh và các dây thần kinh ngoại biên).Thế mà chỉ cần một phần của thân năo, ph́nh hoàn trạng (protubérance), bị thương tổn là có thể gây nên Locked-in Syndrome (LIS). Hầu hết các trường hợp (86%) nguyên nhân của thương tổn phát xuất từ huyết quản, hoặc do huyết khối tắc nghẽn động mạch nền (artère basilaire) (động mạch nuôi dưỡng thân năo và tiểu năo), hoặc do xuất huyết thân năo. Đôi khi (6%) một chấn thương gây nên đụng dập ph́nh hoàn trạng. Thương tổn tuy bé xíu nhưng có hậu quả bi thảm này xảy ra trên các đường thần kinh dài (voies longues) (các «xa lộ thần kinh») chạy xuyên qua thân năo. Chính những bó thần kinh này bị làm đứt đoạn.
(LE FIGARO 23/5/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 36 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/7/2007)
2/ NGUY CƠ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU SAU MỘT CHUYẾN ĐI KÉO DÀI
Tổ Chức Y Tế Thế Giới vừa công bố những kết quả của một dự án nghiên cứu về các chuyến đi kéo dài và sự phát sinh các huyết khối (thromboses). Theo những điều đă được chứng thực, nguy cơ mắc phải huyết khối nghẽn tĩnh mạch (thrombo-embolie veineuse) được nhân gấp hai lần, sau một hành tŕnh kéo dài 4 giờ hoặc nhiều hơn. Tuy nhiên dù cho nguy cơ này gia tăng nhưng nguy cơ tuyệt đối của huyết khối nghẽn tĩnh mạch lại vẫn tương đối thấp.
OMS vừa công bố các kết quả ở giai đoạn 1 của dự án nghiên cứu về các mối hiểm nguy của các hành tŕnh kéo dài trên thế giới. Hai biểu hiện thường xảy ra nhất là huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) và nghẽn mạch phối (embolie pulmonaire).
Công tŕnh nghiên cứu chứng tỏ rằng, các hành khách của các máy bay, tàu hỏa, xe bus hoặc xe hơi chịu nguy cơ bị chứng huyết khối nghẽn tĩnh mạch cao hơn khi họ phải ngồi không động đậy trong hơn 4 giờ. Tuy rằng nguy cơ này gia tăng, nhưng nguy cơ tuyệt đối của huyết khối nghẽn tĩnh mạch vẫn tương đối thấp, khoảng 1/6000.
Một nghiên cứu đặc biệt chú ư về các hành tŕnh bằng đường hàng không đă khám phá rằng các hành khách đi nhiều chuyến bay trong thời gian ngắn cũng chịu một nguy cơ gia tăng. Thật vậy, nguy cơ bị huyết khối nghẽn tĩnh mạch, không biến mất hoàn toàn, vào lúc cuối một chuyến bay và sự gia tăng nguy cơ vẫn tồn tại trong khoảng 4 tuần sau đó.
Bảng báo cáo xác nhận rằng một số yếu tố khác làm tăng nguy cơ mắc phải huyết khối tĩnh mạch sâu: chứng béo ph́, tầm vóc trên 1,9 m hoặc dưới 1,6m, dùng thuốc ngừa thai và các rối loạn huyết học di truyền, dẫn đến khuynh hướng làm dễ sự tạo thành huyết khối.
Nghiên cứu không đề cập đến những biện pháp pḥng ngừa có hiệu quả. Tuy nhiên các chuyên gia công nhận rằng, chúng ta có thể cải thiện tuần hoàn máu bằng cách kích động các cơ bắp chân bằng những cử động thẳng đứng của chân ở khớp mắt cá. Các hành khách cũng phải tránh mang những quần áo quá chật trong khi đi du lịch bởi v́ chúng gây nên sự ứ máu tĩnh mạch (stase veineuse).
Giai đoạn 1 của dự án nghiên cứu kết luận về sự cần thiết đối với giới hữu trách vận tải, các hăng hàng không và các giới hữu trách y tế, cho hành khách những thông tin đầy đủ về nguy cơ của bệnh huyết khối nghẽn mạch. Nhưng c̣n sẽ cần đến những công tŕnh nghiên cứu khác, để xác định những biện pháp pḥng ngừa hiệu quả. Những vấn đề này sẽ được đề cập đến trong giai đoạn 2.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 6/7/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 41 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (9/9/2007)
4/ HÚT CỤC MÁU ĐÔNG TĨNH MẠCH TRƯỚC NGHẼN MẠCH PHỔI
Huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) có biến chứng chính là nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire): sự di chuyển của cục máu đông xuyên qua các tĩnh mạch chủ vào tim phải đến tận phổi, gây nghẽn đột ngột một nhánh của động mạch phổi hoặc của chính động mạch phổi. Nghẽn mạch phổi là một bệnh nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong. Để tránh biến chứng này, các kết quả thu được nơi khoảng 30 bệnh nhân với các huyết khối tĩnh mạch sâu của tĩnh mạch bẹn hoặc nách chứng tỏ rằng việc cắt bỏ cục nghẽn mạch bằng đường qua da (thrombectomie percutanée) có hiệu quả bổ sung cho điều trị bằng thuốc chống đông.
Kỹ thuật khai thông mạch máu (désobstruction vasculaire) này chủ yếu tái lập luồng máu nhờ hút cục máu đông tĩnh mạch bằng một ống thông sau khi đă làm tan cục huyết đông bằng cách đè nát. Thủ thuật này có thể kết hợp với tiêm tại chỗ thuốc chống đông. Thời gian thủ thuật từ một giờ đến hai giờ rưỡi. Sau 6 tháng, 90% các tĩnh mạch được mổ trở nên thông thương với sự hồi phục các chức năng van trong 88% trường hợp.
SCIENCES ET AVENIR (9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 42 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (15/9/2007)
1/ HỢP CHỨNG HẠNG KINH TẾ (SYNDROME DE LA CLASSE ECONOMIQUE)
Công tŕnh nghiên cứu Wright đă chứng tỏ rằng những chuyến đi bằng đường hàng không được liên kết với một nguy cơ phát triển huyết khối-nghẽn tĩnh mạch (thrombo-embolie veineuse) nhân lên gấp 2 hoặc gặp 3 lần trong tám tuần sau một chuyến bay kéo dài hơn 4 giờ. Giáo sư Harry Buller của Amsterdam đă lợi dụng hội nghị ở Genève để cất cao tiếng kêu báo động. Ông là một trong những người đồng tác giả của công tŕnh nghiên cứu WRIGHT (WHO Research Into Global Hazards of Travel), do OMS giao phó.
«Trường hợp cô bé gái người Anh chết ít lâu sau một chuyến bay đường dài (un vol long-courrier) từ Úc Đại Lợi vào năm 2000 dần dần đă bị rơi vào quên lăng ». Giáo sư Buller đă phát biểu như vậy ở hội nghị. «Thật là bất hạnh, bởi v́ cái chết của cô ta đă làm sáng tỏ một vấn đề ít được ai chú ư đến quá lâu: đó là nguy cơ mắc phải huyết khối tĩnh mạch lúc đi máy bay ».
NHỮNG YẾU TỐ CÁ NHÂN VÀ MÔI TRƯỜNG
Một yếu tố góp phần vào sự bất động g̣ bó trong các ghế ngồi chật hẹp ở hạng kinh tế của máy bay có thể là môi trường của cabine với áp xuất thấp (hypobare) và t́nh trạng giảm oxy (hypoxique). Mặt khác, các nguy cơ phát triển chứng huyết khối tĩnh mạch quan trọng hơn đối với những người có những bất thường máu với khuynh hướng dễ gây huyết khối (prothrombotique), những người dùng thuốc ngủ hoặc uống rượu trong lúc bay hoặc những người cao lớn hoặc rất bé nhỏ hoặc tăng thể trọng và những phụ nữ đang uống thuốc hormone ngừa thai. Một chuyến bay kéo dài 12 giờ sẽ nhân nguy cơ lên 60 lần so với một chuyến bay dưới 4 giờ. Ghế ngồi gần cửa sổ có nguy cơ gấp đôi so với chỗ ngồi phía hành lang. Và, ở những người có nhiều trong số những nguy cơ này phối hợp lại, có thể có nguy cơ tổng cọng nhân lên 100 lần. Trung b́nh, cứ 4.500 hành khách th́ có một người sẽ phát triển huyết khối tĩnh mạch sau một chuyến bay kéo dài trên 4 giờ và 5-10% các huyết khối này sẽ gây tử vong. Với 2 tỷ người dùng máy bay mỗi năm, mối nguy cơ này cần phải được xem trọng.
PH̉NG NGỪA
Các đôi tất dài đàn hồi (bas élastique) ít có hiệu quả trong tư thế bất động và ngay cả có thể nguy hiểm nếu quá bó chặt. Trong trường hợp này aspirine không thật sự hữu ích và có thể có nguy cơ gây chảy máu. Tiêm chích héparine rất có hiệu quả nhưng với nguy cơ xuất huyết. Xuất huyết ở độ cao 10.000m dễ trở thành tai họa. Các máy đè ép gián đoạn (appareil de compression intermittente) bắt chước tác dụng của cơ ngay cả lúc hành khách đang ngủ, sẽ có nhiều hứa hẹn trong việc pḥng ngừa. Giai đoạn kế tiếp của nghiên cứu là xác định những phương pháp tốt để pḥng ngừa chứng huyết khối tĩnh mạch nơi 2 tỉ người hành khách dùng đường hàng không mỗi năm. Công tŕnh nghiên cứu WRIGHT sẽ nghiên cứu trên những hành khách có nguy cơ ở mức độ cao và trung gian. Một công tŕnh sẽ kéo dài 4 năm với tốn phí 4 triệu Euro.
(LE GENERALISTE 6/9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 43 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/9/2007)
5/ DIESEL VÀ NHỒI MÁU CƠ TIM
Việc tiếp xúc với sự ô nhiễm do giao thông đường xá càng ngày càng bị quy cho là nguyên nhân của nguy cơ tim mạch, nhưng người ta không biết được các cơ chế được vận dụng. Một nhóm nghiên cứu người Anh và Thụy Điển đă thực hiện một nghiên cứu bằng cách cho bệnh nhân đau tim tiếp xúc với hơi bốc của diesel để xác định vai tṛ của ô nhiễm không khí lên chức năng của cơ tim, huyết quản và tan sợi huyết (fibrinolytique).
Nicholas Mills (Anh) và các cộng sự viên đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu. Họ cho 20 người đă bị nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde) tiếp xúc trong thời gian một giờ, hoặc với khí thải (gaz d’échappement) diesel (300 microgramme/m3) hoặc với khí được thanh lọc, trong lúc nghỉ ngơi và trong lúc thể dục có mức độ. Các chức năng tan sợi huyết và vận mạch đă được đo lường 6 giờ sau khi bệnh nhân được cho tiếp xúc
Các kết quả chứng tỏ rằng sự gia tăng nhịp tim đáp ứng với thể dục giống nhau trong hai loại tiếp xúc (khí ô nhiễm và khí được thanh lọc). Nếu trên điện tâm đồ sự hạ xuống của đoạn ST gây nên bởi thể dục đều hiện diện nơi tất cả các bệnh nhân, th́ sự thiếu màu cục bộ cơ tim gia tăng trong trường hợp tiếp xúc với diesel. Trái lại, sự tiếp xúc này không làm trầm trọng sự loạn chức năng vận mạch (dysfonction vasomotrice) đă có trước đây nhưng làm giảm sự phóng thích activateur tissulaire du plasminogène.
Theo các tác giả, sự tiếp xúc ngắn ngủi với khí thải diesel gây nên sự thiếu máu cơ tim và cản khả năng tan sợi huyết nội tại (capacité fibrinolytique endogène) nơi những bệnh nhân bị bệnh tim. Các cơ chế gây thiếu máu và huyết khối được phát hiện có thể giải thích một phần quan sát dịch tễ học, theo đó việc tiếp xúc với các phần tử do sự đốt cháy (particules de combustion) được liên kết với các hậu quả tim mạch khác nhau trong đó có nhồi máu cơ tim.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 21/9/2007)
9/ NHẠC LÀM BỚT TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Sự kích thích thính giác làm gia tăng tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu trong động mạch năo trung (artère cérébrale moyenne). Một nhóm nghiên cứu của bệnh viện đại học Zagreb (Croatie) đă theo dơi những biến đổi này nơi những bệnh nhân là nạn nhân của tai biến mạch máu năo do thiếu máu cấp tính (accident vasculaire cérébral ischémique aigu).
Công tŕnh nghiên cứu bao gồm 113 người (trong đó 52 bệnh nhân không được điều trị bằng cho thuốc tan huyết khối), được nhập viện trong 24 giờ sau tai biến mạch máu năo do thiếu máu cục bộ, và 61 người dùng làm chứng có sức khỏe tốt. Tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu của động mạch năo trung được ghi bởi Doppler transcranien. Nơi những người bị tai biến mạch máu năo, chỉ có động mạch phía bị thương tổn là được thăm khám, trong khi đó nơi những người chứng, cả hai động mach đều được ghi. Sau đó, các tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu đă được theo dơi trong khi bệnh nhân được cho nghe nhạc thư giăn trong 2 phút.
Khởi đầu, các bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo có tốc độ trung b́nh của lưu lượng máu trong động mạch năo trung thấp hơn so với những người chứng. Trong 2 nhóm, người ta ghi nhận tốc độ trung b́nh tăng cao, đáp ứng lúc nghe nhạc. Thời gian cần thiết để có được sự gia tăng này trong nhóm tai biến mạch máu năo cao hơn nhiều so với nhóm kiểm chứng.
Kết luận : Mặc dầu các bệnh nhân (là nạn nhân của một tắc nghẽn của động mạch năo trung) có lưu lượng màu bị giảm trong động mạch bị thương tổn, nhạc vẫn là một kích thích thính giác có hiệu quả.Tuy nhiên, thời gian đáp ứng với âm nhạc của những bệnh nhân này dài hơn so với những bệnh nhân lành mạnh. (GENERALISTE 20/9/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 47 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (18/10/2007)
6/ TOÀ ÁN HOA KỲ TRỪNG PHẠT NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ MĂN KINH BẰNG HORMONE THAY THẾ
Lần đầu tiên hăng dược phẩm Wyeth ở Hoa kỳ đă bị xử phạt phải trả gần 134 triệu dollars cho 3 phụ nữ bị ung thư vú sau một điều trị bằng hormone thay thế.
Năm 2002, công tŕnh nghiên cứu Women Health Initiative (WHI) trên 16.000 phụ nữ đă làm phần nào mất uy tín phép điều trị chứng măn kinh bằng hormone, do việc làm sáng tỏ một nguy cơ gia tăng bị ung thư vú, rối loạn tim mạch và huyết khối tĩnh mạch nơi những phụ nữ được điều trị. Những phân tích tinh tế hơn đă phần nào làm tiến triển điều xác nhận này, nhất là về nguy cơ tim mạch nơi các phụ nữ trẻ nhất.Tuy nhiên sau công tŕnh nghiên cứu này, hàng ngàn phụ nữ bị ung thư vú ở Hoa Kỳ đă đưa đơn kiện hăng dược phẩm Wyeth đă thương măi hóa thuốc hormone chính yếu trong điều trị măn kinh (Prempro và Prémarin).
Lần đầu tiên, ngày 15 tháng 10 vừa qua, một ban bồi thẩm của Nevada đă tuyên phạt nhóm dược phẩm Hoa Kỳ Wyeth phải trả 134 triệu dollars cho 3 phụ nữ đă phát triển một ung thư vú mà họ cho là bị gây nên do các điều trị bằng hormone chống lại các triệu chứng của măn kinh.
Theo các bồi thẩm, nhóm dược phẩm Wyeth đă tỏ ra vừa cẩu thả vừa lừa đảo trong việc sản xuất, marketing và bán thuốc hormone. Mỗi người khiếu nại phải được bồi thường từ 43 đến 47 triệu dollars.Wyeth đă quyết định phá án, tái xác nhận trong một thông cáo rằng những điều trị đang bị kiện tụng, nhưng đă được chấp nhận bởi các nhà hữu trách y tế Hoa Kỳ, là “ đáng tin cậy và hiệu quả khi được sử dụng theo đúng chỉ định.”
VÀI TRƯỜNG HỢP KHIẾU NẠI Ở PHÁP
Tính đến hôm nay, 6 vụ kiện đă được đưa đơn chống lại hăng dược phẩm Wyeth với cùng lư do : trong 3 trường hợp các người kiện đă bị bác đơn, trong hai trường hợp khác thủ tục tố tụng bị hủy bỏ, sau cùng, trong một trường hợp c̣n lại, bệnh nhân được bồi thường 1,5 triệu dollar nhưng hăng dược phẩm đă kháng án. Gần 9000 vụ kiện tương tự đă được đưa đơn trước các toà án Hoa Kỳ chống lại những điều trị bằng hormone thay thế của hăng Wyeth. Hăng này hiện có vị thế nổi bậc nhất trên thị trường thuốc chống măn kinh ở Hoa Kỳ.
Ở Pháp vài đơn kiện đang được thẩm cứu, nhằm chống lại các thầy thuốc chứ không phải các hăng dược phẩm. Công trinh nghiên cứu WHI đă khiến cho các nhà hữu trách y tế các nước phương Tây khuyên các thầy thuốc giới hạn lại thời gian cho toa các thuốc hormone điều trị măn kinh. Mặt khác nhiều phụ nữ đă ngưng sử dụng các thuốc hormone này.
