Những tờ giấy màu trắng thường được gọi chung Fabric Softener dùng bỏ vào máy sấy để cho quần áo thơm tho, mềm mại hơn và không bị dính nhau lại, còn có nhiều công dụng khác nữa. Sau đây là những kinh nghiệm mà nhiều phụ nữ đã chia sẻ để chúng ta biết sử dụng Fabric Softener cho nhiều mục đích khác nhau :
1. Khi bạn đặt một miếng Fabric Softener ở gần nơi có kiến, chúng sẽ chạy đi hết.
2. Tránh được mùi hôi mốc bằng cách kẹp một miếng giấy Fabric Softener vào sách hay cuốn album lâu ngày không mở ra.
3. Vào mùa có nhiều muỗi, khi ra ngoài vườn sinh hoạt, bạn có thể đeo nơi thắt lưng một miếng Fabric Softener thì mấy chàng muỗi sẽ không thèm lại gần.
4. Dùng miếng Fabric Softener để lau những vết xà bông đóng ở cửa kính của bồn tắm.
5. Làm cho đồ ṿật hay áo quần thơm tho và tươi mát bằng cách đặt một tấm Fabric Softener trong mỗi hộc tủ hay treo trong closet.
6. Ðể tránh chỉ bị rối hãy dùng miếng Fabric Softener vuốt sợi chỉ đã xâu vào kim trước khi may.
7. Nếu không muốn vali đựng quần áo bị ẩm, hãy đặt một miếng Fabric Softener dưới đáy trước khi xếp hành lý mang theo.
8. Làm cho không khí trong xe hơi trong lành bằng cách đặt một miếng Fabric Softener dưới ghế ngồi.
9. Muốn rửa sạch những thức ăn dính chặt bên trong xoong nồi thì hãy đặt một miếng Fabric Softener vào trong xoong rồi ngâm nước qua đêm.
Hôm sau mới dùng miếng sponge để chùi rửa. Chất dùng để chống lại sự dính nhau (static) có trong Fabric Softener sẽ làm cho đồ ăn rớt ra khỏi xoong nồi dễ dàng hơn.
10. Ðặt một miếng giấy Fabric Softener dưới đáy của mỗi thùng rác để tránh mùi hôi.
11. Dùng miếng Fabric Softener để lau những nơi có dính lông chó hay mèo, nó sẽ lấy đi những lông rụng đó một cách sạch sẽ.
12. Dưới mỗi giỏ đựng quần áo dơ, bao giờ cũng đặt một miếng Fabric Softener để khỏi có mùa hôi.
13. Làm cho giày không có mùi hôi bằng cách đặt miếng Fabric Softener trong đó qua đêm. Ngày mai, đôi giày sẽ thơm tho để mang đi làm hay đi học.
14. Dùng Fabric Softener để lau mặt kính máy TV sẽ làm cho bụi bặm bớt đóng lớp trên đó.
Với bản án dã man phủ lên đầu những thanh thiếu niên còn nhiệt huyết, còn có lòng với đất nước, tập đoàn cầm quyền muốn nhắc lại với trăm họ: tội gì cũng có thể tha, nhưng đụng tới chuyện làm ăn, buôn bán (buôn dân, bán nước) của chúng ông, sẽ phải trả giá rất đắt.
Cái dã man, cái khốn nạn, cái đểu cáng, cái khiêu khích đã vượt giới hạn, ở một xứ ngoạc mồm đòi giống Paris, Singapour, Tokyo… nhưng sống ngoài quỹ đạo của nhân loại, ngoài thế giới tử tế của những người còn lương tri.
Jean de La Fontaine nói có hai công lý: công lý của những người quyền thế, và công lý cho những kẻ thấp cổ bé miệng. Việt Nam ngày nay sáng chế ra hai loại luật pháp: luật pháp dành cho đồng đảng trộm cướp, và luật pháp dành cho những người làm cản trở chuyện kinh doanh của bọn cướp ngày.
Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng lém lỉnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt, đến khi chị vênh mặt hỏi: - "Tôi có chỗ nào không ổn?".. Anh mới ngượng ngùng sực tỉnh... lí nhí... nói câu xin lỗi...! Không biết sao... anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất viá, còn chị thì tỉnh rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình... Sau đó anh hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày.
Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba, người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình.., nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu tiên của anh. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ một đều là anh nói tiếng Việt giọng Bắc rất chuẩn, và lưu loát như được đào tạo qua trường lớp đàng hoàng.
Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ gay, làm chị nổi tính nghịch ngợm, muốn trêu cho anh quê chơi... Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, biểu ăn thử..., anh cũng tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc, anh ho, anh khóc..., còn chị, nhả trái ớt ra, ôm bụng... cười ngặt nghẽo. Anh cay quá, có ý giận, cầm ly nước bỏ lên lầu một mách... Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em, bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi. Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao. Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ, anh đi công tác...
Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi.. áy náy đó thôi. Tuần sau anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy, anh xách va li đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng.. làm chị thấy.. "tự ái ghê gớm luôn...”
Một hôm chị đang học thi Tú Tài bán, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối, xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma.. Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận ra chị ngay, và de xe ngược lại.... dù đang giận lây, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không nói, chị cũng không...( đang hờn mát mà.) Gần tới nhà, anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị:...
- Sao em ghét tôi quá vậy?
Bị hỏi thình lình, Chị ấm ớ:
- Tôi đâu có ghét anh đâu?
Anh nhìn vào mắt chị, (trời ạ, tối thui, sao mắt anh ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao...)
- Thế sao em vẫn muốn tôi khóc, để em cười...?
Tự nhiên chị thấy lúng túng, may quá tới nhà rồi, chị cảm ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo....
Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ về một chàng trai... Sáng ra, trước khi đi học, chị có ý chờ xem có gặp anh không nhưng không gặp, đến giờ, chị phải lên lớp thôi. Chiều về chị cũng không gặp... Ba chị nói, anh về nước có chuyện gấp... Mấy ngày anh không có nhà, chị như người mất hồn, chị cứ ra vô..., ăn ngủ không yên....... Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy? Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng, ánh mắt long lanh, chị cười... nói huyên thuyên. Anh bỏ xách đồ xuống, rạng rỡ nhìn chị, âu yếm lắng nghe, và cuối cùng hỏi chị một câu lãng òm:
- Bộ em nhớ tôi lắm hả?
Câu hỏi bất ngờ, làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt... như ăn trộm bị bắt quả tang... mắc cỡ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình vậy nhỉ?), chị vờ có việc... kiếm đường dông lẹ...
Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai choai con nít, nói cười ầm ĩ.. Tới tối... tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng, rồi anh bỏ đi... Ôm bó hoa, chị hồi hộp... Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo...:
Em của tôi.
Lần đầu gặp... em đẹp như một bức tranh...,
Lần thứ hai gặp, em tinh quái như một con mèo...,
Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp trái tim tôi..
Bây giờ... tôi bắt đền...em để trái tim tôi ở đâu???
Trời đất! phải làm sao đây, đọc xong bức thư, chị tái mặt... lại cả đêm trằn trọc, sáng ra mặt chị trõm lơ, không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn nói làm sao?
Mối tình của chị bắt đầu như vậy..., dễ thương, nhẹ nhàng...
... Năm ấy, chị thi Tú Tài IBM lần đầu ở Qui nhơn, đậu ngay hạng bình. Tràn đầy tự tin, chị xúc tiến thủ tục đi du học.... Nhưng một sáng mùa hè, năm 75, Anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về... toàn bộ nhân viên Ngoại Giao được lịnh rút khỏi VN, Anh gọi điện thoại cho Ba chị, xin Ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không chịu. Anh lại xin ba chị cho cưới để đem chị theo, nhưng ba chị cũng không chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ? Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã...
Biến cố 75 ập tới, Ba chị đi tù, (là nhân viên cao cấp bộ Ngoại Giao), nhà cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan. Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một thời gian dài... Rồi cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc nghiệt, nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình, vì thấy anh rất sợ mẹ... không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chữa, chị cũng phải quần quật không khác gì con sen, nên với chồng chị có phần oán trách, và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.
Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề... Mẹ chồng lúc nào cũng bóc bạch, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nỗi có lần chị xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá quá không chịu nổi... nhưng rồi... chị phát giác mình mang thai đứa con thứ hai.. Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với những thương yêu cũ, sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù, đã kể lại với giọng ân hận... "Biết vậy Ba gả con cho nó.."
Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể... để đưa chị đi. Nhưng tình trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, thì chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị, khi phải đành đoạn mà xa nhau...và chị chấp nhận số phận, không còn oán trách anh nữa. Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa chỉ & số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy dài, chẳng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi.
Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị gầy, khô như que củi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa... đâu rồi nhỉ?.... Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ.. chuyến đi vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh không chịu, đi thì phải đi cùng, lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối cùng mẹ chồng nhượng bộ... vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi. Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy... Nhưng mấy hôm sau nữa.. thì... máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển... Môi nứt nẻ, rướm máu, sức làn lực kiệt.... mấy lần chị hôn mê tưởng chừng không bao giờ tỉnh lại, trong cơn mộng mị..., chị thấy mình về lại ngày mới lớn, vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn... tươi đẹp... nhuộm xanh cả bầu trời...... hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và.... trời thương, đã có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bỏng ngủ vùi trong lòng mình, và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp. Có lẽ nhờ đó, mà ý chí cầu sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ...
Nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê... Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bịnh xá xa lạ, thần trí hoang mang, mơ hồ, chị hỏi đây là đâu?. Qua người y tá bản xứ, chị biết đây là một đảo thuộc Mã Lai. Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê. Trước khi ngất, không hiểu sao.... trong tiềm thức, như một lời trăng trối, chị rút cái địa chỉ, giấu trong lai áo, đưa cho tên y tá, nhờ đánh dùm điện tín cho người này, nói chị đang ở đây... Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh non, mà chị lại quá yếu, bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nỗi cả mẹ lẫn con không.. Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác... hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bỏng vuốt ve trên mặt... Chị như được được hồi sinh lần nữa... Bác sĩ quyết định mổ.
Như cơn gió lốc..
Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, tướng thư sinh, tuy khuôn mặt bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên Hiệp Quốc để xác minh, anh đã không hề chợp mắt... Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn chị bé bỏng... hôn mê trên giường bệnh.
Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng, con, và một đứa nữa sắp chào đời... Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa... Hôm qua nay đầu óc anh tràn đầy xúc động..., anh véo tay mình mấy lần, để chắc, đây không phải là một giấc mơ.
... Kiếp nào có yêu nhau... thì xin hẹn đến mai sau.. (PD)
Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, anh thảo luận với bác sĩ, nói chuyện với chồng chị,... giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ. Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng, chuyển về bịnh viện lớn ở thủ đô, với sự chăm sóc đầy đủ nhất. Cùng ơn trên gia hộ, chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con... Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, nhỏ như con chuột, đỏ hỏn, ngo ngoe trong lồng kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình, anh ngỏ lời với chồng chị, xin làm cha đỡ đầu cho đứa bé..
Trước hôm về lại Mỹ, Anh & Chị.... lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo... Bên giường bệnh nhìn chị ốm xanh như chiếc lá, ánh mắt yêu thương, anh như ngàn lời muốn nói.., nhưng anh biết,.. có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình...... Chị nhìn anh... Cảm kích? biết ơn? Những thứ này có nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng, nhưng cũng như anh, chị biết... mình không thể nói, hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ... nên tự nhủ lòng... phải quên thôi! Ánh mắt nhìn nhau... thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu "Em xin lỗi....."
Có những niềm riêng một đời giấu kín..
Như rêu như rong đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi... (LTH)
Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong có một xấp tiền mặt. Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng anh cứ bắt chồng chị phải nhận, anh nói:
- Cứ coi như tôi cho mượn, sau này, anh có... thì trả lại cho tôi...
Bốn tháng sau, giữa năm 80 gia đình chị chính thức định cư ở San jose, Ca... Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó, chị có thêm một thằng cu tí ra đời, nhìn ba đứa con, ngày mỗi lớn, chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều. Mổi năm đến ngày lễ lớn, hay sinh nhật của từng đứa con chị, anh đều gởi thiệp, gởi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy vậy cũng tốt, thôi thì... cố coi như "chỉ là giấc mơ qua.” Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng. Món tiền 7 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho anh sau 3 năm tới Mỹ.. Nợ tiền đã trả được... nhưng nợ tình thì sao? Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống độc thân..., công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc bận rộn làm vui…
Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại, bà thương chị như con, dù chưa bao giờ gặp... tuy nhiên bà biết mặt chị, qua tấm hình trong phòng anh. Những gì bà ấy nói, thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh... Hai người đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con chị gọi bà là bà Ngoại... Một chiều mùa thu, bà gọi cho chị biết anh đang bịnh nặng. Chị muốn đi thăm lắm, nhưng công việc làm đang có tính cách bó buộc, hơn nữa có những lý do tế nhị, chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh. Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm, nhưng anh còn yếu, chưa nói chuyện được. Mẹ anh, vừa khóc, vừa nói vớí chị:
- Con biết không?.. bà con, bạn bè, đồng nghiệp gởi hoa tới bệnh viện rất nhiều, nhưng cho đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu.... mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con, đem về nhà... để trên đầu giường..
