RLCD được xác định khi có sự thất bại trong đáp ứng t́nh dục, khiến người bệnh không thể tham gia quan hệ t́nh dục như mong muốn, t́nh trạng này xảy ra thường xuyên trong ít nhất 6 tháng, và không phải do các rối loạn hành vi, tâm thần, cơ thể hoặc do tác động của các chất khác.
Thông tin này được cung cấp với sự tư vấn chuyên môn từ BSCKII. Trần Thị Thu Hà - Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai nhằm giúp quư độc giả có cái nh́n toàn diện về con đường phục hồi và đi đến cuộc sống khỏe mạnh.
RLCD được xác định khi có sự thất bại trong đáp ứng t́nh dục, khiến người bệnh không thể tham gia quan hệ t́nh dục như mong muốn, t́nh trạng này xảy ra thường xuyên (dù có thể không liên tục) trong ít nhất 6 tháng, và không phải do các rối loạn hành vi, tâm thần, cơ thể hoặc do tác động của các chất khác. Cụ thể, dương vật không thể cương cứng đủ để giao hợp khi có ư định, biểu hiện dưới các dạng như: Cương cứng ban đầu nhưng mất đi khi giao hợp, chỉ cương cứng khi không giao hợp, cương cứng một phần không đủ, hoặc hoàn toàn không cương cứng. Ảnh minh họa: Internet
Chẩn đoán rối loạn cương dương
Chẩn đoán rối loạn cương dương (RLCD) thường dựa trên cả tiêu chí lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng.
Theo ICD-10, RLCD được xác định khi có sự thất bại trong đáp ứng t́nh dục, khiến người bệnh không thể tham gia quan hệ t́nh dục như mong muốn, t́nh trạng này xảy ra thường xuyên (dù có thể không liên tục) trong ít nhất 6 tháng, và không phải do các rối loạn hành vi, tâm thần, cơ thể hoặc do tác động của các chất khác. Cụ thể, dương vật không thể cương cứng đủ để giao hợp khi có ư định, biểu hiện dưới các dạng như: Cương cứng ban đầu nhưng mất đi khi giao hợp, chỉ cương cứng khi không giao hợp, cương cứng một phần không đủ, hoặc hoàn toàn không cương cứng.
Tiêu chuẩn DSM-5 chẩn đoán RLCD khi có khó khăn đáng kể trong việc đạt được hoặc duy tŕ sự cương cứng cho đến khi hoàn thành hoạt động t́nh dục, hoặc giảm đáng kể độ cứng của dương vật trong khi quan hệ t́nh dục. Các triệu chứng này phải xuất hiện trong hầu hết hoặc tất cả các lần quan hệ (khoảng 75%-100%), kéo dài tối thiểu 6 tháng, gây ra sự đau khổ đáng kể về mặt lâm sàng hoặc khó khăn trong giao tiếp, và không thể giải thích rơ hơn bởi một rối loạn tâm thần, t́nh trạng bệnh lư khác, hoặc tác động trực tiếp của một chất (ví dụ: chất gây nghiện, thuốc).
Quy tŕnh đánh giá rối loạn cương dương
Để chẩn đoán và điều trị RLCD hiệu quả, quy tŕnh đánh giá toàn diện là vô cùng quan trọng:
Đánh giá tiền sử bệnh lư: Khai thác chi tiết về tiền sử bệnh lư cơ thể và tiền sử t́nh dục của bệnh nhân và bạn t́nh. Cần mô tả cụ thể về độ cứng và thời gian cương cứng (khi được kích thích t́nh dục và vào buổi sáng), cũng như các vấn đề về ham muốn t́nh dục, hưng phấn, xuất tinh và cực khoái.
Khám thực thể: Khám sức khỏe tập trung vào hệ tiết niệu, nội tiết, mạch máu và thần kinh để phát hiện các dấu hiệu bất thường như bệnh Peyronie, tổn thương tiền ác tính/ác tính ở bộ phận sinh dục, ph́ đại hoặc bất thường tuyến tiền liệt hoặc các dấu hiệu gợi ư suy sinh dục.
Xét nghiệm cận lâm sàng cơ bản: Bao gồm xét nghiệm glucose máu, HbA1C, và testosterone toàn phần. Tùy thuộc vào t́nh h́nh lâm sàng, bác sĩ có thể chỉ định thêm các xét nghiệm như PSA (kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt) hoặc LH (hormon tạo hoàng thể).
Khi người bệnh có dấu hiệu RLCD, bác sĩ cho chỉ định khám sức khỏe tập trung vào hệ tiết niệu, nội tiết, mạch máu và thần kinh để phát hiện các dấu hiệu bất thường như bệnh Peyronie, tổn thương tiền ác tính/ác tính ở bộ phận sinh dục, ph́ đại hoặc bất thường tuyến tiền liệt hoặc các dấu hiệu gợi ư suy sinh dục. Ảnh minh họa: Internet
Xét nghiệm chuyên sâu:
Đo độ cương cứng dương vật về đêm (NPTR): Sử dụng thiết bị theo dơi để ghi lại số lần cương cứng, độ cứng tối đa và thời gian cương cứng trong giấc ngủ. Xét nghiệm này thường được thực hiện trong ít nhất hai đêm riêng biệt và giúp phân biệt RLCD do nguyên nhân hữu cơ (thường có kết quả bất thường) và RLCD do tâm lư (thường có kết quả NPTR b́nh thường).