Theo các dữ kiện của CDC, số ung thư vú đă giảm vào năm 2005 ở Hoa Kỳ, đặc biệt là do giảm sử dụng hormone thay thế điều trị măn kinh. Nhưng vài người cũng đưa ra ư kiến là việc giảm bớt chụp h́nh vú để phát hiện ung thư (mammographie de dépistage) có thể là cách giải thích của sự thoái lui này. Cơn sốt tư pháp về điều trị măn kinh bằng hormone vẫn không thuyên giảm ở Hoa Kỳ, là nước mà tỷ lệ phụ nữ măn kinh được điều trị đă đạt đến cao điểm vào đầu những năm 2000. Hàng chục triệu phụ nữ đă theo một điều trị như thế khi phép điều trị này đă bắt đầu phát triển ở Hoa Kỳ trong những năm 1960. (
LE JOURNAL DU MEDECIN (17/10/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 55 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/12/2007)
4/ HUYẾT KHỐI TẮC MẠCH VÀ NGUY CƠ BỊ NHỒI MÁU CƠ TIM VÀ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Một vài công tŕnh nghiên cứu xác lập mối liên hệ giữa huyết khối tĩnh mạch (thromboembolie) và xơ vữa động mạch (athérosclérose) với nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu năo.
Với mong muốn làm sáng tỏ mối liên hệ khả dĩ này, Hendrik Toft Sorensen và nhóm nghiên cứu của ông đă tiến hành một công tŕnh nghiên cứu dựa trên các thông tin thu nhận được từ các ngân hàng dữ kiện y khoa ở Đan Mạch. Sau khi đă loại trừ những người bị bệnh tim mạch được xác nhận, các tác giả đă nghiên cứu nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu năo nơi 25.799 bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde), 16.925 bệnh nhân với nghẽn mạch phổi (emboilie pulmonaire) và 163.566 được người được dùng làm kiểm chứng.
Các bệnh nhân có tiền sử huyết khối tĩnh mạch sâu, trong suốt năm đầu sau biến cố huyết khối, có 1,60 lần có khả năng hơn phát triển một nhồi máu cơ tim và có nguy cơ bị tai biến mạch máu năo 2,19 lần cao hơn. Các con số này lần lượt là 2,60 và 2,93 nơi những bệnh nhân với tiền sử nghẽn mạch phổi. Theo các tác giả ,với các quan sát này dựa trên 20 năm theo dơi, th́ nguy cơ tăng cao này vẫn c̣n tồn tại lâu dài.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 4/12/2007)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 64 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (15/2/2008)
10/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU: PHÉP DỰ PH̉NG KHÔNG ĐƯỢC ĐẤY ĐỦ Ở BỆNH VIỆN
Phần lớn các bệnh nhân được nhập viện có nguy cơ quan trọng bị huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde), nhưng nhiều người trong số các bệnh nhân này không nhận được một dự pḥng đầy đủ. Đó là điều được gợi ư bởi công tŕnh nghiên cứu Endorse, một công tŕnh nghiên cứu nhiều trung tâm. Các tác giả đă phân tích các dữ kiện của 30.827 bệnh nhân được nhập viện trong một khoa ngoại và của 37.356 bệnh nhân nằm viện trong các khoa khác. Các bệnh nhân này xuất phát từ hơn 300 bệnh viện được phân bố trong 32 nước t́nh nguyện, được chọn lọc từ 6 lục địa.Tuy nhiên các bệnh viện phải thỏa măn một vài điều kiện để có thể tham dự vào công tŕnh nghiên cứu. Trên cơ sở những lời khuyến nghị được đưa ra bởi American College of Chest Physicians (2004), các tác giả đă cố gắng t́m biết các bệnh nhân có bị một nguy cơ mắc phải huyết khối tĩnh mạch sâu và họ có được nhận một điều trị dự pḥng thích ứng hay không. Các kết quả cho thấy rằng 51,8% các bệnh nhân nhập viện có một nguy cơ gia tăng bị huyết khối tĩnh mạch sâu (41,5% trong những khoa không phải ngoại khoa, và 64,4% trong các khoa ngoại). Trong số bệnh nhân có nguy cơ được nhập viện trong một khoa không phải ngoại khoa, 39,5% các bệnh nhân nhận một pḥng ngừa tuân theo những lời khuyến nghị. Trong các khoa ngoại, các con số khả quan hơn, v́ lẽ 58,5% các bệnh nhân được nhận điều trị dự pḥng, Alexander Cohen và nhóm nghiên cứu đă giải thích như vậy. Walter Ageno và Francesco Dentali (Y) nhấn mạnh rằng vẫn cần thực hiện một công tŕnh quan trọng để tối ưu hóa sự dự pḥng các trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu ở bệnh viện.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 12/2/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 68 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (14/3/2008)
1/ MĂN KINH: UNG THƯ VÚ VẪN TỒN TẠI SAU KHI DỪNG ĐIỀU TRỊ HORMONE THAY THẾ
Theo một điều tra của Hoa Kỳ, sau khi dừng điều trị bằng hormone thay thế (traitement hormonal substitutif), nguy cơ tim mạch tan biến đi, trong khi nguy cơ ung thư vú vẫn c̣n tồn tại.
Rơ ràng là những vấn đề được đặt ra do việc điều trị chứng măn kinh bằng hormone thay thế đă không hết gây tranh căi : một công tŕnh nghiên cứu mới được công bố hôm qua trong Journal of the American Medical Association (JAMA) tiết lộ rằng nguy cơ bị ung thư vú do điều trị chứng măn kinh bằng hormone thay thế vẫn tồn tại sau khi đă ngừng điều trị.
Vào tháng 7 năm 2002, các thầy thuốc Hoa Kỳ đă công bố các kết quả của một thử nghiệm điều trị có quy mô lớn, được gọi là WHI (Women’s Health Initiative) nhằm đánh giá những lợi ích và các nguy cơ của điều trị bằng hormone thay thế và đă phát hiện một nguy cơ gia tăng bị bệnh tim mạch, huyết khối tắc tĩnh mạch (thromboembolie veineuse), ung thư vú nơi các phụ nữ sử dụng hormone sau thời kỳ măn kinh.
Các kết luận này đă làm giảm đáng kể việc điều trị bằng hormone thay thế khắp nơi trên thế giới và dẫn đến sự giới hạn kê toa nơi các phụ nữ thật sự cần điều trị này (các cơn bừng mặt không chịu đựng được, nguy cơ mắc phải chứng loăng xương tăng cao). Măi đến vào lúc đó và từ những năm 1980, trong các nước công nghiệp hoá, các phụ nữ vào tuổi măn kinh đều được đề nghị điều trị bằng hormone thay thế. Các nhà nghiên cứu của công tŕnh WIH đă tiếp tục theo dơi các phụ nữ của công tŕnh nghiên cứu này để xem sau khi ngưng điều trị bằng hormone thay thế th́ nguy cơ tim mạch hay nguy cơ ung thư vú có trở nên tương đương với nguy cơ của một phụ nữ ở cùng lứa tuổi nhưng không sử dụng hormone thay thế hay không.
Công tŕnh nghiên cứu WHI được khởi động năm 1995 nhằm vào 15.730 phụ nữ măn kinh từ 50 đến 79 tuổi (tuổi trung b́nh 63), được chia thành hai nhóm, một nửa nhóm nhận một điều trị hormone (oestrogènes équins, progestatifs de synthèse), nửa nhóm kia nhận một placebo. Tất cả các phụ nữ t́nh nguyện này đă được theo dơi một cách tích cực sau khi ngừng hormone vào tháng 7 năm 2002, và như thế cho đến tháng 3 năm 2005, với một thăm khám sức khỏe và chụp tuyến vú (mammographie) hàng năm.
Các kết quả theo dơi này đă phát hiện nhiều thông tin quan trọng. Một mặt, các phụ nữ đă được điều trị bằng hormone thay thế và rồi sau đó ngừng không sử dụng nữa, đă không có các nguy cơ bị nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu năo hay huyết khối tắc tĩnh mạch sâu (thromboembolie veineuse), hơn các phụ nữ khác. Các nguy cơ này biến mất nhanh chóng sau khi ngừng điều trị hormones.
LIỀU LƯỢNG CÀNG NHỎ CÀNG TỐT
Ngược lại, nguy cơ bị ung thư vú sau khi ngừng điều trị, vẫn ở cùng mức độ với lúc dùng thuốc hormone, ít nhất vẫn tồn tại trong hai hoặc ba năm sau khi ngừng điều trị. Như thế có 27% trường hợp ung thư vú được thêm vào đối với các phụ nữ đă được điều trị bằng hormone so với các phụ nữ khác. Những điều tra khác về chủ đề này, mặc dầu với quy mô nhỏ hơn, cho thấy một kết quả đảo ngược, đó là sự trở lại b́nh thường đối với ung thư vú sau khi ngừng điều trị bằng hormone thay thế. Mặt khác, trong suốt những năm theo dơi này, đă có tất cả 63 trường hợp ung thư đủ loại được thêm vào nơi các phụ nữ được điều trị bằng hormone so với các phụ nữ khác. Đối với các tác giả của công tŕnh này, một kết luận đầu tiên cần phải được rút ra : phải khẩn thiết tiếp tục theo dơi bằng chụp tuyến vú đều đặn nơi các phụ nữ đă được điều trị trong nhiều năm với hormone thay thế, ngay cả sau khi đă ngừng điều trị.
Một phân tích mới đây đă phát hiện lần đầu tiên một sự giảm số các trường hợp mới ung thư vú ở Pháp trong năm 2005. Sự thoái bộ các trường hợp ung thư vú cũng đă được quan sát ở Hoa Kỳ, ở Canada và ở Đức. Có lẽ với thời gian, nguy cơ mắc phải ung thư vú đối với các phụ nữ trước đây đă được điều trị hormone, sẽ trở lại ngang bằng với nguy cơ của các phụ nữ đă không được điều trị.
Nguy cơ ung thư vú phải chăng tùy thuộc loại hormone đă được sử dụng ? Một vài thầy thuốc người Pháp nêu rơ rằng oestradiol được dùng bằng đường qua da (voie parcutanée), liên kết với progestérone thiên nhiên, không làm gia tăng nguy cơ bị ung thư vú. Mặc dầu thông điệp này rất gây sự chú ư của các phụ nữ, nhưng giả định này chưa hề là đối tượng của một chứng minh khoa học nào.
Hiện nay, giới hữu trách y tế ở Pháp, nhưng cũng ở nước ngoài, khuyến nghị rằng điều trị bằng hormone thay thế nên được cho với liều lượng càng nhỏ càng tốt trong một thời gian càng ngắn càng hay, với thời gian điều trị đừng quá 5 năm.
(LE FIGARO 6/3/2008)
2/ UNG THƯ VÚ VÀ THỂ DỤC
Một công tŕnh nghiên cứu của Ba Lan đă so sánh 2.176 phụ nữ bị ung thư vú với 2.326 những phụ nữ khác, dùng làm chứng và không bị ung thư này. Người ta đă ghi nhận một mối tương quan rất rơ rệt giữa hoạt động vậy lư và việc giảm nguy cơ xảy ra ung thư vú. Hiệu quả có lợi xuất hiện nhất là nếu tập thể dục đều đặn, được thực hiện trong những giờ rảnh và tương đối cật lực, và không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nguy cơ được biết khác như măn kinh, tuổi tác hay chứng béo ph́. Tỷ lệ giảm nguy cơ khoảng 30 đến 40%.
(PARIS MATCH 6/3-12/3/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 71 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (4/4/2008)
1/ LÀM GIẢM TÀN TẬT DO MỘT CƠN ĐỘT QỤY
Sự nhanh chóng xử lư điều trị tai biến mạch máu năo ở mỗi giai đoạn có thể làm giảm tỷ lệ tử vong và nguy cơ bị tàn tật. CHU Dijon vừa chứng minh điều đó.
Trong ṿng 2 năm, Trung tâm bệnh viện đại học này đă có khả năng làm giảm tỷ lệ tử vong và số những người bị tàn tật sau một tai biến mạch máu năo, bằng cách xử lư từng giai đoạn, từ khâu bác sĩ gia đ́nh đến khâu nhân viên khiêng cáng, nhằm cải thiện sự nhanh chóng trong điều trị. Kinh nghiệm này là một đối tượng của một bài báo khoa học, được công bố trong tạp chí Hoa Kỳ Stroke.
Mỗi năm, ở Pháp có 150.000 người bị tai biến mạch máu năo, với các yếu tố làm dễ như tuổi tác, bệnh cao huyết áp, chứng nghiện thuốc lá, tăng cholestérol huyết và bệnh đái đường. Tai biến mạch máu năo là nguyên nhân đứng đầu gây tàn tật mắc phải. Trong 80% các trường hợp, tai biến mạch máu năo là do một động mạch của năo bộ bị bít tắc bởi một huyết khối (thrombose) (một cục máu đông). Vào cuối những năm 1990, một thuốc làm tan sợi huyết (médicament fibrinolytique) đă được hiệu chính.Thuốc này, lúc cho bằng đường tĩnh mạch, có thể góp phần làm tan cục máu đông.
CUỘC CHẠY ĐUA VỚI THỜI GIAN
Những thử nghiệm lâm sàng đă phát hiện tính hiệu quả không thể tranh căi được trong sự giảm tỷ lệ tử vong và mức độ tàn tật, với điều kiện là thuốc làm tan sợi huyết được cho dưới 3 giờ sau khi xuất hiện các triệu chứng đầu tiên. Bệnh nhân phải dưới 80 tuổi, không ở trong t́nh trạng hôn mê và dĩ nhiên sự thiếu máu cục bộ năo (ischémie cérébrale) phải được xác nhận bằng chụp X quang. Số bệnh nhân được hưởng một phép điều trị tiên tiến như thế vẫn c̣n ít ở Pháp, v́ lẽ thời hạn thuốc có thể được cho là quá ngắn.
Tháng giêng 2006, giáo sư Maurice Giroud, trưởng khoa bệnh lư mạch máu-thần kinh, đi từ điều chứng thực rằng số những trường hợp dùng liệu pháp làm tan sợi huyết (fibrinolyse) để điều trị tai biến mạch máu năo là quá thấp, do sự chậm trễ trong xử trí điều trị, nên đă tổ chức một khóa đào tạo trong 3 tháng nhằm vào các đối tượng là các người chủ chốt có liên quan, như các bác sĩ gia đ́nh, các nhân viên điều phối của Samu, các nhân viên khiêng cáng, các y tá làm việc ở pḥng cấp cứu, các nhân viên pḥng xét nghiệm, các thầy thuốc quang tuyến…Mục tiêu là, ngay sau khi nhận cú điện thoại của một người bị một tai biến mạch máu năo đột ngột, các khâu vận chuyển, chẩn đoán và điều trị phải được thiết lập không được làm mất một giây phút nào.
“Thí dụ chúng tôi phải hiểu các danh từ được sử dụng bởi các bệnh nhân hay các người thân của họ để mô tả bệnh tai biến mạch máu năo (ông ta không có thể nói nữa, ông ta bại liệt, ông ta kêu van đau đầu) để cho nhân viên y tá pḥng cấp cứu đôi khi tiếp nhận trực tiếp bệnh nhân mà không phải qua khâu vận chuyển y tế, hoặc có khả năng nghi ngờ một tai biến mạch máu năo và hành động nhanh chóng, giáo sư Maurice Giroud đă giải thích như vậy. Chúng tôi đă gặp gỡ các nhân viên khiêng cáng, một trong những mắc xích có thể làm chậm trễ trong việc mang các bệnh nhân đến những đơn vị điều trị mạch máu• thần kinh (unités de soins neuro-vasculaires), để giải thích cho họ tầm quan trọng của một thái độ xử trí điều trị nhanh chóng”.
Cuối năm 2007, sự đánh giá một hành động xử trí như thế đă được thực hiện và cho thấy rằng các thời hạn can thiệp cho một bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo đă giảm đi đáng kể. Tỷ lệ chụp scanner được thực hiện trong 3 giờ đầu sau những triệu chứng đầu tiên đă gia tăng từ 46% lên 83%, thời hạn từ khi bệnh nhân đến pḥng cấp cứu đến khi được chụp X quang đă giảm từ 87 phút xuống c̣n 37 phút, thời hạn từ khi bệnh nhân đến cho đến lúc có được kết quả xét nghiệm đă giảm từ 70 phút xuống c̣n 32 phút. Số bệnh nhân được nhận liệu pháp tan sợi huyết (fibrinolyse) tăng lên gấp 3. Tỷ lệ tử vong ở bệnh viện đă giảm từ 12% năm 2006 xuống c̣n 9% năm 2007 và nhất là tỷ lệ bệnh nhân bị tàn tật sau một tai biến mạch máu năo đă giảm từ 60% năm 2006 xuống c̣n 40% năm 2007. “Hai yếu tố quan trọng trong trường hợp tai biến mạch máu năo là sự can thiệp nhanh chóng và sự nhập viện trong một đơn vị mạch máu-thần kinh cho phép làm giảm tỷ lệ tử vong và nguy cơ bị tàn tật”, giáo sư Giroud đă nói thêm như thế.
Vào tháng 3 năm 2007, một bản thông tri buộc tất cả các trung tâm bệnh viện, thành lập một đơn vị điều trị mạch máu-thần kinh (unité de soins neurovasculaires). Từ nay, tất cả các Trung tâm bệnh viện đại học (CHU) đều có những đơn vị này, nhưng c̣n cần phải thực hiện nhiều điều để cho tất cả các bệnh viện toàn khoa cũng sẽ có những đơn vị điều trị như thế bởi v́ các bệnh viện toàn khoa là nơi tiếp nhận bộ phận quan trọng nhất các bệnh nhân bị tai biến mạch máu năo. Thí dụ của Dijon chứng tỏ rằng chỉ cần một ít thiện chí, chúng ta có thể thắng được cuộc chạy đua với thời gian đôi khi được diễn ra trong trường hợp tai biến mạch máu năo.