Chị... rớt nước mắt.... thương anh.!
Hai năm sau.. đang giờ làm việc... mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải phẫu tim không thành công. Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa, đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót... Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của anh và chị. Khóc thương cho người đàn ông, đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không bao giờ ngưng nghỉ.... chưa hề đòi hỏi ở chị một điều gì...!
Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản, nhìn chị với ánh mắt tràn ngập thương yêu... mỉm cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử. Anh cám ơn thượng đế, đã cho anh gặp... và yêu chị... Chị đau đớn nghẹn lời, cũng chỉ nói được một câu... "Em xin lỗi.." Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị rằng:
- Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu xin lỗi..
Đám tang anh vào một ngày đầu Đông..... buồn. Anh hưởng dương 46 tuổi.
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó.......... ( BG)
Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh... nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ.... đặc biệt dành riêng... Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của Luật Sư.., sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều... sau cái chết của con.... Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết, cả ba đứa con chị, đều có phần trong tài sản của anh để lại, số tiền không nhiều, nhưng dư đủ cho cả ba đứa, vào học những trường Đại Học danh tiếng nhất...
Chiều tàn... bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu... mà lúc anh còn sống,... chị đã không thể nói...... Theo gió... chị gởi tới anh, những lời tình muôn thuở của một tình yêu, mà chị biết, kiếp này và... cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại...... văng vẳng bên tai chị nghe... có tiếng anh thì thầm "...Nếu có kiếp sau, xin em đừng nói câu.."Xin lỗi "
Tóc mai sợi vắn sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm
Xinh Đẹp Chỉ Là Chiếc Vé Ưu Tiên, Còn Tao Nhã Mới Là Giấy Thông Hành Vĩnh Viễn
Tao nhã là một loại điềm tĩnh không chút sợ hãi khi đã trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống, là sự trưởng thành khi đã xóa đi những ngây ngô thuở thiếu thời. Một người tao nhã, sẽ luôn có nét quyến rũ độc đáo, một tâm hồn phong phú, bình đạm.
Một người tao nhã phải là người khoan dung hào sảng
Trong xã hội bát nháo này, tao nhã giống như một làn gió trong lành, khiến người ta mở lòng vui vẻ, bởi vì trong tim có núi sông, thì bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu, đều sẽ hiện ra dung nhan thanh tú và phong thái ưu nhã say đắm lòng người.
Tao nhã không phải là sự thanh cao không vướng mùi tiền bạc, cũng không phải là ngân nga tiếng hát theo gió hoa trăng tuyết, càng không phải là cố ý phô diễn bản thân, lúc nào cũng giữ tư thế ngồi ngay ngắn, để cho người khác tán thưởng. Tao nhã vốn dĩ không phải là để cho người khác xem, mà thực sự là tu luyện từ trong tâm, rồi bộc lộ ra sắc thái, thể hiện ra vẻ ngoài.
Mà vẻ ngoài này chỉ là một phần biểu hiện của nội tâm mình, không liên quan gì đến người khác. Một người tao nhã có thể ở trong cuộc sống buồn tẻ mà làm tốt chính mình, học cách cho đi, biết cách cảm ơn, trong trái tim có tình yêu, thấu tình đạt lý, khoan dung lương thiện chính là tao nhã.
Tao nhã không phải là bẩm sinh mà có được, nó là sự kết hợp hoàn hảo giữa tâm hồn và trí tuệ. Sự tao nhã của một người là kết quả có được từ việc đọc sách, từ sự trải nghiệm trong cuộc sống; đó là một biểu tượng của sự tự tin, độc lập và thanh cao. Phẩm chất này xuất phát từ sự hiểu biết về cuộc sống, và là sự kết tinh và tích lũy từ cuộc sống.
Tao nhã tuyệt đối không chỉ là vẻ đẹp về ngoại hình, mà còn là một loại trí tuệ bên trong được phản ánh qua các điều kiện khác nhau của cuộc sống.