Siêu âm động học dương vật (US): Một xét nghiệm chẩn đoán chuyên sâu, thường được áp dụng khi nghi ngờ nguyên nhân mạch máu gây RLCD (ví dụ: ở bệnh nhân tiểu đường, có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch).
Chụp cắt lớp vi tính thể hang: Cung cấp thông tin giải phẫu chi tiết, hỗ trợ chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị.
Đánh giá sức khỏe tâm thần: Sử dụng các công cụ đánh giá chuyên biệt như thang đo IIEF (International Index of Erectile Function) để đánh giá chức năng cương dương, xuất tinh, và mức độ thỏa măn t́nh dục; thang đo SHIM (Sexual Health Inventory for Men); đồng thời đánh giá mức độ lo âu, trầm cảm và nhận thức về t́nh dục của bệnh nhân.
Rối loạn cương dương không chỉ là một vấn đề thể chất mà c̣n ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lư, sự tự tin và các mối quan hệ cá nhân. Đừng ngần ngại t́m kiếm sự giúp đỡ từ các chuyên gia y tế. Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời có thể cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của bạn. Ảnh minh họa: Internet
Điều trị thế nào?
Điều trị RLCD đ̣i hỏi một cách tiếp cận đa chiều, tích hợp nhiều phương pháp khác nhau:
Thay đổi nhận thức: Bước đầu tiên quan trọng là cung cấp thông tin rơ ràng về các quá tŕnh tâm lư và sinh lư liên quan đến phản ứng t́nh dục, giúp bệnh nhân hiểu rơ về t́nh trạng của ḿnh.
Thay đổi yếu tố nguy cơ: RLCD thường liên quan đến các yếu tố lối sống hoặc các loại thuốc có thể điều chỉnh hoặc đảo ngược. Việc kiểm soát tốt các t́nh trạng bệnh lư đi kèm như tiểu đường, tăng huyết áp là bước cơ bản và cần thiết trước khi áp dụng các phương pháp điều trị đặc hiệu khác.
Trị liệu tâm lư: Các can thiệp tâm lư xă hội như đào tạo kỹ năng t́nh dục, liệu pháp hôn nhân và giáo dục tâm lư t́nh dục đóng vai tṛ quan trọng. Đặc biệt, liệu pháp Nhận thức và Hành vi (CBT) được khuyến nghị rộng răi (có thể thực hiện theo nhóm hoặc cặp đôi, thậm chí trực tuyến), nhằm thay đổi các mô h́nh nhận thức và hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến RLCD, đồng thời tăng cường khả năng thích ứng. Liệu pháp CBT kết hợp với các phương pháp khác thường mang lại hiệu quả tối ưu.
Điều trị nội tiết: Liệu pháp testosterone (dạng tiêm bắp, qua da hoặc uống) có thể được cân nhắc cho nam giới có nồng độ testosterone thấp hoặc dưới mức b́nh thường và đi kèm các vấn đề về ham muốn t́nh dục, chức năng cương dương.
Thiết bị cương cứng chân không (VED): Phương pháp này cho thấy hiệu quả cao (lên tới 90%) trong việc đạt được cương cứng đủ để giao hợp, không phụ thuộc vào nguyên nhân RLCD, với tỷ lệ hài ḷng từ 27% đến 94%. Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng lâu dài có thể giảm dần. Cần lưu ư các tác dụng phụ thường gặp như đau, không xuất tinh, xuất huyết dưới da, bầm tím và chống chỉ định ở bệnh nhân rối loạn đông máu.
Liệu pháp sóng xung kích (LI-SWT): Các nghiên cứu cho thấy LI-SWT có thể cải thiện chất lượng cương cứng, ngay cả ở những bệnh nhân RLCD nặng không đáp ứng với PDE5I.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP): Tiêm huyết tương giàu tiểu cầu vào thể hang đang là một phương pháp được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.
Cấy ghép dương vật: Bao gồm dương vật giả không bơm hơi (có thể uốn nắn) và dương vật giả bơm hơi.
Tế bào gốc: Một hướng nghiên cứu tiềm năng trong tương lai.
Lời khuyên của bác sĩ
Rối loạn cương dương không chỉ là một vấn đề thể chất mà c̣n ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lư, sự tự tin và các mối quan hệ cá nhân. Đừng ngần ngại t́m kiếm sự giúp đỡ từ các chuyên gia y tế. Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời có thể cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của bạn.
VietBF@ sưu tập
|
|