LE FIGARO 26/3/2008
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 77 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (17/5/2008)
2/ BỆNH NHỒI MÁU CƠ TIM : CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ ÍT TỐT HƠN Ở CÁC PHỤ NỮ
Nhồi máu cơ tim (infarctus du myocarde) ở phụ nữ được thể hiện bởi các triệu chứng khác với đàn ông. Ở phụ nữ, căn bệnh này được chẩn đoán và điều trị ít tốt hơn. Bệnh nhồi máu cơ tim từ lâu đă được xem là một bệnh của đàn ông, một tai họa của nam giới. C̣n các phụ nữ th́ được cho là được bảo vệ nhờ các hormone nữ. Thực tế mà các thầy thuốc đang nghiên cứu lại rơ ràng khác hẳn. Một công tŕnh nghiên cứu trên 25.000 người đă bị nhồi máu cơ tim trong 14 nước, được công bố tuần này trên site Internet của tạp chí Heart, tiết lộ rằng các triệu chứng của nhồi máu cơ tim ở phụ nữ và đàn ông không tương tự nhau.
V́ các thầy thuốc đă học chẩn đoán bệnh nhồi máu cơ tim qua các cơn đau điển h́nh xảy ra ở nam giới, do đó họ dễ không nhận biết hơn triệu chứng đau của chứng bệnh tim này khi xảy ra ở phụ nữ. Trước tuổi 65, bệnh nhồi máu cơ tim xảy ra ở đàn ông 4 lần nhiều hơn so với phụ nữ. Sau tuổi 65, t́nh h́nh đảo ngược lại cho đến khi số trường hợp trở nên quan trọng hơn nơi các phụ nữ, điều này là do tuổi thọ gia tăng ở các phụ nữ. Một công tŕnh nghiên cứu khác cùng chủ đề, được thực hiện ở Pháp với 75.000 trường hợp nhồi máu cơ tim, đă phát hiện năm qua rằng ở phụ nữ việc điều trị ít tích cực hơn và tỷ lệ tử vong cao hơn.
Nhồi máu cơ tim điển h́nh được đặc trưng bởi một cơn đau ngực sau xương ức khá đột ngột, thường xảy ra lúc gắng sức, tính chất như bị đè ép bởi một mỏ cặp (étau), lan tỏa về phía tay trái và hàm dưới, kèm theo cảm giác khó chịu, toát mồ hôi, lo âu. Các triệu chứng này có thể dữ dội ít hoặc nhiều hoặc trái lại không điển h́nh. Nhưng các triệu chứng này luôn luôn thể hiện huyết khối (thrombose) của một động mạch vành phân bố mạch cơ tim. Mục đích của điều trị cấp cứu là lấy đi vật chướng ngại nơi động mạch bị bít tắc, hoặc bằng liệu pháp tan huyết khối (thrombolyse) (tiêm cấp cứu bằng đường tĩnh mạch một loại thuốc có khả năng làm tan cục máu đông) hoặc bằng cách làm giăn cấp cứu động mạch với sự thiết đặt một stent (một thiết bị y khoa nhỏ h́nh ḷ xo) để giữ cho ḷng của động mạch được mở ra. Điều trị nhằm giới hạn sự thoái hóa của một phần cơ tim và các di chứng.
Công tŕnh nghiên cứu được công bố trên site của tạp chí Heart, đă khảo sát trên hơn 25.000 trường hợp nhồi máu cơ tim (19.117 đàn ông và 7.638 phụ nữ) lấy từ 14 nước từ năm 1999 đến 2006. Đối với mỗi trường hợp, người ta kiểm kê các triệu chứng, các kết quả của các thăm khám phụ, đặc biệt là tất cả bệnh nhân đều được chụp mạch (angiographie) cho phép thấy được các động mạch bị bít tắc và các điều trị đă được thực hiện.
MỘT TỶ LỆ TÁI PHÁT CAO HƠN
Công tŕnh nghiên cứu so sánh này đă phát hiện nhiều thông tin quan trọng. Một mặt, các triệu chứng xảy ra nơi các phụ nữ khi họ đến bệnh viện là khác với các triệu chứng của đàn ông ; ở phụ nữ, cơn đau ngực hoàn toàn điển h́nh thường ít thấy hơn, nhưng ngược lại các triệu chứng như nôn và đau trong hàm dưới thường xảy ra hơn. Ngoài ra, về mặt điều trị, ở nữ giới, ngay với sự bít tắc động mạch vành ở mức độ như nhau, lại thường ít được làm angioplastie hơn lúc đến bệnh viện. Hơn nữa, các phụ nữ so với nam giới thường ít được kê toa hơn các thuốc bêtabloquant, các statines hoặc những inhibiteurs de l’enzyme de conversion, các thuốc nhằm tránh tái phát. Sau hết, tỷ lệ tử vong, tái phát hay tai biến mạch máu năo sáu tháng sau nhồi máu cơ tim, hơi cao hơn đối với các phụ nữ.
Công tŕnh nghiên cứu quốc tế này xác nhận một phân tích rộng răi được thực hiện ở Pháp năm vừa qua và được công bố vào tháng hai 2007 trong tạp chí Circulation. Công tŕnh này nhằm vào 70.000 nhập viện v́ nhồi máu cơ tim ở Pháp. Sự so sánh giữa đàn ông và phụ nữ ở Pháp đă cho thấy rằng tỷ lệ tử vong là cao hơn đối với phụ nữ và tỷ lệ phụ nữ được làm angioplastie là 10% thấp hơn so với nam giới. Và điều này, ngay cả ở cùng lứa tuổi như nhau. “Bệnh khác nhau nơi phụ nữ và đàn ông, với các cơn đau ít điển h́nh hơn, thường liên kết với khó thở, G.S Gabriel Steg, đồng tác giả của công tŕnh nghiên cứu (bệnh viện Bichat, Paris), đă giải thích như vậy. Tất cả các công tŕnh này chứng tỏ rằng ở cùng lứa tuổi, các phụ nữ kém được điều trị hơn khi họ bị một nhồi máu cơ tim và rằng từ nay chúng ta phải cảnh giác hơn”. Nguồn : LE FIGARO (10/5/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 80 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/6/2008)
3/ SỰ Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ LIÊN KẾT VỚI HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH
Tiếp xúc với sự ô nhiễm không khí làm gia tăng nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu (deep vein thrombosis), các cục máu đông thường xảy ra ở các tĩnh mạch cẳng chân. Và sự ô nhiễm không khí càng tệ hại th́ nguy cơ càng cao.
Các nhà nghiên cứu đă khảo sát 871 bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch sâu ở vùng Lombardy, Ư, so sánh họ với 1.200 người lành mạnh. Họ đă trắc nghiệm các mức độ ô nhiễm bởi các hạt nhỏ (particules fines) trong những vùng nơi bệnh nhân sinh sống, dùng các thiết bị theo dơi nơi 53 điểm trong thời gian 1 năm. Công tŕnh nghiên cứu được công bố ngày 12 tháng năm trong the Archive of Internal Medicine. Các nhà nghiên cứu đă nhận thấy rằng đối với một gia tăng 10 microgram các hạt nhỏ trên mỗi mét khối, nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu được gia tăng 70%. “Sống nơi những vùng bị ô nhiễm cao, đó là một nguy cơ”, Andrea Baccarelli, tác giả lănh đạo và phó giáo sư ở Đại Học Milan đă phát biểu như vậy.
INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE (29/5/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 83 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (27/6/2008 )
8/ ĐÀN ÔNG VÀ PHỤ NỮ KHÔNG B̀NH ĐẲNG TRƯỚC CÁC TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Trong các nước công nghiệp hoá, mỗi năm, 0,2 % dân chúng sẽ có một tai biến mạch máu năo lần đầu tiên, và chỉ 6% sẽ hồi phục lại hoàn toàn.Trong khi đàn ông và phụ nữ không b́nh đẳng với nhau trước nguy cơ bị tai biến mạch máu năo, th́ những khác nhau về giống tính cũng được thể hiện trong quá tŕnh hồi phục. Các phụ nữ không sống sót tai biến mạch máu năo tốt như đàn ông, c̣n đàn ông th́ trả giá đắt cho các lối sống ít lành mạnh của ḿnh (hút thuốc lá, rượu...) và việc thiếu thông tin về các nguy cơ mà họ gặp phải. Đó là điều được giải thích bởi các nhà nghiên cứu Tây Ban Nha ở hội nghị mới đây của Hiệp hội thần kinh học châu Âu, được tổ chức ở Nice.
Thật vậy, Giáo sư Patricia Martinez-Sanchez và các đồng nghiệp đă xác định rơ rằng không chỉ có các yếu tố nguy cơ đă được biết đến, như cao huyết áp, bệnh đái đường, chứng nghiện thuốc lá, rung nhĩ hay các nồng độ bất b́nh thường của lipide trong máu, không giống nhau giữa hai giới tính, mà chính cả giới tính cũng có một ảnh hưởng đáng kể lên nguy cơ bị tai biến mạch máu năo và những khả năng hồi phục.
Một công tŕnh nghiên cứu được thực hiện trên 325 bệnh nhân đă bị một tai biến thiếu máu cục bộ năo (accident ischémique) đă cho thấy rằng điều trị bằng thuốc làm tan huyết khối (traitement thrombolytique) giúp phụ nữ ít hơn nhiều so với đàn ông : 3 tháng sau, chỉ 30% đàn ông c̣n bị các biến đổi nghiêm trọng so với, 40% nơi phụ nữ.
Trong một công tŕnh nghiên cứu khác, được thực hiện trên 1673 bệnh nhân bị một tai biến thiếu máu cục bộ năo cấp tính, các nhà nghiên cứu đă ngạc nhiên thấy rằng một vài trong những yếu tố nguy cơ có thể tránh được đă thường được phát hiện sau đó và điều này ở đàn ông nhiều hơn so với phụ nữ : chỉ 4,5% các phụ nữ đă hay biết sau khi bị tai biến mạch máu năo rằng họ bị cao huyết áp, so với gấp đôi ở đàn ông (9%), và 1,5% các phụ nữ vào lúc đó đă khám phá ra rằng họ bị một bệnh đái đường, so với 4,4% ở đàn ông.
LE JOURNAL DU MEDECIN (24/6/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 86 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/7/2008)
2/ CAO HUYẾT ÁP : YẾU TỐ NGUY CƠ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI MỌI LOẠI TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO
Cao huyết áp có làm gia tăng một cách đồng nhất nguy cơ tai biến mạch máu năo hay trái lại chỉ ưu tiên đối với vài loại ? Một công tŕnh nghiên cứu của Nhật Bản đă cho câu trả lời.
Lần này đó là một công tŕnh nghiên cứu quan sát, đă theo dơi, suốt trong 32 năm, diễn biến của 1.624 người già 40 tuổi hoặc hơn, không có tiền sử cá nhân và gia đ́nh về tai biến mạch máu năo. Các kết quả cho thấy rằng, đối với tai biến mạch máu năo, tỷ lệ mắc bệnh gia tăng một cách đáng kể (nguy cơ xuất hiện được nhân lên 3,7 lần) ngay ở giai đoạn 1 của xếp loại cao huyết áp của các hiệp hội tim và cao huyết áp châu Âu (140-159/95-99 mmHg), so với một huyết áp b́nh thường (< 120/80 mmHg). Huyết áp càng gia tăng, th́ nguy cơ mắc bệnh càng được nhân lên. Dữ kiện khác quan trọng của công tŕnh nghiên cứu này : sự gia tăng dần dần của huyết áp kèm theo một sự gia tăng cũng dần dần của tỷ lệ mắc phải các tai biến mạch máu năo, loại tai biến thiếu máu cục bộ tạm thời (accident ischémique transitoire : AIT), tai biến mạch máu năo (AVC) và xuất huyết năo. Trái lại, sự gia tăng nguy cơ tai biến mạch máu năo có nguồn gốc huyết khối nghẽn mạch (thromboembolique) và các xuất huyết dưới màng nhện (hémorragie sous-arachnoidienne) chỉ trở nên đáng kể bắt đầu từ giai đoạn 3 của xếp loại cao huyết áp (nghĩa là > 180/110 mmHg).
(LE GENERALISTE 10/7/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 88 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (9/8/2008)
10/ KHÔNG KHÍ BỊ Ô NHIỄM CÓ KHẢ NĂNG GÂY VIÊM TĨNH MẠCH
Một sự tiếp xúc lâu dài với không khí bị ô nhiễm làm gia tăng những nguy cơ phát triển một huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde), nghĩa là viêm tĩnh mạch (phlébite) (sự tạo thành một cục máu đông trong các tĩnh mạch của chi dưới có thể gây nên nghẽn mạch phổi). Nhóm nghiên cứu của Havard School of Public Health (Boson) đă căn cứ trên 870 các trường hợp được chẩn đoán từ năm 1995 đến 2005 ở Lombardie, Ư, cũng như trên một nhóm chứng 1.200 người. Mỗi người tham gia được gán vào một vùng mà mức độ ô nhiễm trung b́nh đă được tính toán và theo dơi trong suốt quá tŕnh nghiên cứu. Như thế, phân tích thống kê đă có thể chứng tỏ rằng đối với một gia tăng 10 microgramme/m2 các phần tử PM10 (dưới 10 phần triệu mét) trong không khí trong năm trước khi chẩn đoán, nguy cơ bị huyết khối (thrombose) gia tăng trung b́nh 70%.
SCIENCE ET VIE (7/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 100 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/11/2008)
6/ NHỮNG THUỐC KHÁNG ĐÔNG CÓ HIỆU QUẢ HƠN
Các cục máu đông tĩnh mạch là mục tiêu của những thuốc kháng đông thế hệ mới. Cuộc cách mạng đang diễn tiến. Huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse) không được chú ư đến bởi v́ đó là một bệnh “có tiếng động thấp” (une maladie à bas bruit).
Các triệu chứng của nó không dễ giải thích và những nguyên nhân cũng không rơ ràng như huyết khối động mạch (thrombose artérielle), được biết đến nhiều hơn bởi v́ những yếu tố nguy cơ của nó là rơ ràng (cao huyết áp, đái đường, cholestérol, thuốc lá).
Huyết khối tĩnh mạch thường được liên kết với những chuyến bay dài hay với sự nhập viện. “Những nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) rộng hơn. Có những bệnh nhân được phẫu thuật, nhất là những bệnh nhân chịu một cuộc giải phẫu chỉnh h́nh như đặt khớp giả đầu gối hay háng, nhưng cũng ở những bệnh nhân được nhập viện v́ một viêm phổi, một ung thư hay một suy tim ”, giáo sư Cedric Herman, trưởng khoa huyết học của UCL (Bruxelles) đă giải thích như vậy. “Nhưng những phụ nữ ngừa thai bằng hormone thay thế (contraception oestroprogestative), các phụ nữ có thai và những bệnh nhân có những bất thường về đông máu cũng có nguy cơ” .
Loại huyết khối này khởi phát bởi v́ những thương tổn mạch máu của các thành tĩnh mạch mong manh hay những biến đổi của thành phần máu làm gia tăng tính đông máu của nó và đưa đến một cục máu đông. Cục máu đông này, khi tách rời ra và đi ngược lên phổi, có thể gây nên nghẽn mạch phổi (embolie pulmoniare), có khả năng gây chết người.
“Một nửa các bệnh nhân được đặt khớp háng giả phát triển một huyết khối tĩnh mạch (thrombose veineuse), thường nhất là không có triệu chứng, nhưng cũng có thể diễn biến thành tệ hại nhất, Cédric Hermans đă giải thích như vậy. Một nửa triệu người châu Âu mỗi năm chết v́ biến chứng của huyết khối tĩnh mạch. Tỷ lệ tử vong của bệnh này là 10 lần cao hơn những tai nạn đường xá và ở bệnh viện cứ 10 tử vong th́ một có liên quan với huyết khối tĩnh mạch. Những biện pháp thông thường để ngăn ngừa là mang bas de contention hay sử dụng các thuốc, phổ biến nhất là héparine. Nhưng héparine có những nhược điểm: một tính hiệu quả không được đầy đủ, những nguy cơ bị dị ứng, sự bất dung nạp thuốc, cần phải tiêm dưới da mỗi ngày, khả năng bị những biến chứng xuất huyết.
Chính v́ vậy mà nghiên cứu đă t́m kiếm một loại thuốc khác. “Đó là tấn công vào chính cơ chế của sự đông máu và nhất là của tác dụng của thrombine bảo đảm sự biến hóa các sợi fibrine. Những chất cản của yếu tố Xa trong quá tŕnh đông máu dường như đặc biệt đầy hứa hẹn. Khoảng 6 loại thuốc hiện đang được trắc nghiệm lâm sàng , nhưng đứng đầu phải là rivaroxaban, vừa được chấp thuận bởi ủy ban châu Âu các dược phẩm để dùng cho người. Thuốc này h́nh như hiệu quả hơn và không cho những tác dụng phụ.
(LE SOIR 6/9-7/9/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 106 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (19/12/2008)
6/ TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO : SỰ KHÔNG HAY BIẾT CÓ THẾ NGUY HẠI.
