5 loại vũ khí sinh học từng được sử dụng dưới đây có nguồn gốc từ các loại vi khuẩn, virus nguy hiểm gây ra các trận dịch nặng nề.

Bức tranh mô tả cuộc vây hãm thành Kaffa, sử dụng bệnh dịch hạch làm vũ khí tấn công. Ảnh: History Collection
Yersinia pestis gây bệnh dịch hạch
Trong các cuộc chiến tranh, vi khuẩn dịch hạch đă được các đội quân lợi dụng để làm suy yếu sức mạnh kẻ địch. Năm 1346, lực lượng Tatar đă sử dụng máy bắn đá để bắn xác người bị bệnh dịch hạch vào trong thành Kaffa (tức Feodosia, Ukraine sau này) để công thành. Khi dịch bùng lên, người dân trong thành tháo chạy, mang theo dịch bệnh đến châu Âu gây ra đại dịch hạch “cái chết đen”.
Ước tính đại dịch này đă giết chết khoảng một nửa dân số châu Âu. Tương tự, năm 1710, quân đội Nga đă đưa thi thể các nạn nhân bệnh dịch hạch vào các thành phố của Thụy Điển. Trong Thế chiến II, quân đội Nhật Bản đă thả bọ chét bị nhiễm bệnh dịch hạch trên các khu vực đông dân cư ở Trung Quốc và Măn Châu.

Bọ chét là trung gian truyền bệnh dịch hạch. Ảnh: Vecteezy
Dịch hạch gây ra các triệu chứng sốt, nôn mửa, ho ra máu, mụn mủ đen trên da, nổi hạch to và thường gây tử vong trong ṿng ba ngày. Bệnh do bọ chét là trung gian truyền bệnh sang người, sau khi đốt các loài gặm nhấm nhiễm vi khuẩn như sóc, chuột.
Người khỏe mạnh cũng có thể mắc bệnh do ăn phải thịt động vật nhiễm bệnh hoặc lây từ người sang người khi hít phải giọt bắn hầu họng chứa virus. Bệnh có các thể hạch phổ biến và thể nhiễm khuẩn huyết, phổi và viêm màng năo gây tử vong từ 40% đến gần 100%. Dịch hạch được CDC Mỹ phân loại là vũ khí sinh học loại A do tính chất lây lan mạnh và nguy hiểm.

Bác sĩ đang tiêm huyết thanh chữa bệnh cho một bệnh nhân dịch hạch, trong thời kỳ bùng phát dịch hạch ở Karachi, Ấn Độ, ảnh chụp năm 1897. Ảnh: Welcomecollectionorg
Trước khi vaccine ngừa dịch hạch được sử dụng cho người vào năm 1897, Waldemar Mordecai Haffkine (1860-1930), người đầu tiên tạo ra vaccine dịch hạch bất hoạt đă tự thử nghiệm trên cơ thể của chính ḿnh. Trong 28 năm, từ năm 1897-1925, 26 triệu liều vaccine pḥng bệnh dịch hạch đă được gửi đi từ Ấn Độ. Hiện bệnh thỉnh thoảng vẫn c̣n xuất hiện tại một số khu vực trên thế giới, song đă có thuốc kháng sinh điều trị.

Một bưu điện tại Mỹ được kiểm tra sau khi có thông tin nơi này bị rải thư có chứa mầm bệnh than. Ảnh: Daniel Hulshizer/AP
Bacillus anthracis gây bệnh than
Năm 2001, các lá thư chứa bào tử bệnh than dạng bột được cố ư gửi đến các cơ quan truyền thông và thượng nghị sĩ Mỹ. Sự việc khiến 22 người nhiễm bệnh, 5 ca tử vong, hơn 30.000 người phải điều trị kháng sinh dự pḥng, 6 ṭa nhà cần khử khuẩn. Tổng thiệt hại lên tới hơn một tỷ USD, đồng thời gây hoang mang, sợ hăi cho người dân, xáo trộn giới chức chính quyền Mỹ và giới truyền thông.
Đây không phải lần đầu tiên mầm bệnh than được dùng làm vũ khí tấn công. Trước đó, trong Thế chiến I, mầm bệnh than được các nước Bắc Âu sử dụng để tấn công quân đội của Sa hoàng Nga. Đến Thế chiến II, quân đội Anh cũng đă sử dụng cách này để tiêu diệt đàn gia súc của phát xít Đức.

Vaccine pḥng bệnh than được sử dụng tại nhiều quốc gia như Mỹ, Nga, Anh... song chưa có tại Việt Nam. Ảnh minh họa: Vecteezy
Vi khuẩn Bacillus anthracis gây ra bệnh than có trong đất, nước và cây cỏ bị nhiễm bẩn. Bào tử của loại vi khuẩn này có tồn tại trong môi trường khắc nghiệt, yếm khí. Ở môi trường thích hợp, bào tử có thể sinh tồn hàng chục năm.
Bệnh than thể ngoài da thường gặp nhất, với khoảng 95% ca bệnh. Hai thể c̣n lại là thể đường hô hấp và thể đường tiêu hóa nguy hiểm hơn, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 90% nếu không được điều trị kịp thời. Chỉ với lượng vi khuẩn bệnh than bằng móng tay cũng có thể khiến hơn 10.000 thiệt mạng. Nhờ độ ổn định cao ở dạng khí dung, vi khuẩn Bacillus anthracis được CDC Mỹ phân loại thuộc nhóm vũ khí sinh học loại A.

Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư 1991, nơi có sử dụng độc tố botulinum đậm đặc. Ảnh: AP
Clostridium botulinum gây ngộ độc thịt botulinum
Chất độc botulinum được sản xuất bởi vi khuẩn Clostridium botulinum, dễ sản xuất và có khả năng gây chết người cao. Một gram độc tố này có thể giết chết hơn một triệu người nếu hít phải, được so sánh độc gấp 7 triệu lần nọc rắn hổ mang.
Những năm 1930, quân đội Nhật đă sử dụng đối với tù nhân trong thời gian chiếm đóng Măn Châu, Trung Quốc. Sau Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư (1991), Iraq cũng thừa nhận với nhóm kiểm tra của Liên Hợp Quốc rằng đă tạo ra 19.000L độc tố botulinum đậm đặc, trong đó khoảng 10.000 L được nạp vào vũ khí quân sự.

Vi khuẩn Clostridium botulinum dưới kính hiển vi. Ảnh: CDC Mỹ
Sau khoảng 12-36 giờ nhiễm phải loại vi khuẩn Clostridium botulinum, người bệnh có thể xuất hiện triệu chứng nh́n mờ, khó nuốt và nôn. Nếu không được điều trị kịp thời, người bệnh sẽ liệt mềm toàn thân, bao gồm cả cơ hô hấp và tử vong.
Tỷ lệ tử vong lên tới 70% nếu không được điều trị kịp thời. Clostridium botulinum nằm trong danh sách vũ khí sinh học nhóm A theo xếp loại của CDC Mỹ. Vi khuẩn phát triển trong điều kiện yếm khí. Hiện nay, các vụ ngộ độc Clostridium botulinum chủ yếu do tiêu thụ các thực phẩm có chứa chất bảo quản có tính axit thấp như rau, cá ngừ đóng hộp, cá lên men, cá muối, cá hun khói, cũng như các sản phẩm thịt như giăm bông và xúc xích.

H́nh ảnh mô tả cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha và Mexico năm 1521, mầm bệnh đậu mùa được xem là vũ khí mạnh nhất của Tây Ban Nha. Ảnh: WikiMedia Commons
Variola gây đậu mùa
Bệnh đậu mùa là một trong những căn bệnh tàn khốc nhất mà loài người từng biết đến, được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ hoặc Ai Cập hơn 3.000 năm trước. Trong nhiều thế kỷ, các trận dịch liên tiếp đă càn quét khắp các châu lục, tàn phá dân số và làm thay đổi tiến tŕnh lịch sử. Nữ hoàng Mary II của Anh, Hoàng đế Joseph I của Áo, Vua Louis I của Tây Ban Nha, Sa hoàng Peter II của Nga, Nữ hoàng Ulrika Eleonora của Thụy Điển và Vua Louis XV của Pháp đều tử vong do đậu mùa.
Trong chiến tranh Pháp - Ấn Độ (1754-1767), quân đội Anh ở Bắc Mỹ đă cố t́nh làm lây lan bệnh đậu mùa bằng cách tặng chăn và khăn tay có nhiễm virus đậu mùa cho người Mỹ bản địa. Dịch bệnh sau đó đă lan khắp các bộ lạc, gây tử vong cho hơn 50% dân số.

Binh lính Mỹ được tiêm vaccine đậu mùa tại Trường Y Quân đội vào khoảng năm 1920. Ảnh: Armyheritageorg
Đậu mùa gây sốt cao, nôn mửa và lở miệng, sau đó là các tổn thương chứa đầy dịch trên toàn bộ cơ thể. Cứ ba người mắc bệnh th́ có một người tử vong, những người sống sót có thể gặp các di chứng như mù ḷa, vô sinh. Trong một cuộc khảo sát được thực hiện tại Việt Nam năm 1898, 95% trẻ vị thành niên bị rỗ mặt và chín phần mười số ca mù ḷa được cho là do bệnh đậu mùa. Vào năm 1796, bác sĩ người Anh Edward Jenner (1749-1823) đă phát minh ra vaccine đậu mùa từ sử dụng virus ít độc hơn từ bệnh đậu ḅ. Nhờ vaccine được phổ biến, năm 1980, WHO công bố bệnh đậu mùa hoàn toàn được loại trừ, bao gồm cả Việt Nam. Loại virus này được xếp loại A về mức độ nguy hiểm trong số các vũ khí sinh học.

Người dân uống vaccine ngừa bệnh tả tại Hệ thống Tiêm chủng VNVC. Ảnh: Hoàng Dương
Vibrio cholerae gây bệnh tả
Trong Thế chiến II, Nhật Bản đă thử nghiệm bệnh tả trong chương tŕnh vũ khí sinh học. Nhiều tù nhân đă thiệt mạng trong quá tŕnh thử nghiệm. Loại vi khuẩn này được CDC Mỹ xếp vào nhóm B trong các vũ khí sinh học.
Bệnh tả do vi khuẩn Vibrio cholerae gây ra, lây truyền qua đường phân - miệng, khi thức ăn, nước uống bị nhiễm vi khuẩn. Bệnh gây tiêu chảy mất nước cấp tính và tử vong trong ṿng vài giờ nếu không được điều trị. Hiện bệnh tả vẫn c̣n lưu hành, theo WHO, năm 2023, có hơn 435.000 ca bệnh tả và hơn 4.000 ca tử vong được báo cáo từ 45 quốc gia. Cải thiện chất lượng nguồn nước, an toàn vệ sinh và uống vaccine tả được khuyến cáo giúp kiểm soát bệnh.