Neurologie. Một điều trị cấp cứu làm giảm nguy cơ tàn phế trong trường hợp tai biến mạch máu năo. Một điều tra cho thấy rằng sự không hay biết các triệu chứng làm chậm trễ sự điều trị. Tai biến mạch máu năo mỗi năm xảy ra nơi 150.000 người ở Pháp. Đó là nguyên nhân chính gây tàn phế nơi người trưởng thành. Một loại thuốc được tiêm vào trong 3 giờ đầu sau các triệu chứng đầu tiên, làm giảm 40% nguy cơ bị các di chứng sau một tai biến mạch máu năo. Thế mà, một điều tra của Mỹ được công bố tuấn vừa qua trong tạp chí Emergency Medicine Journal tiết lộ rằng hơn một nửa các bệnh nhân bị đột qụy đă không hay biết các triệu chứng, đă không hiểu điều ǵ đă xảy ra đối với họ. Và người ta thích chờ đợi cho điều đó qua đi hơn là gọi cấp cứu.
Chính phủ Anh sẽ phát động một chiến dịch thông tin đại chúng nhằm dạy cho dân chúng nhận diện các dấu hiệu đầu tiên của một tai biến mạch máu năo. Ở Pháp, các chuyên gia cũng lo sợ về sự chậm trễ trong việc điều trị. Họ cũng đánh giá rằng những chiến dịch như thế là cần thiết. Trong 80% các trường hợp, tai biến mạch máu năo là hậu quả của sự bít tắc của một động mạch của năo bộ bởi một huyết khối (thrombose, một cục máu đông), trong 20% các trường hợp là hậu quả của sự xuất huyết của một động mạch.
Công cuộc điều tra của Hoa Kỳ dựa trên sự hỏi bệnh 400 người được nhập viện ở Mayo Clinic, Rochester v́ một tai biến mạch máu năo. Chỉ 42% các bệnh nhân, ngay từ những triệu chứng đầu tiên, đă hiểu rằng họ đang bị một cơn đột qụy và đă gọi cấp cứu khá nhanh. Những bệnh nhân khác, nghĩ rằng đó là những rối loạn tạm thời, đă chờ đợi, hy vọng rằng triệu chứng sẽ tự qua đi. Tuy vậy, 50% biết rằng một cơn đột qụy phải được điều trị cấp cứu, mặc dầu chỉ 20% trong số những bệnh nhân này biết có một loại thuốc có khả năng làm tan các cục máu đông trong năo bộ. “Ở Pháp, không có những công tŕnh nghiên cứu thuộc loại này, nhưng có rất nhiều vấn đề trong sự nhận biết bởi chính các bệnh nhân về các tai biến mạch máu năo”, G.S Amarenco (trung tâm nhận và điều trị các cơn đột qụy, bệnh viện Bichat, Paris) đă phàn nàn như vậy.
Vậy sự dốt nát tạo nên một sự mất cơ may. Chính v́ vậy phải biết rằng cơn đột qụy đôi khi xảy ra một cách đột ngột hay có thể tiến triển trong vài giờ. Cường độ của những rối loạn ban đầu biến thiên, cũng như biểu hiện triệu chứng của chúng, tùy theo vùng năo bộ bị liên hệ.
“ PHẢI HÀNH ĐỘNG TRONG V̉NG DƯỚI 3 GIỜ ”
Những triệu chứng thường gặp nhất là yếu cơ hay liệt một phần của cơ thể. Trong trường hợp bán thân bất toại (hémiplégie), mặt, cánh tay và cẳng chân cùng bên bị bại liệt cùng lúc. Có thể đó là một sự mất cảm giác: sự tê cóng hay không có cảm giác, một sự khó khăn về ngôn ngữ, khó phát âm hay á khẩu (aphasie) (nín câm, khó t́m ra chữ). Các bệnh nhân cũng có thể có những rối loạn thị giác, mù đột ngột một mắt, một nửa của thị trường. Hay những rối loạn cân bằng hay tri thức, có thể dẫn đến hôn mê. Triệu chứng đầu tiên có thể là đau đầu, đột ngột, không b́nh thường, rất dữ dội. Những triệu chứng ngay cả tạm thời đều cần được điều trị cấp cứu.
Sự thông tin là cơ bản. Nhưng sự thông tin này phải được điều hợp với một một điều trị cấp cứu ngoài bệnh viện và một tổ chức ngay trong ḷng bệnh viện rất nhanh chóng. “ Trong trường hợp tai biến mạch máu năo, phải hành động trong ṿng dưới 3 giờ. Ở Pháp phần lớn các bệnh nhân đều ở xa giới hạn này. Phải tiến hành một chiến dịch thông tin rộng lớn để dạy cho các bệnh nhân nhận biết các triệu chứng của họ. Đồng thời phải đưa y tế cộng đồng vào trong trường học để giảng dạy cho các trẻ em biết nhận biết các bệnh tật, nhồi máu, đột qụy , v...v, G.S Amarengo đă giải thích như vậy.
(LE FIGARO 11/12/2008)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 107 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (2/1/2009)
4/ TIÊN ĐOÁN SỚM MỨC ĐỘ TRẦM TRỌNG CỦA NHỮNG THƯƠNG TỔN TRONG TAI BIẾN MẠCH MÁU NĂO.
Imagerie. Tiên đoán mức độ nghiêm trọng của một tai biến mạch máu năo trong ṿng vài phút : đó là điều có thể thực hiện được nhờ một logiciel kết hợp với kỹ thuật chụp h́nh ảnh bằng IRM (résonance magnétique), được hiệu chính bởi các nhà khoa học của CNRS. Được đặt tên là Neurinfarct, logiciel phát hiện, từ những phim chụp cổ điển, điều mà các thầy thuốc chuyên khoa thần kinh không thể thấy bằng mắt trần và đặt tên cho vùng này của năo bộ là vùng “ tranh tối tranh sáng thiếu máu cục bộ ” (zone de “ pénombre ischémique ”). Đó là vùng bị thiếu máu, nơi nhồi máu năo sẽ được tạo thành và lan rộng nhanh chóng trong vài giờ sau đó. Thế mà, trái với điều xảy ra ở nhồi máu cơ tim, vùng này vẫn có khả năng sống. Do đó, việc cứu được vùng tranh tối tranh sáng này là điều có thể thực hiện được, nếu bắt đầu cho càng sớm càng tốt thuốc làm tan huyết khối (thrombolytique), điều trị cấp cứu của tai biến mạch máu năo.
Ngày nay, để đánh giá một cách tinh tế mức độ lan rộng của các tổn hại, phải thực hiện IRM kết hợp tiêm thuốc cản quang, một giai đoạn kéo dài, không phải luôn luôn có thể thực hiện được ở pḥng cấp cứu. Với Neurinfarct sẽ miễn được giai đoạn này. Phương pháp này đă được trắc nghiệm thành công nơi khoảng 100 bệnh nhân trong bối cảnh nghiên cứu lâm sàng. Phương pháp Neurinfarct cũng có thể được sử dụng để đánh giá những điều trị mới của tai biến mạch máu năo.
(SCIENCES ET AVENIR 1/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 114 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (20/2/2009)
2/ NGHẼN MẠCH PHỔI ĐƯỢC PHÁT HIỆN TỐT HƠN Ở CÁC THIẾU NIÊN
Măi đến nay việc xác nhận chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu (thrombose veineuse profonde) hay nghẽn mạch phổi (embolie pulmonaire) ở trẻ em và thiếu niên là điều khó khăn. Nhờ sự sử dụng các scanner multidétecteur thuộc thế hệ mới nhất, người ta có thể đánh giá rằng nguy cơ này nằm trong khoảng 15% và 20% sau vài can thiệp ngoại khoa chỉnh h́nh hay khi có những rối loạn đông máu.
(SCIENCES ET AVENIR 2/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 119 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (31/3/2009)
7/ VỚI NGÀY CÀNG NHIỀU NHỮNG CHUYẾN BAY ĐƯỜNG DÀI, TỶ LỆ MẮC CÁC BỆNH LƯ NGÀY CÀNG BAY CAO
Hiện nay, số hành khách hàng không đạt gần 2 tỉ mỗi năm. Các nguy cơ huyết khối nghẽn tĩnh mạch (thromboembolie veineuse) trong các chuyến bay đường dài, sự tiếp xúc với các bức xạ vũ trụ, những tác dụng do lệch giờ giấc và những thiếu sót về chất lượng khí trong các cabine, kết hợp lại để làm gia tăng những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến không hành. Từ nay, vấn đề năng lực vật lư để thực hiện một chuyến không hành được đặt ra một cách gay gắt, đứng trước số lượng rất quan trọng các cá nhân, các khách du lịch hay những hành khách đi công tác ; Các hành khách ngày càng ư thức những vấn đề liên quan với các chuyến bay. Các thăm ḍ cho thấy rằng 95% các cá nhân vốn có những vấn đề sức khỏe, thích được nhận nhiều lời khuyên về y tế trước khi bay.
ĐỘ CAO TỪ 1524 ĐẾN 2438 m
Đâu là những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến bay thương măi? Danielle Silverman và Mark Gendreau (Hoa Kỳ) đă điểm lại các tư liệu y học trong The Lancet.
• Áp suất bên trong cabine : sự điều áp (pressurisation) tương ứng với một độ cao 1524 đến 2438m, điều này khả dĩ gây nên những triệu chứng của bệnh ở độ cao (mal de l’altitude) ngay sau 3 giờ bay. Một điều áp ở cao độ 2.438 m làm giảm Pa02 từ 95 mmHg xuống c̣n 60, với một sự giảm 3-4% độ bảo ḥa của oxyhémoglobine; các hành khách bị bệnh phổi tắc nghẽn măn tính (BPCO) có thể bị một suy hô hấp nhẹ trong một chuyến bay.
Sau một phẫu thuật quan trọng, nên khuyên bệnh nhân phải đợi 2 tuần trước khi bay v́ lẽ khi áp suất bị giảm, sẽ có sự nỡ của chất khí (expansion des gaz) bên trong cơ thể.
• Chúng ta không nghĩ đầy đủ đến sự kiện là một t́nh trạng thiếu oxy hơi giảm áp (une hypoxie légèrement hypobare) làm gia tăng độ keo (viscosité) của máu và rằng sự mất nước cũng làm gia trọng độ keo này. Sự pḥng ngừa huyết khối (thromboprophylaxie) dựa trên những lời khuyên bỏ rượu, bỏ caféine, tránh sự bất động, với chỉ định dùng HBPM (héparine trọng lượng phân tử thấp) đối với những hành khách có nguy cơ ở mức độ vừa phải và đă không sử dụng thuốc kháng đông một cách thường quy. Việc sử dụng bas de contention thường hữu ích.
NHỮNG BỨC XẠ MẶT TRỜI
• sự tiếp xúc với các tia vũ trụ, nghĩa là những tia xuất phát từ hệ mặt trời, được liên kết với các hạt nhỏ (particules) của sưởi ấm mặt trời. Nhiều ung thư đă được liên kết với các tia vũ trụ (vú, da, u hắc tố) và những lời khuyến nghị đă được đưa ra nhằm giới hạn việc tiếp xúc của các nhân viên phi hành.
Những nghiên cứu về vấn đề này măi đến nay không cho phép xác định mối nguy cơ. Tuy nhiên, Cơ quan quản trị hàng không Hoa Kỳ khuyến nghị rằng các phụ nữ có thai (nhân viên phi hành hay hành khách) nên t́m kiếm trên Internet những thông tin phát xuất từ hệ báo động về những bức xạ mặt trời trước khi bay để không vượt quá giới hạn 1mSv (millisievert).
• Sự chênh lệch giờ giấc (décalage horaire hay jet lag), được liên kết với sự bất đồng bộ của các đồng hồ sinh học. Những loại thuốc khác nhau đă được đề nghị, nhưng mélatonine vẫn là điều trị chuẩn. Một phân tích méta 10 công tŕnh nghiên cứu (Cochrane) đă kết luận rằng uống 0,5 đến 5mg vào lúc ngủ trước khi đến, có hiệu quả làm giảm những cảm giác gây ra do sự thay đổi múi giờ.
• Các bệnh nhiễm trùng : việc g̣ bó trong những khoảng không gian giới hạn, trong những khoảng thời gian kéo dài, làm dễ sự phát tán của những tác nhân nhiễm khuẩn. Từ năm 1946, những trận dịch đă được liên kết với các hành khách hàng không như bệnh đầu mùa, bệnh lao, bệnh cúm, bệnh sởi, SRAS, các viêm ruột do siêu vi trùng.
Bây giờ các công ty hàng không sử dụng những máy lọc có hiệu quả cao để đổi mới hơn 50% không khí của cabine. Nguy cơ bị truyền bệnh trên máy bay được giới hạn vào những người ngồi gần một bệnh nhân, khoảng cách dưới hai hàng ghế. Người ta thiếu các dữ kiện về quy mô của các sự cố y khoa xảy ra trong các máy bay. Nhưng hầu hết đều không đáng kể và liên hệ đến những người trên 70 tuổi.
(LE JOURNAL DU MEDECIN 3/3/2009)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 265 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (7/4/2012)
5/ BƯỚC ĐỀU PHẢI CHĂNG CÓ THỂ CẢI THIỆN HY VỌNG SỐNG ?
Pesseur André Vacheron
Président honoraire de l’Académie nationale de médecine
Quote:
15 phút hoạt động vật lư mức độ nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, theo một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố năm 2011.
150 phút bước mỗi tuần được khuyến nghị đề pḥng ngừa những nguy cơ tim mạch.
T́nh trạng bất hoạt vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá nhiều calorie, làm dễ sự tăng thể trọng, chứng béo ph́, cao huyết áp, những bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường.
Sự nhàn rỗi không hoạt động (sédentarité : từ chữa latin “ sedere ” nghĩa là ngồi) là một trong những tai ương của thế giới ngày nay. Thời gian trôi qua trước một màn ảnh ordinateur hay máy truyền h́nh đă trở thành một chỉ dấu cổ điển của t́nh trạng không hoạt động này. Đối với Tổ chức y tế thế giới, những người thực hiện dưới 30 phút mỗi ngày hoạt động vật lư ở mức trung b́nh có thể được xem như bất hoạt về mặt vật lư. T́nh trạng bất hoạt vật lư (inactivité physique) gia tăng với tuổi tác, bị làm trầm trọng bởi những yếu tố xă hội học và tâm lư học. Con người hiện đại không biết bước, chỉ biết xê dịch bằng xe hơi, các cầu thang cơ học và các thang máy.
T́nh trạng không hoạt động vật lư, thường đi đôi với một chế độ ăn uống quá giàu calories, làm dễ sự gia tăng thể trọng (surpoids), chứng béo ph́, cao huyết áp, những t́nh trạng bất quân b́nh lipide và bệnh đái đường. Đó là một yếu tố độc lập của tỷ lệ bệnh tật và tỷ lệ tử vong tim mạch. Ở những người bị bệnh đái đường, hoạt động vật lư cải thiện sự bắt giữ glucose bởi các tế bào cơ, gia tăng tính nhạy cảm đối với insuline và làm dễ sự kiểm soát đường huyết. Đó là một yếu tố quan trọng của điều trị. Ngày nay ta biết rằng những hiện tượng viêm làm dễ sự phát triển chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose).
SỰ TĂNG CAO CỦA CHOLESTEROL TỐT.
Một hoạt động vật lư đều đặn làm giảm những chỉ dấu (marqueur) của hiện tượng viêm. Nó cũng làm giảm sự ngưng kết của các tiểu cầu (agrégation des plaquettes) máu và nguy cơ bị huyết khối (thrombose). Hoạt động vật lư làm gia tăng “ cholestérol tốt ” HDL, có tác dụng bảo vệ thành mạch máu. Nó tạo điều kiện để làm giảm t́nh trạng tăng thể trọng, bệnh béo ph́ và sự nhàn rổi không hoạt động, cũng là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các ung thư.
Câu trả lời xác định cho câu hỏi ban đầu một lần nữa vừa được xác nhận bởi những kết quả của một công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan được công bố trong Lancet ngày 1 tháng 10 năm 2011.
Các tác giả (Chi Pang Wen và các cộng sự viên) đă theo dơi hàng năm từ năm 1996 đến 2008 (trung b́nh 8 năm) một tập hợp 416.175 người (199.265 đàn ông và 216.910 phụ nữ) tuổi tối thiểu 20. Bảng câu hỏi ban đầu liên quan đến lối sống và hoạt động vật lư của những người được tuyển mộ. Hoạt động được đánh giá theo cường độ liên quan với những tương đương chuyển hóa : nhẹ như bước thông thường, vừa phải như chạy jogging, trung b́nh như bước nhanh, mạnh như chạy bộ, và theo lượng, số phút mỗi tuần.
Trong 8 năm, so sánh với những người không hoạt động, tỷ lệ tử vong toàn thể của những người có một hoạt động vật lư nhẹ (đi bộ b́nh thường) đă giảm 14%, tỷ lệ tử vong tim mạch giảm 19%, tỷ lệ tử vong động mạch vành 25%, tỷ lệ tử vong do tai biến mạch máu năo giảm 12%, tỷ lệ tử vong do bệnh đái đường 1%, tỷ lệ tử vong do ung thư 10%.
Sự giảm tử vong toàn bộ tỷ lệ với thời gian hoạt động vật lư hàng ngày và cường độ của nó : 15 phút hoạt động vật lư nhẹ mỗi ngày làm gia tăng hy vọng sống 3 năm, lợi ích gia tăng với thời gian và cường độ của hoạt động mỗi ngày.
Công tŕnh nghiên cứu của Đài Loan đă có tính đến nhiều yếu tố có khả năng gây nhầm lẫn, những chỉ dấu của một t́nh trạng sức khỏe cơ bản tốt và những kết quả của nó đă không khác nhau tùy theo tuổi tác, giới tính, trọng lượng, sự hiện diện của một cao huyết áp hay bệnh đái đường.
Nhiều công tŕnh nghiên cứu đă chứng minh lợi ích, trong pḥng ngừa tim mạch, của việc bước ít nhất 30 phút mỗi ngày hay 150 phút mỗi tuần. Công tŕnh nghiên cứu của Wen và các cộng sự viên chứng tỏ rằng hoạt động vật lư hàng ngày, ngay cả nhẹ, cũng có lợi ích. Thế mà hoạt động như thế không khó thực hiện cũng chẳng tốn kém ǵ...
(LE FIGARO 2/4/2012)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 281 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (24/9/2012)
3/ NHỮNG BỆNH TIM MẠCH Ở PHỤ NỮ : MỘT BÁO ĐỘNG ĐỎ.
GS Claire Mounier-Vehier, phó chủ tịch của Liên đoàn tim học Pháp, Trưởng khoa y học mạch máu và cao huyết áp thuộc bệnh viện tim của CHRU de Lille, giải thích làm sao kềm hăm tiến triển gia tăng của những bệnh lư này.
Hỏi : Ở phụ nữ, tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch là ǵ ?
GS Claire Mounier Vehier : Theo registre của Hiệp hội tim học châu Âu, ngày nay, sau thời kỳ măn kinh, cứ 3 phụ nữ có một chết v́ một trong những bệnh tim mạch này, giết chết c̣n hơn cả ung thư vú ! Và, từ ít lâu nay, ta chứng thực rằng những bệnh lư này cũng ảnh hưởng lên những phụ nữ trẻ hơn, mặc dầu họ c̣n dưới tác dụng bảo vệ của oestrogène.
Hỏi : Sau thời kỳ măn kinh, những hormone này có một tác dụng bảo vệ bằng cách nào ?
GS Claire Mounier Vehier : Phải phân biệt những oestrogène tự nhiên với những oestrogène tổng hợp. Những oestrogène tự nhiên có một tác dụng giăn mạch, giữ cho các động mạch và các tĩnh mạch được mềm dẻo. Chúng cũng có một tác dụng chống huyết khối (action antithrombotique) và làm dễ sự tổng hợp cholestérol loại tốt. 5 năm sau thời kỳ măn kinh, với sự đánh mất oestrogène, các phụ nữ bị đối đầu với những nguy cơ khác nhau.
Hỏi : Tại sao tai ương này nói chung bị đánh giá thấp ở các phụ nữ ?
GS Claire Mounier Vehier :Theo những kết quả của rất nhiều công tŕnh nghiên cứu được tiến hành chủ yếu ở đàn ông, ta hằng nghĩ rằng những người đàn ông bị nguy cơ hơn nhiều do các yếu tố làm dễ như thuốc lá, sự căng thẳng nghề nghiệp, một sự tiêu thụ rượu quá mức, một t́nh trạng tăng thể trọng, một sự thặng dư cholestérol. Nếu ta chứng thực một tỷ lệ lưu hành gia tăng những bệnh tim mạch này ở các phụ nữ, đó là bởi v́ họ đă theo cùng những lối sống.
Hỏi : Trong đời sống một phụ nữ phải chăng có vài giai đoạn trong đó họ phải đặc biệt tự theo dơi hay không ?
GS Claire Mounier Vehier : Có 3 nguyên tắc. 1. Sự sử dụng thuốc ngừa thai chứa œstrogène tổng hợp, chỉ có thể được quyết định nếu không có tiền sử huyết khối (thrombose) và sau khi thực hiện một bilan lipid, đường và đo huyết áp. 2. Thai nghén, trong đó cùng những biện pháp tỏ ra cần thiết. 3. Thời kỳ chu măn (périménaupose) (trong 5 năm sau khi tắc kinh), trong giai đoạn này sự phát hiện một bệnh động mạch vành bằng épreuve d’effort (thí dụ trên thảm lăn) hay bằng siêu âm tim phải được thực hiện. Những bilan lipidique là thiết yếu. Nếu tất cả những kết quả đều tốt, một check-up mới sẽ được dự kiến 5 năm sau.
Hỏi : Những phụ nữ nào đặc biệt có nguy cơ ?
GS Claire Mounier Vehier : Theo Hiệp hội tim Hoa Kỳ (AHA), đó là những phụ nữ hút thuốc (bắt đầu từ 4 điếu mỗi ngày), những phụ nữ có một thời kỳ măn kinh sớm (trước 40 tuổi), những phụ nữ chịu nhiều căng thắng (grandes stressées), những người bị cao huyết áp, bị bệnh béo ph́, những bệnh nhân đái đường và những nạn nhân của một tai biến mạch máu. Tất cả phải tránh điều trị bằng hormone có chất cơ bản là œstrogène tổng hợp.
Hỏi : Những bệnh tim mạch nào là nguy hiểm nhất ?
GS Claire Mounier Vehier : 1. Những bệnh lư động mạch chủ, trong đó viêm động mạch các chi dưới, ngày càng thường gặp. 2. Nhồi máu cơ tim. 3. Tai biến mạch máu năo.
Hỏi : Ở Pháp, những biện pháp nào được thực hiện để pḥng ngừa những bệnh này ?
GS Claire Mounier Vehier : So với những người đàn ông, các phụ nữ không được phát hiện và điều trị đến nơi đến chốn. Điều này giải thích ở các phụ nữ sự tiến triển của những trường hợp tử vong do những bệnh này. Sự tŕ chậm trong điều trị là một vấn đề khẩn cấp.
Hỏi : Bà sẽ đề nghị ǵ nhân hội nghị sắp đến của Liên đoàn tim học Pháp ?
GS Claire Mounier Vehier : Thiết lập một sự hợp tác chặt chẽ giữa các thầy thuốc điều trị, các thầy thuốc chuyên khoa tim, các thầy thuốc chuyên về mạch máu (angiologue) và các thầy thuốc phụ khoa để họ xác lập đối với mỗi bệnh nhân những protocole thăm khám phát hiện. Mục đích là phát hiện càng sớm càng tốt sự xuất hiện của một vấn đề tim mạch. Một công tŕnh nghiên cứu dài hạn, hiện được thực hiện bởi GS Nicolas Dauchin (bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou) chủ yếu để nhận diện tốt hơn những dấu hiệu báo động của những bệnh lư này ở phụ nữ.
(PARIS MATCH 13/9 – 19/9/2012)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 285 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (10/11/2012)
7/ NHỮNG VẬN ĐỘNG VIÊN THỂ THAO KHÔNG CHUYÊN : NHỮNG NGUY CƠ TAI BIẾN TIM.
GS GS Franois Carré, médecin du sport et cardiologue thuộc hôpital Pontchaillou de Rennes, cảnh giác chống lại những hiểm nguy khả dĩ của một thực hành thể thao cường độ mạnh ở những người không được huấn luyện.
Hỏi : Khi nào ông cho rằng một thực hành thể thao (pratique sportive) trở nên quá mạnh ?
GS François Carré : Có hai giai đoạn trong quá gắng sức. Trong giai đoạn đầu tiên, những vận động viên thể thao này khó thở vừa phải. Họ c̣n có thể huưt sáo, hát lầm rầm nhưng buộc phải dừng lại từng lúc để cơ thể của họ thích ứng với những nhu cầu oxygène nhiều hơn. Giai đoạn thứ hai, ở những người chơi thể thao không chuyên (sportifs amateurs) này, có những nguy cơ. Thở rất hổn hển, bây giờ các vận động viên này buộc cơ thể ḿnh phóng thích quá nhiều adrénaline (một kích thích tố, khi được tiết quá mức, có hại cho tim), hormone này có thể gây nên một loạn nhịp tim, và, trong những trường hợp nghiêm trọng nhất, chết đột ngột.
Hỏi : Những nguyên nhân thường nhất của tai biến tim là ǵ ?
GS François Carré : Tuổi tác là một yếu tố quan trọng. Sau 35 tuổi, thường nhất đó là vỡ một mảng xơ mỡ (plaque d’athérome) trong khi gắng sức. Mảng vỡ bít một động mạch (huyết khối : thrombose) mang máu đến tim, và tim, do thiếu oxy, khi đó sẽ bị loạn nhịp, có thể có biến chứng rung thất (fibrillation ventriculaire) gây nên chết đột ngột. Nguy cơ này gia tăng ở những bệnh nhân bị một bệnh tim hay đă từng bị một nhồi máu. Trong giai đoạn hai quá mạnh này, thể thao không có tác dụng có lợi.
Hỏi : Ở những phụ nữ không được tập luyện, phải chăng những nguy cơ giống với những nguy cơ ở đàn ông?
GS François Carré : Ta ghi nhận ít trường hợp chết đột ngột hơn nhiều ở những phụ nữ này (cứ 6 và 8 trường hợp chết đột ngột xảy ra ở đàn ông th́ chỉ có một ở phụ nữ). Điều này ta không biết rơ tại sao. Phải chăng có lẽ bởi v́ những phụ nữ ít đua tranh hơn ?
Hỏi : Có những điều kiện môi trường không thuận lợi làm gia tăng những nguy cơ ?
GS François Carré : Có 3 trường hợp chính. 1. Trời quá nóng : trên 30 độ C. Điều này sẽ làm gia tăng quá mức nhiệt độ của cơ thể. Cơ thể sẽ khó làm quân b́nh giữa quá tŕnh làm lạnh (refroidissement) và sự cung cấp máu cần thiết đến các cơ đang hoạt động. 2. Trời quá lạnh : dưới 5 độ C. Các huyết quản khó mở ra để tránh quá tŕnh làm lạnh của cơ thể, điều này làm trở ngại tuần hoàn máu, có thể dẫn đến một sự thiếu oxy ở tim. 3. Khám phá mới đây : sự ở nhiễm trong những thành phố lớn. Trong trường hợp gắng sức mạnh, khi sự ô nhiễm đạt đến cao điểm có thể làm dễ sử xuất hiện loạn nhịp ở những người có sức khỏe kém.
Hỏi : Những triệu chứng nào nhất thiết buộc vận động viên phải dừng lại trong khi hoạt động thể thao ?
GS François Carré : Một cơn đau ở ngực, hồi hộp, những cảm giác chóng mặt, t́nh trạng khó ở, buộc phải ngừng tức khắc và, về sau, phải thăm khám thầy thuốc của ḿnh bởi v́ có thể có một vấn đề tim gây nên. Quá nhiều người đàn ông tin chắc rằng tim của họ được miễn dịch do một sự luyện tập đều đặn, và khi một triệu chúng xuất hiện, họ nghĩ rằng nguyên nhân là ở nơi khác : trung b́nh 50% những tai biến tim xảy ra ở những vận động viên thể thao phớt lờ những triệu chứng báo động.
Hỏi : Những lời khuyên của ông để thực hành một môn thể thao theo đúng quy tắc ?
GS François Carré : Trước hết, thể thao mang lại nhiều lợi ích : nó làm hạ huyết áp, nồng độ cholestérol xấu, cải thiện khả năng giăn của các huyết quản, làm giảm nguy cơ huyết khối (thrombose), làm chậm tần số tim. Nhưng trong trường hợp thực hành xấu, thể thao cường độ mạnh có thể gây nên những tai biến tim.
Về chạy bộ, phải bắt đầu từ từ (trong khoảng 10 phút) và chậm lại từ từ, uống nhiều nước trong khi gắng sức sau 40 hay 45 phút. Đối với những người nghiện thuốc lá, đừng bao giờ hút trong hai giờ trước và sau khi thực hành thể thao. Trong cuộc sống hàng ngày, một bài tập dai sức (exercice d’endurance), như bước nhanh trong 30 phút (ngay cả bị phân đoạn, như 3 lần mỗi lần 10 phút), đặc biệt tốt cho tim.
(PARIS MATCH 25/10 – 31/10/2012)
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 286 - BS NGUYỄN VĂN THỊNH (19/11/2012)
8/ MỘT ĐIỀU TRỊ MỚI ĐỐI VỚI HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU
Việc điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP : thrombose veineuse profonde) trong nhiều trường hợp trở nên dễ dàng hơn.
TĨNH MẠCH. Từ cuối hè, một thuốc kháng đông mới được sử dụng để điều trị bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP), ngày xưa được gọi là viêm tĩnh mạch (phlébite). Bệnh này được đặc trưng bởi một cục máu đông được tạo bởi chất sợi huyết (caillot de fibrine) trong một tĩnh mạch ở sâu, thường nhất là ở cẳng chân. Đó là một bệnh thường xảy ra, gây bệnh cho khoảng 1 người trên 1000 trước 60 tuổi, những nguy cơ được nhân lên gấp 10 sau 75 tuổi.
Huyết khối tĩnh mạch sâu, trong 60% các trường hợp, được phát hiện bởi một triệu chứng đau đột ngột và dài lâu. Phù, giới hạn các cử động và tăng cao nhiệt độ của da cũng có thể xuất hiện. Những triệu chứng này hiện diện trong một cẳng chân duy nhất, tính chất một bên (unilatéralité) là tiêu chuẩn chẩn đoán phân biệt chính. Vài yếu tố nguy cơ có thể định hướng chẩn đoán như những can thiệp ngoại khoa, những chấn thương trên các chi dưới, các ung thư, các điều trị hormone, thai nghén và hậu sản, liệt giường hơn 3 ngày, voyages ở tư thế ngồi hơn 5 giờ và vài yếu tố di truyền gia đ́nh.
“ Công cụ chẩn đoán là định lượng các D-dimères, nếu âm tính, cho phép 95% loại bỏ chẩn đoán bệnh huyết khối nghẽn mạch (MVTE : maladie veineuse thromboembolique) ”, GS Pascal Priollet, trưởng khoa y khoa mạch máu (médecine vasculaire) thuộc groupe hospitalier Paris Saint-Joseph đă nhấn mạnh như vậy. Siêu âm Doppler sau đó là thăm khám quy chiếu. Một h́nh ảnh đen và trắng của hệ tĩnh mạch, thêm vào đó sự đo lường bằng siêu âm ḍng máu chảy trong các tĩnh mạch, cho phép thấy được các cục máu đông làm tắc luồng máu. Ngay khi nghi ngờ một huyết khối tĩnh mạch sâu, thầy thuốc bắt đầu một điều trị kháng đông để pḥng ngừa biến chứng chính khi cục máu đông di tản đến các lá phổi, nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire), gây chết người trong 5 đến 30% các trường hợp.
HỘI CHỨNG SAU HUYẾT KHỐI (SYNDROME POST-THROMBOTIQUE)
Điều trị gồm có tiêm một thuốc kháng đông trong những ngày đầu, liên kết với một antivitamine K, thường nhất sẽ được duy tŕ trong 3 tháng. Điều trị này cần một sự theo dơi nghiêm túc vài yếu tố đông máu để duy tŕ ở một trị số có thể chấp nhận được nguy cơ chảy máu bằng định lượng máu INR (International Normalized Ratio), một trong những indicateur rất thường thấy của sự đông máu. Từ cuối hè, các thầy thuốc có
một thuốc kháng đông mới dùng bằng đường miệng, Rivaroxaban (Xarelto), được cho đơn độc ngay lúc đầu và thành hai giai đoạn, trước hết với liều lượng mạnh trong 3 tuần, rồi với liều giảm bớt.
Ưu điểm chính : thuốc kháng đông mới không cần phải theo dơi máu.“ Đó là một bước tiến không thể tranh căi, nhưng sự dễ dàng sử dụng không được làm quên những nguy cơ liên kết với việc sử dụng của một thuốc kháng đông ”, BS Marc Samara, trưởng khoa gây mê hồi sức ở bệnh viện Cochin Hôtel-Dieu, Paris, đă nhắc lại như vậy. Thuốc không được cho khi chức năng thận bị giảm, điều này thường là trường hợp ở những người già, tuy vậy lại sử dụng nhiều nhất một điều trị như thế.
Ngoài ra, nếu có một chất đối kháng (antidote) đối với các antivitamine K trong trường hợp quá liều, th́ một công cụ như thế sẽ không có để sử dụng trước một hay hai năm đối với những thuốc chống đông mới. Sự phấn khởi của các chuyên gia do đó không ngăn cản họ chủ trương thận trọng và một sự kiên nhẫn nào đó để học làm chủ điều trị mới này.
Dầu thuốc kháng đông được cho là loại thuốc nào, thời gian điều trị nói chung là 3 tháng. Trong vài trường hợp, nhất là khi một yếu tố nguy cơ thường trực được nhận diện hoặc khi đó là một tái phát, thời gian này có thể được kéo dài. Ngoại khoa chỉ được chỉ định đối với dưới 5% những bệnh nhân có một nguy cơ rất cao nghẽn tắc động mạch phổi (embolie pulmonaire) hay không thể nhận một điều trị kháng đông. Cần giữ nhiều tháng contention élastique được cho vào lúc bắt đầu điều trị để pḥng ngừa tái phát và các biến chứng.
Biến chứng thứ hai có thể xảy ra sau một huyết khối tĩnh mạch sâu, đặc biệt là khi viêm tĩnh mạch xảy ra ở đầu gối hay cao hơn, là hội chứng sau huyết khối (syndrome post-thrombotique), xảy ra ở 30% những người đă bị một huyết khối tĩnh mạch sâu. Hội chứng này gây đau, tắc tĩnh mạch kéo dài, phá hủy các van tĩnh mạch, phù, giảm vi tuần hoàn và làm dễ sự xuất hiện một huyết khối tĩnh mạch sâu mới cũng như, đối với những trường hợp nặng, gây loét (ulcération)
Vậy sau một huyết khối tĩnh mạch sâu, điều quan trọng là phải duy tŕ một sự theo dơi đều đặn trong 3 đến 6 tháng và, nhất là đừng quên biến cố này để có thể nhận biết một cách dễ dàng hơn những triệu chứng sẽ được gán cho nó.
(LE FIGARO 5/11/2012)
9/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU : NGUY CƠ GIA TĂNG TRONG TRƯỜNG HỢP UNG THƯ.
Nhiều chiến lược pḥng ngừa nguy cơ bệnh huyết khối nghẽn mạch (MTVE) từ nay được thực hiện ở những bệnh nhân bị ung thư. Thật vậy, nguy cơ này nhân 4 khi có một ung thư, với một tỷ lệ mắc bệnh gia tăng bởi v́ bệnh nhân sống càng ngày càng lâu với ung thư.
Bệnh huyết khối nghẽn mạch (MTVE : maladie veineuse thrombo-embolique) là nguyên nhân thứ hai gây tử vong của những bệnh nhân bị ung thư. 20% bệnh huyết khối nghẽn mạch được liên kết với các ung thư. Chính ung thư có thể chịu trách nhiệm sự hiện diện của một cục máu đông hoặc bởi v́ nó gây nên những biến đổi trong những yếu tố đông máu hoặc bởi v́ khối u đè ép các tĩnh mạch gần đó. Điều trị ung thư cũng có thể là nguyên nhân : hóa học liệu pháp (chmiothérapie), hormonothérapie và vài điều trị chống ngưng kết có thể làm dễ bệnh huyết khối nghẽn mạch. Những système implantable để làm dễ hóa học liệu pháp làm gia tăng nguy cơ này cũng như những can thiệp ngoại khoa và đặc biệt là những can thiệp liên kết với ung thư. Sau cùng những bệnh nhân bị ung thư có thể buộc bị bất động trong những thời gian dài, điều này làm gia tăng nguy cơ huyết khối.
Những khuyến nghị hiện nay chỉ rơ rằng phải thiết đặt một điều trị pḥng ngừa những bệnh huyết khối nghẽn mạch khi một bệnh nhân ung thư chịu một nguy cơ phụ như một điều trị ngoại khoa, vài hóa học liệu pháp hay một sự liệt giường kéo dài. Những chambre implantable làm gia tăng chủ yếu nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu của các chi dưới, với một nguy cơ nghẽn tắc động mạch phổi ít hơn. Sự thiết đặt một điều trị kháng đông trong trường hợp này chỉ được thực hiện nếu một huyết khối tĩnh mạch sâu phát triển.
CÁC THUỐC KHÁNG ĐÔNG.
Ở những bệnh nhân ung thư, các héparine có trọng lượng phân tử thấp (HBPM) chích là điều trị quy chiếu bởi v́ các antivitamine K dường như ít hiệu quả hơn đối với những huyết khối tĩnh mạch sâu liên kết với ung thư. Điều trị được duy tŕ trong tối thiểu 3 tháng để pḥng ngừa huyết khối và tốt hơn là 6 tháng nếu đó là một huyết khối đă xuất hiện. Chỉ khi người thầy thuốc dự kiến kéo dài điều trị ban đầu này th́ mới có thể chuyển qua các thuốc chống đông máu bằng đường miệng. Nếu không một trong những điều trị này có thể được áp dụng, th́ việc mổ để đặt một cái lọc (filtre) nhằm ngăn chặn sự đi lên của một cục máu đông đến phổi, có thể được chỉ định.
Ngoài ra những công tŕnh nghiên cứu dịch tễ học nhằm khảo sát mối liên hệ này giữa bệnh huyết khối nghẽn mạch và ung thư đă có thể chứng minh rằng, trong vài trường hợp, khi một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi không có nguyên nhân có thể nhận diện được (ngoại khoa, chấn thương, điều trị kích thích tố, thai nghén, liệt giường, du lịch), một ung thư sẽ được t́m thấy trong 6 đến 12 tháng sau chẩn đoán bệnh huyết khối nghẽn mạch. Những ung thư thường được gặp nhất trong những trường hợp đặc biệt này là những ung thư huyết học, những ung thư phổi và của ống tiêu hóa. Các chuyên gia hiện nay tự hỏi về lợi ích, đối với vài profile bệnh nhân huyết khối nghẽn mạch, t́m kiếm một ung thư khả dĩ xảy ra.
(LE FIGARO 5/11/2012)
10/ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH SÂU : CẲNG CHÂN NẶNG HAY GIĂN TĨNH MẠCH CÓ PHẢI LÀ NHỮNG DẤU HIỆU BÁO ĐỘNG ?
“ Có hai cẳng chân nặng không phải là một triệu chứng báo hiệu huyết khối tĩnh mạch sâu, cũng như giăn tĩnh mạch (varices), GS Hervé Decousus, trưởng khoa nội và điều trị của CHU de Sainte-Etienne và phụ trách trung tâm thăm ḍ lâm sàng Inserm, đă nhắc lại như vậy. Mổ những tĩnh mạch, trên đó ta quan sát thấy một hồi lưu (reflux) nhẹ, sẽ không làm giảm những cẳng chân nặng. Cũng vậy, giăn tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch không được lẩn lộn, ngay cả khi có những mối liên hệ với nhau.”
Varices là những tĩnh mạch bị giăn có thể thấy hay sờ được ở tư thế đứng, trong đó máu có thể đi ngược chiều, nhưng không gây hậu quả tai hại. Các varices có thể được điều trị nếu chúng gây nên quá nhiều khó chịu (đau, các rối loạn ở da, khó chịu về mặt thẩm mỹ) hay nếu kích thước quan trọng của chúng gia tăng nguy cơ chảy máu khi ta đụng chúng, mặc dầu những triệu chứng không tùy thuộc vào kích thước của các varices.
ECHODOPPLER SYSTEMATIQUE
Trong 20% các trường hợp, các varices xuất hiện sau một huyết khối tĩnh mạch sâu (TVP). Khi đó tĩnh mạch có thể rất bị tổn hại, do sự hiện diện của cục máu đông và tiến triển dễ dàng hơn thành loét (ulcère variqueux). Một echo-Doppler có thể phát hiện những di chứng của một huyết khối tĩnh mạch sâu và đưa đến một sự theo dơi sát hơn một varice phát xuất từ đó.
Huyết khối tĩnh mạch sâu cũng có thể gây nên phù và cảm giác cẳng chân nặng (jambe lourde) nhưng chỉ ở một phía. “ Một phụ nữ có thai kêu đau đột ngột ở lưng, nhất là về phía trái, với cẳng chân đỏ hồng và/hoặc phù có thể đó là một huyết khối tĩnh mạch sâu, GS Pascal Priollet, trưởng khoa y khoa mạch máu thuộc groupe hospitalier Paris Saint-Joseph đă chỉ rơ như vậy. Trái lại, nếu các cẳng chân nặng và phù cả hai bên, đó là do thai nghén, các triệu chứng này sẽ biến mất sau khi sinh.” Sự thiết đặt một contention élastique có thể cải thiện sự thoải mái. Ngược lại thể ngoại biên của huyết khối tĩnh mạch sâu rất thường liên kết với sự hiện diện của các varices bởi v́ sự tuần hoàn ít được thực hiện trong mạng tĩnh mạch ngoại biên hơn, do đó làm dễ sự tạo thành của các cục máu đông. Đôi khi được gọi là paraphlébite, thể ngoại biên của huyết khối tĩnh mạch sâu ít đáng lo ngại hơn so với thể sâu bởi v́ các biến chứng trong trường hợp này không trầm trọng như thế.
Mặt khác, các tĩnh mạch bị ảnh hưởng thường nhất có thể thấy được, điều này làm cho thể nông dễ chẩn đoán hơn. Tuy nhiên một công tŕnh nghiên cứu của Pháp mới đây trên 1500 bệnh nhân đă cho phép quan sát rằng, trong 25% các trường hợp huyết khối tĩnh mạch nông (TVS : thrombose veineuse superficielle), một huyết khối tĩnh mạch sâu cũng hiện diện. Mặt khác, 10% những bệnh nhân, ở họ khả năng một huyết khối tĩnh mạch sâu hay một nghẽn tắc động mạch phổi đă được loại bỏ, và như thế đă không nhận điều trị, có một tiến triển bất thuận lợi về một huyết khối tĩnh mạch sâu hay nghẽn tắc động mạch phổi. Sau cùng, 5% những bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch nông có một nghẽn tắc động mạch phổi triệu chứng (embolie symptomatique). Một écho-Doppler từ nay được thực hiện một cách hệ thống để phát hiện những trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu liên kết và những tranh luận đang được tiến hành về lợi ích của một điều trị kháng đông liều thấp để pḥng ngừa những tiến triển thành nhưng dạng nghiêm trọng hơn.
(LE FIGARO 5/11/2012)
NHỮNG CƠ BẢN VỀ THỂ DỤC :
NẾU BẠN CÓ SỰ RỐI LOẠN CHẢY MÁU HOẶC ĐÔNG MÁU
( EXERCISE BASICS: If you have a Bleeding or Clotting Disorder )
Lynn Ly Phỏng Dịch theo thông tin Đại Học Y OHIO-Hoa Kỳ
TẬP THỂ DỤC CÓ TỐT CHO TÔI KHÔNG?
Có!Tập thể dục tốt cho bạn. Vai tṛ của tập thể dục là tăng cường hoạt động thể chất/vận động vật lư, sức khỏe và tinh thần và giao tế xă hội. Bác sĩ phẫu thuật tại Hoa Kỳ cho khuyến cáo phổ biến là những hoạt động thể chât/vận động vật lư "không cần phải vất vả." Những người ở tuổi trưởng thành nên cố gắng thực hiện trong ṿng 30 phút hoạt động hàng ngày hoặc nhiều hơn so với việc đi bộ trung b́nh 10000 bước mỗi ngày . Các loại tập thể dục có thể được tích lũy trong 5 đến 10 phút khởi đầu hoặc những vận động có thể làm liên tục. Điều quan trọng nhất là mọi người đang nhúc động .
TẠI SAO HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT/ VẬN ĐỘNG VẬT LƯ QUAN TRỌNG?
Mục đích của hoạt động thể chất VẬN ĐỘNG VẬT LƯ là:
• Bảo tồn hoặc khôi phục lại ROM (phạm vi cử động) và tính linh hoạt xung quanh các xương khớp
• Tăng điều kiện lưu thông khí trong cơ thể
• Tăng sức mạnh cơ bắp và sức chịu đựng(endurance)
• Tăng trang thái tâm lư lành mạnh
• Giảm những hung hiểm rủi ro sức khỏe ma` liên quan với một lối sống ít vận động
Cả hai sự xuất huyết tại cơ bắp và tại xương khớp đều khiến tế bào mô bị sa thải hoang phí ( atrophy = teo cơ). Điều này có thể dẫn đến nhừng xuất huyết mới, đau nhức, và cứng khớp và có thể gây tổn thuơng xương khớp.
Tập thể dục cũng được sử dụng như một công cụ pḥng chống bệnh tật. Những động tác co duỗi trợ giúp cải thiện tính linh hoạt, trợ giúp giảm thiểu nguy cơ chấn thương. Việc tạo điều kiện lưu thông khí trong cơ thể trợ giúp phổi và các cơ bắp cải thiện chức năng của chúng. Việc đào tạo ra năng lực cho phép cơ bắp thích ứng với yêu cầu mới đặt ra. V́ vậy, ít cóchấn thương xẩy ra cho cơ thể và điều này làm cho việc bảo vệ tốt hơn trong quá tŕnh nhiễm trùng và nhiễm bệnh.
Thông thường, việc kiên tŕ thực hiện là rất quan trọng để duy tŕ những lợi ích từ sự hoạt động. Hoạt động thể chất/vận động vật lư sẽ trợ giúp các chất dinh dưỡng được đưa đến các sụn của xương khớp. Điều này giúp ǵn giữ cho cơ bắp và các khớp xương mạnh, giảm thiểu sự mất xương, giúp có được dung dịch cần thiết cho xương sụn và giúp giảm bớt sự cứng đờ và cảm giác đau nhức tại các khớp xương. Hoạt động thể chất/vận động vật lư cũng có thể giúp cải thiện tuần hoàn, giảm thiếu suy tĩnh mạch (máu không thể trở về tim một cách dễ dàng), và gia tăng dung tích lá phổi mà kèm theo là chứng thuyên tắc phổi( PE = pulmonary embolism) . Tập thể dục có thể mang lại lợi ích bất cứ ai bị rối loạng đông máu hoặc rối loạn chảy máu.
TÔI NÊN THỰC THIỆN LOẠI THỂ DỤC NÀO?
Trước khi bắt đầu một chương tŕnh luyện tập thể dục, hăy tham khoải với bác sĩ của bạn. The dục nhẹ nhàng đến dùng mức độ vừa phải/ trung b́nh là tốt nhất để bắt đầu. Để đo lường sự nỗ lực của bạn, hăy sử dụng cách thử nghiệm "khả năng nói" như sau:
• Nếu bạn có thể hát trong khi tập thể dục, bạn đang tập luyện ở mức độ nhẹ nhàng.
• Nếu bạn có thể nói chuyện, bạn đang tập luyện ở mức vừa phải.
• Nếu bạn có khó khăn trong việc tiếp tục đàm thoại, bạn đang tập luyện ở cường độ mạnh.
Chỉ tiêu nhịp tim (THR=target heart rate) là một cách khác để theo dơi cường độ mà là phù hợp với lứa tuổi và điều kiện thế chất của bạn . Các chuyên gia y tế , bác sĩ của bạn có thể giúp bạn t́m hiểu làm thế nào để sờ mạch tim và cần biết những ǵ về chỉ tiêu nhịp tim của bạn nên có.
Đi bộ, tản bộ, bơi lội, đạp xe đạp (có đội mũ an toàn), khiêu vũ, chơi tṛ ném và chụp đĩa (Frisbee), chơi golf, và tập Thái Cực Quyên là những ví dụ tốt về sự lựa chọn an toàn cho hoạt động thể chất/vận động vật lư. Các động tác làm nóng cơ thể ( vận động nhẹ nhàng khoảng 5-10 phút), các động tác co duỗi (không co thắt quá, và căng giăn nhẹ nhẹ)trước khi thế dục, và những động tác làm giảm thân nhiệt ngay sau khi thể dục cũng rất quan trọng như kiếu vận động mà bạn đă lựa chọn. Khi cơ bắp được làm ấm lên th́ sẽ có ít nguy cơ bị chấn thương.
Đặc biệt nguy hiểm là không vận động nếu bạn có rối loạn đông máu. Bạn cần phải chắc chắn rằng bạn di chuyển/ vận động nếu bạn đă ngồi hoặc không hoạt động trong khoảng thời gian lâu hơn 2 giờ tại một thời điểm. Bởi v́ các cơ bắp của bạn hoạt động như một máy bơm. Khi cơ bắp co giăn, chúng trợ giúp máu di chuyển trong cơ thể của bạn.
Dưới đây là một số ư tưởng để ǵn giữ bạn di động/chuyến động. Đây là những việc đơn giản bạn có thể làm trong khi ngồi tại nơi làm việc hoặc trong xe, hoặc trên máy máy khi đi du lịch:
• Hăy đứng dậy và đi bộ trong vài phút
• Nhấp nhún lên xuống mắt cá chân của bạn
• Co lại và duỗi giăn cơ bắp chân của bạn
• Tháng ba tại chỗ
• Nắm bóp bàn tay của bạn
PHẢI LÀM G̀ SAU KHI BỊ THƯƠNG?
Những dấu hiệu tổn thương bao gồm sưng, đỏ, nóng ấm, và sự vận động suy giảm tại một khớp xương cùng như đau nhức khi chạm vào. Những dấu hiệu sớm của một chấn thương, trước khi bị sưng, th́ bao gồm ngứa ran, nóng ấm hoặc bất kỳ biến đổi được ghi nhận trong khu vực bị căng thẳng hoặc bị chấn thương.
Đây là các bước thực hiện ngay sau khi xảy ra một thương tích. Sử dụng cách nhớ với chữ R.I.C.E(rice=gạo)
R.I.C.E
• Thả lỏng cho vùng bị ảnh hưởng được nghỉ ngơi (Rest the affected part)
• Làm đông lạnh khu vực đó bằng cách trườm nước đá trong ṿng 15 phút mỗi giờ.(Ice the area by applying ice for 15 minutes every hour)
• Bó nén khu vực đó bằng cách sử dụng miếng băng quấn có tính đàn hồi (Compress the area by using an ace wrap)
• Nâng cao vùng bị ảnh hưởng( Elevate the affected area..
Một vành đai để đeo hoặc bó thanh nẹp có thể được sử dụng nếu sự hỗ trợ là cần thiết. Bạn có thể cần được tham khám bởi bác sĩ của bạn.
Nếu các bước này không thay đổi các triệu chứng của bạn hoặc nếu bạn nhận thấy bạn đang khó thở, thở dốc, thở hổn hển (SOB = short of breath) hoặc đau tức ngực, bạn có thể trảichứng thuyên tắc phổi(PE = pulmonary embolism).
Những vấn đề cần sự chăm sóc y khoa ngay lập tức:
• Khu vực khớp xương bị chảy máu: các triệu chứng bao gồm ngứa ran, nóng ấm, đau nhức và sưng.
• Thuyên tắc phổi (PE): Các triệu chứng bao gồm khó thở/thổ dôc/thở hổn hển và đau ngực
Hăy tham khảo bác sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ thắc mắc ǵ.
VOA
Một số người Châu Phi và Ấn độ theo truyền thống thường đốt dầu làm từ hạt của cây dầu mè, tên khoa học là Jatropha curcas, để đốt đèn chống muỗi. Các nhà khoa học thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ giờ đây đă biết v́ sao phương pháp này lại có hiệu quả đến thế.
UserPostedImage
Cây dầu mè (Jatropha curcas)
Dược sĩ Charles Cantrell đă phân tích các đặc tính của khói dầu mè, và xác định được một số hợp chất tích cực có khả năng chống muỗi, kể cả lần đầu tiên theo lời ông, một loại chất béo trung tính, là triglyceride.
Dược sĩ Cantrell cũng đang t́m những hợp chất tương tự trong cây bánh ḿ, c̣n được gọi là cây xa-kê, hy vọng có thể phối hợp hai nguồn này để tạo ra một loại thuốc diệt muỗi hữu hiệu hơn.
Mặc dầu là loại cây phát xuất từ Châu Mỹ, cây dầu mè Jatropha curvas giờ đây mọc trên khắp vùng nhiệt đới và được trồng tại nhiều nơi để làm cây thuốc và đă nhanh chóng chiếm được một vị thế vững chắc.
Cây này có thể độc hại, nhưng chất dầu chiết ra từ hạt và cây có thể được sử dụng trong một loạt thuốc cổ truyền để trị các chứng bệnh như ung thư, phỏng, đau răng, và ợ nóng.
Ở VN th́ hay đối vỏ bưởi , vỏ cam, vỏ quưt phơi khô, rồi quạt nhẹ nhẹ để hun khói gầm giường , gầm tủ mỗi khi về chiều ... để pḥng chống muỗi ...
Bức ảnh được cung cấp bởi Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ CDC cho thấy một nhánh nấm Aspergillus được cho là thủ phạm của đợt bùng phát viêm màng năo.
Bức ảnh được cung cấp bởi Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ CDC cho thấy một nhánh nấm Aspergillus được cho là thủ phạm của đợt bùng phát viêm màng năo.
VOA - 05.10.2012
Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ CDC nói rằng số ca được xác nhận viêm màng năo nấm hiếm hoi do chích steroid đă tăng từ 34 lên 47. Số các ca tử vong được xác nhận vẫn giữ nguyên 5 người.
Số liệu mới này đă làm cộng đồng y khoa Hoa Kỳ lo ngại, các nhân viên điều tra vội vă thông báo cho hằng trăm và có thể hằng ngàn người trên cả nước rằng các vụ chích steroid vào tủy sống để chữa đau lưng có thể đă bị nhiễm độc bởi một loại nấm.
Các điều tra viên nói rằng những bệnh nhân tại 7 tiểu bang chích loại thuốc này (methyl-prednisolone acetate) trong khoảng thời gian giữa tháng 7 và tháng 9 có nguy cơ mắc bệnh nhất.
Các nhà điều tra y khoa thu hẹp cuộc khảo cứu của họ về nguồn nhiễm độc cho một công ty dược phẩm ở tiểu bang Massachussets. Tuần này, họ đă t́m thấy loại nấm khả nghi trong ít nhất một lọ gắn kín dung dịch steroid tại cơ sở sản xuất của công ty.
Hơn 17.000 lọ thuốc này đă bị thu hồi ngay lập tức.
Viêm màng năo là hiện tượng sưng màng của năo bộ tủy sống. Bác sĩ John Jernigan, một chuyên gia dịch tễ học tại CDC, nói những triệu chứng sơ khởi của bệnh viêm màng năo nấm nơi các bệnh nhân có thể khác nhau.
Các pḥng bào chế thuốc thường hay phối hợp các dược phẩm thành những liều và những h́nh thức có thể không có sẵn trên thị trường.
Bác sĩ William Schaffner tại Trung tâm Y khoa Vanderbilt nói vụ bột phát bệnh viêm màng năo này cho thấy các pḥng bào chế thuốc cần có những quy luật tốt hơn.
Ông cũng cảnh báo rằng có thể có những ca bệnh thêm nữa về viêm màng năo nấm bởi v́ giai đoạn ủ bệnh của nó.
Các giới chức y tế nói cho tới nay, đa số các trường hợp tử vong và mắc bệnh này xảy ra tại tiểu bang Tennessee.
Bệnh động kinh là gánh nặng cho các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển đang chứng kiến tỷ lệ tăng cao về các chứng bệnh không lây nhiễm như tiểu đường, ung thư và bệnh tim mạch. Nhưng các nhà khảo cứu nói các nước đó vốn đă có một con số không cân xứng về các ca bị chứng động kinh so với các nước giàu hơn.
Các nhà khảo cứu nói mặc dầu động kinh là “một trong các chứng rối loạn tốn kém nhất để điều trị,” các nước đang phát triển mang một “gánh nặng.” Họ nói rằng con số người bị chứng động kinh sống ở các nước có thu nhập thấp hay trung b́nh cao gấp đôi.
Các kết quả được đưa ra trong tạp chí y khoa The Lancet.
Giáo sư phân tâm học của trường Đại học Oxford, ông Charles Newton, là tác giả chính của cuộc khảo cứu. Ông dành phần lớn thời gian ở Kenya và Tanzania cho các chương tŕnh Wellcome Trust. Ông giải thích:
“Động kinh là t́nh trạng trong đó một sự phát sinh quá độ về thần kinh hay điện trong năo bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường.”
Động kinh là một từ bao trùm cho t́nh trạng gây ra bởi nhiều nguyên do và có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào. Ông cho biết:
“Nó có thể do di truyền. Nó có thể có các lư do về gien. Nó có thể gây ra v́ bị nhiễm trùng, bị chấn động lúc sinh nở, bị thương tích ở đầu hay cả do những thứ như đột quỵ hay khối u trong năo.”
Ông Newton cho hay ở châu Phi chấn thương lúc sinh nở thường là do thiếu chăm sóc sản khoa. Và nhiễm trùng năo có thể là do những chứng bệnh trong đó có viêm màng năo và sốt rét. Chứng bệnh này cũng có thể có nhiều h́nh thức:
“Ta có thể thấy những người nh́n sững vào khoảng không rất thường xuyên trong ngày. Những người có các cảm giác lạ kỳ như ảo giác, hay những nười lăn đùng bất tỉnh nhân sự, cứng đơ rồi bắt đầu co giật, lăn lóc dưới đất, nhiều khi đi tiểu ướt cả người.”
Những người bị chứng động kinh c̣n có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn nhiều. Chẳng hạn như một người bị co giật có thể bầt tỉnh và dễ bị té, bị phỏng hay bị các tai nạn lao động hơn.
Động kinh là một vấn đề sức khỏe đă có từ lâu đời. Dự án Trị liệu Động kinh nói rằng nhà vật lư học Hy Lạp Hippocrates đă viết cuốn sách đầu tiên về chứng bệnh này vào năm 400 truớc công nguyên. Ông định phá vỡ các huyền thoại, mô tả nó như một chứng rối loạn năo bộ.
Bất kể quan điểm ban đầu đó, những người bị động kinh đă phải đối đầu với sự kỳ thị và thành kiến. Chứng bệnh này, nhiều lúc đă bị mô tả là hậu quả của phù phép, không phải chỉ hồi xưa, mà cả ngày nay nữa.
Ông Newton nói thành kiến và sự kỳ thị khiến cho những người bị chứng động kinh bớt đi cơ may được giáo dục, đi làm hay thậm chí kết hôn. Gia đ́nh họ thường tránh né. Ông Newton nói không nhất thiết phải như thế:
“Động kinh có thể kiểm soát được với các loại thuốc men tương đối ít tốn kém. Chỉ cần từ 5 đến 10 đôla mỗi năm là có thể kiểm soát được những cơn động kinh hoặc giảm thiểu số lần động kinh nơi khoảng 70% những người mắc bệnh.”
Thuốc thông thường nhất dùng để điều trị động kinh ở châu Phi là Phenobarbital. Tuy nhiên, thuốc này có những phản ứng phụ, như hiếu động thái quá và nổi mần da nơi trẻ em và gây buồn ngủ nơi người lớn. Ông Newton nói các loại thuốc mơi hơn đă được phát triển trong những năm vừa qua:
“Vấn đề là tất cả các loại thuốc này rất đắt tiền và những người sống trong các khu vực nghèo khó không thể có được. Do đó tôi nghĩ rằng điều chúng ta cần chú ư đối với các khu vực nghèo khó là t́m cách có được các loại thuốc đă có sẵn và tương đối rẻ tiền, và chúng ta biết rơ các phản ứng phụ là ǵ.”
Nhưng ông Newton và các đồng sự nói rằng ngoài việc làm sao thuốc đến được với người bệnh nhiều hơn, cần phải có nhiều biện pháp hơn để giáo dục và ngăn ngừa chứng động kinh. Ông nói:
“Việc đầu tiên là cảnh báo các cộng đồng để thừa nhận rằng những người bị chứng động kinh thường không biết là ḿnh bị bệnh – và nếu họ biết là họ bị bệnh th́ lại không biết rằng bệnh có thể được kiểm soát bằng điều trị y tế.”
Ông Newton cho rằng nếu chăm sóc thai phụ được cải thiện, nếu có thể tránh được các vụ nhiễm trùng năo qua vệ sinh tốt hơn và các nỗ lực khác, nếu áp dụng việc bảo vệ tốt hơn để tránh chấn thượng đầu, th́ có thể ngăn chặn tới 50% các ca động kinh tại nhiều nơi ở châu Phi.
Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc bao gồm động kinh trong danh sách các chứng bệnh không lây nhiễm cần phải chú ư nhiều hơn.
Động kinh do sự phát sinh quá độ điện trong năo bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường
Mời các anh chị em tham khảo để biết rơ thêm về Chứng Co Giật (seizure) và cơn Động Kinh Co giật (Epileptic seizure = epilepsy = seizure disorder=Crises D'epilepsie) từ tài liệu cấp cứu và hồi sức tích cực của BS Nguyễn Văn Thịnh người có thâm niên nhiều năm trong ngành cấp cứu và đang làm việc tại Bỉ - Châu Âu . Bài viết cho thông tin và phác đồ trị liệu rất hay !!!
Cấp Cứu Nội Thần Kinh :
•Co Giật (Seizures)
•Cơn Động Kinh (Crises D'epilepsie)
•Trạng Thái Động Kinh (Status Epilepticus)
Theo Lynn biết th́ Y Khoa (Tây Y và Đông Y) đều có xác định và phân loại các kiểu động kinh dựa theo 1 số đặc điểm biểu hiện của căn bệnh động kinh khi xuất hiện trên người , và dựa vào sự khởi phát căn bệnh ở độ tuổi nào ... để từ đó BS Đông Y cũng như Tây Y có thể nhận dạng của từng trường hợp về hội chứng động kinh . Tuy nhiên, hầu như đại đa số ai cũng biết là phía Đông Y không có những công tŕnh nghiên cứu trên địa bàn rộng lớn như Tây Y, cho nên Đông Y không phân chia các loại động kinh chi tiết như tây Y . Dù vậy, trị liệu theo hướng Đông Y là phương pháp châm cứu để cấp cứu nội thần kinh xưa giờ cũng rất hiệu quả về tất cả các kiểu động kinh .
Theo Y văn hiện giờ th́ động kinh chia làm 2 loại chính : Co giật toàn phần (cơn động kinh liên quan đến cả 2 bên năo bộ cùng 1 lúc), co giật không toàn phần / Co giật một phần / Co giật cục bộ (cơn động kinh chỉ liên quan đến 1 bên năo bộ) . Phân định rơ ràng chi tiết hơn để trợ giúp BS nhận dạng chứng co giật trong việc chỉ định liều lượng và cho thuốc cứu chữa th́ cơ bản là liệt kê các loại động kinh như sau:
Co giật toàn phần (Primary generalized seizures)
•Absence seizures
•Atypical absence seizures
•Myoclonic seizures
•Atonic seizures
•Tonic seizures
•Clonic seizures
•Tonic-clonic seizures
Co giật không toàn phần / co giật một phần / Co giật cục bộ (Partial Seizures)
•Simple partial seizures
•Complex partial seizures
•Secondarily generalized seizures
The Following User Says Thank You to florida80 For This Useful Post:
Mọi người đều mong ḿnh có một sức khỏe tốt và tuổi thọ cao. Chúng ta thường hay ngưỡng mộ những người già sống thọ, dù tuổi đời đă đến 100 mà tinh thần vẫn minh mẫn, c̣n ḿnh th́ chỉ mới 40-50 mà đă cảm thấy sức khỏe không c̣n được như trước và thường bị ốm vặt này kia.
Thật ra th́ một người có khỏe mạnh và sống thọ hay không, 60% phụ thuộc vào chính bản thân ḿnh. Nếu quan sát kỹ cuộc sống và thói quen nghỉ ngơi làm việc của những người già sống thọ, đa phần họ đều làm được quy tắc “3 chậm 3 nhanh” dưới đây.
3 điều chậm
1. Ăn chậm
Có thể con người hiện đại ngày nay có nhịp sống quá nhanh, nhưng điều này cũng không nên trở thành lư do cho việc ăn quá nhanh. Chúng ta đều biết rằng những người sống ở vùng Địa Trung Hải sống rất trường thọ, ngoài chế độ ăn uống, họ c̣n có thói quen “ăn chậm nhai kỹ”.
(Ảnh: Shutterstock)
Khi ăn chậm, khoang miệng sẽ có đủ thời gian để tiết nước bọt hỗ trợ tiêu hóa và hấp thu, điều này là rất quan trọng đối với những người lớn tuổi mà răng đă yếu. V́ vậy nếu muốn sống thọ th́ cần phải “ăn chậm nhai kỹ”.
2. Tính t́nh chậm răi
Con người hiện đại ngày nay tính t́nh nóng vội, dễ nổi nóng, nhưng giận giữ hay phát tiết bực bội rất không tốt cho tim và gan, hơn nữa c̣n khiến chức năng miễn dịch của cơ thể gặp bất thường.
V́ vậy, nếu muốn sống thọ, nhất định phải học cách kiểm soát cảm xúc tiêu cực, ví dụ như có thể thông qua việc hít thở sâu, luyện tập thể thao, tu dưỡng đạo đức để điều ḥa cảm xúc. Khi tính t́nh dần chậm lại có nghĩa là bạn sẽ ngày càng sống thọ hơn.
(Ảnh: Shutterstock)
3. Nhịp tim chậm
Có những cuộc nghiên cứu phát hiện, tuổi thọ dài hay ngắn có mối tương quan rất rơ rệt với nhịp tim nhanh hay chậm, cũng có nghĩa là những ai có nhịp tim chậm, tuổi thọ thường sẽ dài hơn. Tim cần phải hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển máu, những người có nhịp tim chậm, mức tải của tim sẽ nhỏ hơn, sức khỏe cũng sẽ tốt hơn.
Đương nhiên cũng không phải là nhịp tim càng chậm càng tốt, cần phải kiểm soát trong khoảng 60-100 nhịp mỗi phút, càng thấp càng tốt. Nếu muốn nhịp tim chậm lại, cần kiên tŕ luyện khí công, thái cực quyền, chạy bộ, yoga v.v…
(Ảnh: Internet)
3 điều nhanh
1. Đi bộ nhanh
Khi đi bộ nhanh, mức Lipoprotein mật độ cao (cholesterol tốt) trong cơ thể sẽ tăng lên, có tác dụng bảo vệ tim mạch.
(Ảnh: Shutterstock)
2. Ngủ nhanh
Những người dễ đi vào giấc ngủ có nghĩa là cơ thể của họ dễ đi vào trạng thái ngủ sâu, đây là tiêu chí quan trọng để sống thọ. Nếu muốn đi vào giấc ngủ nhanh, có thể ngâm chân trước khi ngủ để cơ thể mệt mỏi được thư giăn. Bên cạnh đó cũng có thể vận động nhẹ như ngồi thiền, xoay vai, ấn huyệt bàn chân v.v… để hỗ trợ giấc ngủ.
(Ảnh: Shutterstock)
3. Đi vệ sinh nhanh
Để sống thọ, đầu tiên phải đảm bảo cơ thể được điều ḥa, đương nhiên cũng bao gồm vấn đề đi vệ sinh. Khi bị táo bón, chất thải tích tụ bên trong cơ thể sẽ khiến cơ thể không kịp thời đào thải ra bên ngoài, gây ảnh hưởng vô cùng xấu đối với cơ thể. Rèn thói quen đi vệ sinh tốt là vô cùng quan trọng, vừa phải đi vệ sinh đúng giờ, mát xa bụng, vừa nên ăn các loại thực phẩm giàu chất xơ và uống nhiều nước.
Chuột rút ở chân, hay choáng váng cẩn thận với t́nh trạng cục máu đông nguy hiểm
Cục máu đông sẽ gây nguy hiểm đến sức khỏe của bạn nếu nó nằm không đúng chỗ, nằm ở những vùng tĩnh mạch sâu gần cơ sẽ gây đau đớn, hoặc cản trở lưu thông máu trong cơ thể, thậm chí gây tắc nghẽn hệ tuần hoàn.
Đông máu là hiện tượng máu đặc lại và giúp bạn ngưng chảy máu khi bị chấn thương, nhưng một số cục máu đông có thể gây hại và thậm chí gây tử vong.
Nếu bạn chỉ đi một quăng đường dài trên máy bay hoặc trong ô tô, có tiền sử về các vấn đề đông máu, hoặc nhận thấy rằng bạn đang có những biểu hiện cảu triệu chứng máu đông th́ hăy đi khám ngay.
Theo trang Reader’s Digest, dưới đây là những dấu hiệu ban đầu cảnh báo hiện tượng cục máu đông bạn cần lưu ư:
Chuột rút ở chân
Những người từng được chẩn đoán đông máu cho biết trước đó họ hay bị chuột rút ở chân. Nguyên nhân có thể do một cục máu đông nằm trong tĩnh mạch sâu.
Theo báo cáo của Kristine Arthur, bác sĩ nội khoa tại Trung tâm y tế Orange Coast Memorial ở Fountain Valley, California, nếu bạn gặp trường hợp chuột rút ở chân thường xuyên mà không đi khám có thể dẫn đến t́nh trạng t́nh trạng tắc nghẽn phổi do cục máu này di chuyển đến phổi.
Ngứa ngáy kéo dài
Nếu bạn thấy ngứa ran dai dẳng ở một chi th́ có thể đây là một trong những triệu chứng cục máu đông.
Bên cạnh đó, nếu bạn có những dấu hiệu của hệnh huyết áp cao th́ hăy để ư đến dấu hiệu ngứa v́ hiện tượng máu đông (huyết khối) là nguyên nhân chính dẫn đến cao huyết áp.
Da nhợt nhạt hoặc đổi màu
Cục máu đông sẽ làm gián đoạn lưu lượng máu b́nh thường, thường dẫn đến t́nh trạng da dẻ nhợt nhạt hoặc đổi màu, triệu chứng này khá phổ biến và bạn có thể quan sát thấy rơ.
Nếu một khu vực da ở chân có màu nhạt hơn hoặc màu khác so với cả chân th́ rất có thể đây là một triệu chứng cục máu đông và cần được đi kiểm tra càng sớm càng tốt.
Nguy cơ bị cục máu đông vẫn xảy ra ngay cả khi bạn tập thể dục thường xuyên do vậy đừng nên chủ quan.
Nhiệt độ da thay đổi thất thường
Một triệu chứng cục máu đông phổ biến khác là sự thay đổi nhiệt độ nơi có cục máu đông.
Giống như sự đổi màu trên da, thay đổi nhiệt độ trên da là sự gián đoạn lưu lượng máu.
Đau lưng
Đau lưng là triệu chứng ít gặp của hiện tượng cục máu đông, nhưng nó có thể là một dấu hiệu cho thấy cục máu đông xuất hiện ở vùng chậu hoặc ở tĩnh mạch chủ dưới (tĩnh mạch bụng chính).
Những loại cục máu đông này có thể dẫn đến nguy hiểm nếu không được điều trị, v́ chúng sẽ cắt máu đến tứ chi.
Đổ quá nhiều mồ hôi
Đổ mồ hôi quá nhiều có thể là một trong những triệu chứng cục máu đông mà bạn không nên bỏ qua, cục máu đông lúc này có thể nằm ở phổi hoặc tim.
Đây là những loại cục máu đông rất nghiêm trọng cần được điều trị ngay lập tức.
Đột nhiên choáng váng
Đột nhiên bạn cảm thấy chóng mặt là một trong những triệu chứng của bệnh này.
Khi một phần của cục máu đông xuất hiện trong các mạch máu của năo, sẽ cản trở việc vận chuyển máu lên năo dẫn đến choáng váng.
Bạn sẽ dễ gặp phải t́nh trạng này khi thức dậy vào buổi sáng, v́ vậy hăy chú ư để phát hiện kịp thời.
Măng cụt ngừa tiểu đường, tăng cường sinh lực cho quư ông
TPO - Với đặc tính giải nhiệt nên măng cụt cực thích hợp để ăn vào mùa nắng nóng. Đặc biệt măng cụt c̣n được biết đến như một 'thần dược' chống tiểu đường, hạ huyết áp, tăng cường sinh lực cho quư ông và chữa nhiều bệnh nguy hiểm khác...
Ảnh minh hoạ: Internet
Theo nghiên cứu của y học hiện đại, vỏ quả măng cụt chứa 7-13% tanin, nhựa và chất đắng mangostin có tinh thể h́nh phiến nhỏ màu vàng tươi không tan trong nước, cây cũng chứa tanin. Quả măng cụt rất giàu protein và các loại lipit, có tác dụng bồi bổ rất tốt cho cơ thể. Người suy nhược, thiếu dinh dưỡng, người vừa khỏi bệnh đều có thể dung loại quả này để có tác dụng điều dưỡng.
Hàm lượng cao chất xanthone cao trong măng cụt có tác dụng pḥng chống ung thư cực tốt. Chất xanthone trong măng cụt c̣n có khả năng tiêu diệt sự sinh sôi quá độ của vi khuẩn và giữ cân bằng môi trường axit trong dạ dày, nhờ đó giảm thiểu nguy cơ phát triển các bệnh dạ dày . Hàm lượng vitamin E, C phong phú giúp nâng cao sức đề kháng, làm chậm lăo hóa…
Tăng cường sinh lực
Khả năng chống mệt mỏi của măng cụt là một trong những điểm lợi t́m thấy từ trái cây này. Có thể tiên đoán và tin được rằng măng cụt đem lại sự tăng cường sinh lực một cách an toàn. Những người dùng măng cụt đă từng khen ngợi về sự tăng cường sinh lực thấy rơ và trạng thái khỏe khoắn trong người.
Ngăn ngừa bệnh tim mạch
Bệnh tim và chứng động mạch có vách dày và cứng xảy ra khi tính đàn hồi của các mạch máu quanh quả tim không c̣n nữa. Măng cụt giúp củng cố hệ thống tuần hoàn qua hiệu năng chống vi thể và chống lăo hóa. Khi những mạch máu trở nên khỏe mạnh, nguy cơ của bệnh tim cũng giảm theo.
Khả năng chống mệt mỏi của măng cụt là một trong những điểm lợi t́m thấy từ trái cây này. Có thể tiên đoán và tin được rằng măng cụt đem lại sự tăng cường sinh lực một cách an toàn. Ảnh minh hoạ: Internet
Giảm huyết áp
Áp huyết cao là một trong những nguyên do đưa đến chứng động mạch có vách dày và cứng. Những mảnh vụn nhỏ nguy hiểm thường được cấu tạo và làm hẹp đường lưu thông máu trong các động mạch khiến gia tăng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ. Măng cụt đă tỏ ra hữu hiệu, nhất là đối với những người có một trọng lượng trung b́nh, trong việc giảm áp huyết và ngăn ngừa sự tấn công áp huyết của mạch máu đường phổi.
Cải thiện t́nh trạng dạ dày
Một trong những hậu quả của sự lăo hóa là sự giảm sút tự nhiên của các chất acid trong dạ dày. Điều này làm cho việc gia tăng vi khuẩn trong dạ dày và gây ra tiêu chảy, đau quặn, ợ hơi, và không thể hấp thu dinh dưỡng. Kháng thể Xanthones trong Măng cụt đă chứng tỏ khả năng tiêu diệt sự sinh sôi quá độ của vi khuẩn để cải tiến và tái lập sự quân b́nh trong dạ dày.
Giảm mùi hôi miệng
Lấy vỏ măng cụt đem đun sôi, lấy nước này súc miệng hàng ngày sẽ giúp giảm mùi hôi miệng, kháng khuẩn kháng viêm cực tốt.
Với khả năng làm thấp và điều ḥa lượng đường trong máu, cải thiện sinh lực, chống viêm, và làm giảm nhu cầu thuốc men v́ lượng đường trong máu xuống bất b́nh thường, Măng cụt có thể là điều cần thiết cho bệnh nhân tiểu đường.
Giảm cân hiệu quả
Pha chế trà từ vỏ măng cụt bằng cách thái nhỏ vỏ, mang phơi khô. Mỗi lần dùng cho một nắm nhỏ vào đun sôi với nước trong 5 phút.
Chữa đau bụng đi tiêu chảy, chữa lỵ
Cho chừng 10 vỏ quả măng cụt vào một nồi đất hay nồi đồng (tránh nồi sắt hay nồi tôn) thêm nước vào cho ngập rồi đun sôi kỹ trong ṿng 15 phút. Ngày uống 3 – 4 lần chén to nước này.
Hoặc có thể dùng theo đơn: Vỏ quả măng cụt khô 60g, hạt mùi 5g, hạt th́a là 5g, nước 1.200ml. Đun sôi, sắc kỹ cho cạn c̣n chừng một nửa (600ml). Mỗi lần uống 120ml. Uống mỗi ngày 2 lần.
Chữa lỵ
Dùng vỏ quả măng cụt 6g, rau sam, rau má, cỏ nhọ nồi, cỏ sữa (mỗi thứ 8g), trà xanh (loại ngon) 6g, cam thảo, vỏ quưt (mỗi thứ 4g), gừng 3 lát. Đem tất cả nấu lấy nước để uống trong ngày.
Lấy vỏ măng cụt đem đun sôi, lấy nước này súc miệng hàng ngày sẽ giúp giảm mùi hôi miệng, kháng khuẩn kháng viêm cực tốt. Ảnh minh hoạ:
Internet
Chống và ngăn ngừa bệnh tiểu đường (Tuyp II)
Với khả năng làm thấp và điều ḥa lượng đường trong máu, cải thiện sinh lực, chống viêm, và làm giảm nhu cầu thuốc men v́ lượng đường trong máu xuống bất b́nh thường, Măng cụt có thể là điều cần thiết cho bệnh nhân tiểu đường.
Giảm Cholesterol
Khi mà loại cholesterol xấu (LDL) bị oxy hóa trong ḍng máu và các động mạch, những mảng sợi sẽ được tạo ra. Các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng các kháng thể Xanthones trong măng cụt có tác dụng là giảm sự lăo hóa của loại cholesterol xấu (LDL), và ngăn ngừa sự tạo thành của những mảng sợi nguy hiểm.
Lưu ư: Măng cụt c̣n chứa thành phần đường khá cao v́ vậy người béo ph́ nên hạn chế ăn quả này. Măng cụt cũng có thành phần kali tương đối cao, cho nên người mắc bệnh thận và tim mạch cũng phải thận trọng khi ăn.
Sống lâu và khỏe mạnh là điều mà mọi người đều mong muốn. Trường Đại học California của Mỹ đă công bố một cuộc nghiên cứu trên 1.700 người lớn tuổi trong ṿng 15 năm. Nghiên cứu này cho thấy, sự ảnh hưởng của thói quen sống đối với sức khỏe có thể vượt qua cả nhân tố di truyền, trở thành nhân tố chính quyết định tuổi thọ.
Các nhà nghiên cứu đă tổng kết ra rằng tuổi thọ có một số nhân tố thiết yếu, trong đó có 3 nhân tố quan trọng sau:
1. Giữ ǵn cơ thể hơi có mỡ
Khoa học đă chứng minh rằng cơ thể của người lớn tuổi có tỷ lệ mỡ nhất định sẽ càng có lợi cho sức khỏe. Nghiên cứu của Đại học California phát hiện tỉ lệ qua đời sớm ở những người hơi quá cân, (nhưng chưa đạt đến mức béo ph́) khi c̣n trẻ sẽ giảm 3%. Nhà thần kinh học Claudia Kavas thuộc trường Đại học California cho hay: “Tuy khi c̣n trẻ hơi gầy th́ có lợi cho sức khỏe, nhưng khi về già mà quá gầy th́ lại rất không tốt.”
Vào năm 2016, những nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Oxford của Anh đă khảo sát trên gần 1 triệu người thuộc khu vực châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy, những người có chỉ số BMI nằm trong khoảng 23-24 là có tuổi thọ cao nhất, mức b́nh thường là 18.5~24.9.
(Ảnh: Shutterstock)
Nếu người trung niên và lớn tuổi quá gầy, lượng mỡ trong cơ thể không đủ sẽ làm giảm quá tŕnh trao đổi chất và khả năng miễn dịch, khiến khả năng chịu đói và chịu mệt kém, thậm chí c̣n dẫn đến một loạt các bệnh về loăng xương.
Mỡ trong cơ thể nữ giới giúp duy tŕ mức estrogen, điều ḥa nội tiết. Phụ nữ quá gầy sẽ có mức estrogen thấp, dễ xuất hiện các vấn đề về rối loạn kinh nguyệt, tắc kinh, vô sinh v.v…
2. Kiên tŕ 2 giờ đồng hồ sở thích mỗi ngày
Nghiên cứu trên phát hiện rằng mỗi ngày kiên tŕ 2 giờ đồng hồ sở thích sẽ làm giảm 21% tỷ lệ tử vong sớm. Cuộc nghiên cứu với hơn 6000 người trong ṿng 14 năm của trường Đại học Columbia (Mỹ) nhận thấy, nhóm người sống có mục tiêu cụ thể, có sở thích sẽ có tỷ lệ tử vong sớm thấp hơn 15% so với những người sống chán nản, vô vị.
(Ảnh: Shutterstock)
Khi làm điều ḿnh thích, chúng ta có thể kích thích hạch hạnh nhân của năo bộ tiết ra chất dopamine, mang đến cho chúng ta cảm giác vui vẻ, hạnh phúc, h́nh thành động lực tích cực về tâm lư. Kiên tŕ với các sở thích lâu ngày có thể giúp năo hoạt động tốt, giảm nguy cơ mắc chứng Alzheimer ở người già, khiến tâm trạng vui vẻ, giúp người lớn tuổi giữ được thái độ lạc quan, cũng như làm tăng cảm giác tồn tại, giúp họ thể hiện được ưu điểm của bản thân ở nhiều lĩnh vực.
3. Kiên tŕ vận động vừa sức
Người lớn tuổi nên vận động vừa sức, lựa chọn những môn thể thao phù hợp. (Ảnh: Shutterstock)
Tích cực vận động có lợi ích trong việc nâng cao chất lượng sống, những yếu tố như trí lực, thể lực và giao tiếp xă hội. Cần nhớ là người lớn tuổi nên vận động vừa sức, cố gắng tránh những môn thể thao mạo hiểm, cần chú ư 3 điều sau đây:
Lựa chọn môn thể thao phù hợp, ví dụ như người bị loăng xương nên luyện tập thể lực, người bị bệnh về hô hấp nên lựa chọn các bài tập sức bền.
Cần xem xét tổng hợp các yếu tố môi trường, địa điểm, thiết bị, thời tiết, tránh làm tổn thương khớp, giảm thiểu rủi ro vận động đến mức thấp nhất.
Kiên tŕ bền bỉ, nên lượng sức ḿnh. Trong lúc vận động cần đặc biệt chú ư bảo vệ các khớp.
Ăn tỏi có thể giúp chống bệnh
Alzheimer’s và Parkinson’s
Chất allyl sulfide trong tỏi có thể giúp ngăn ngừa cách bệnh như Alzheimer's và Parkinson's.
(H́nh minh họa: David Silverman/Getty Images)
LOUISVILLE, Kentucky (NV) – Các bệnh liên quan đến trí nhớ của người cao tuổi như Alzheimer’s hay Parkinson’s lúc nào cũng làm nhiều người sợ hăi. Chính v́ vậy, các nhà nghiên cứu đang t́m cách để giảm nguy cơ bị các bệnh này và một trong những cách đó là ăn tỏi.
Theo Newsweek, Hoa Kỳ có khoảng 5.8 triệu người bị Alzheimer’s và có thể lên đến 14 triệu người từ đây đến năm 2050. Các khoa học gia, bác sĩ vẫn chưa t́m được điều ǵ gây ra các bệnh trí nhớ này và vẫn chưa t́m được cách chữa trị.
Các nhà nghiên cứu muốn t́m cách ngăn ngừa các căn bệnh này và t́m hiểu hệ thống tiêu hóa có liên quan đến các vấn đề liên quan đến trí nhớ hay không. Ngoài ra, họ c̣n muốn t́m hiểu chất allyl sulfide trong tỏi có thể ngăn ngừa sự suy thoái trí nhớ không v́ đây là một chất giải độc và có nhiều lợi ích sức khỏe.
Tiến Sĩ Neetu Tyagi của đại học University of Louisville, một tác giả nghiên cứu, cho biết hệ thống tiêu hóa của người cao tuổi bị yếu đi, cũng như trí nhớ và dễ bị các bệnh như Alzheimer’s hay Parkinson’s. V́ vậy, ông và các nhà nghiên cứu khác chích allyl sulfide vào những con chuột 24 tháng tuổi để t́m hiểu.
Các nhà nghiên cứu cho rằng thí nghiệm chuột 24 tháng tuổi, gần giống như đang thử nghiệm với con người từ 56 đến 69 tuổi. Sau khi chích allyl sulfide vào những con chuột này, họ so sánh trí nhớ của những con chuột 4 tháng tuổi và 24 tháng tuổi không được chích chất giải độc trong tỏi.
Những con chuột được chích allyl sulfide vào có trí nhớ ngắn hạn và dài hạn tốt hơn, c̣n có hệ tiêu hóa khỏe mạnh hơn những con chuột không có chất này trong người.
V́ vậy, Tiến Sĩ Jyotirmaya Behera, đồng tác giả của nghiên cứu, cho rằng ăn tỏi tốt cho tiêu hóa và có thể chống suy thoái trí nhớ của người cao tuổi.
Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng đây là một phát hiện hay v́ có nhiều bằng chứng cho thấy sự liên kết giữa hệ thống tiêu hóa và trí nhớ. Tuy vậy, họ cho rằng nghiên cứu này chưa chứng minh được hoàn toàn ăn tỏi tốt cho trí nhớ v́ chưa được thử nghiệm lên con người.(TL)
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. V́ một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hăy ghé thăm chúng tôi, hăy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.