Một người tao nhã nhất định phải có một đôi mắt biết cảm nhận cái đẹp, một tâm hồn nhân hậu, có một trí tuệ nơi sâu thẳm trong tâm hồn được hình thành qua năm tháng. Điều quý giá nhất trong cuộc sống là sự trải nghiệm qua hàng ngàn thăng trầm của cuộc sống mà vẫn có thể giữ được một trái tim dịu dàng lương thiện. Tao nhã sẽ phóng ra một nét duyên dáng tự nhiên, đó là một vẻ đẹp sâu sắc.
Sự tao nhã có lẽ liên quan đến tuổi tác, nhưng cũng liên quan nhiều hơn đến sức mạnh của bản thân
Một người tao nhã phải là một người có tính tự giác, dù cho thế giới bên ngoài hấp dẫn như thế nào, cũng không bị lung lay, mà biết tự giữ mình và khoan dung; dù là đang sống trong hoàn cảnh khốn khó trắc trở, thì cũng vẫn giữ gìn sự trong sạch và thanh cao.
Cho dù cuộc sống đưa chúng ta vào tình huống như thế nào, thì vẫn có thể tự mình tỉnh ngộ, biết tôn trọng và biết cảm ơn, bình dị không toan tính với bạn bè, dịu dàng hào phóng với người thân; không coi thường và xa lánh người khác.
Tao nhã có thể liên quan đến ngoại hình, nhưng nó còn liên quan nhiều hơn đến việc tu dưỡng nội tâm. Một người không có suy nghĩ, cho dù có trang điểm thật hoàn hảo đi nữa, cũng không thể che giấu đi sự xấu xí trong lòng, ngược lại còn làm cho người ta cảm thấy đạo đức giả.
Một người tao nhã phải biết cách tự yêu quý bản thân, tự tin và cá tính độc lập, trí tuệ vững chắc, ăn nói điềm đạm, khuôn mặt thuần tịnh và có một tấm lòng lương thiện, đẹp mà không phô trương, vừa vừa phải phải.
Lincoln nói rằng vẻ ngoài của một người 30 tuổi là do cha mẹ cho, còn khi 40 tuổi thì chúng ta phải tự chịu trách nhiệm về vẻ ngoài của mình. Khi một người có một nội tâm tao nhã, thì bất kể là ngoại hình có như thế nào đi nữa, thì đều duyên dáng đến mê hồn. Vẻ đẹp thực sự là một loại khí chất phát từ trong ra ngoài, thích một người là bắt đầu từ vẻ đẹp ngoại hình, bị hút hồn bởi tài năng, nhưng sẽ mãi si mê trung thành với nhân phẩm.
Một người tao nhã sẽ biết cách giữ miệng, bất kể khi nào hay ở đâu đều sẽ không ba hoa, càng sẽ không khoác lác thể hiện khắp nơi, bởi vì đó là thể hiện của sự nông cạn, chỉ khiến cho người ta cảm thấy chán ngán.
Vẻ ngoài xinh đẹp có thể là một chiếc vé ưu tiên, nhưng không thể là chiếc vé thông hành vĩnh viễn
Ưu thế vật chất chỉ là một loại ưu thế bên ngoài, còn sự phong phú về nội tâm mới là vẻ đẹp vĩnh hằng. Một người thực sự tao nhã, sẽ biết giỏi vượt hơn người khác, đó không phải là cao quý, mà sự cao quý thực sự chính là giỏi hơn so với chính mình trong quá khứ. Họ giỏi học hỏi và biết cách tiến bộ, những người tao nhã giống như trầm hương vậy, tỏa ra hương thơm thoang thoảng, giữ cho tinh thần luôn dịu dàng ấm áp và tính cách độc lập. Cử chỉ duyên dáng này là một sự tu luyện cá nhân và cũng là một món quà từ Thượng đế.
Người tao nhã sẽ không nổi trận lôi đình vì một chuyện nhỏ nhặt, cũng sẽ không dễ dàng thể hiện một biểu cảm xấu xí trước mặt người khác, càng sẽ biểu hiện thờ ơ trước kẻ yếu đuối; họ biết cách tôn trọng và lắng nghe, học cách quản lý cảm xúc của mình, gương mặt luôn nở nụ cười, tận hưởng ánh nắng mặt trời. Một người tao nhã chắc chắn phải lương thiện, trái tim của họ thơm mát như hoa lan; tao nhã là một mùi hương lắng đọng theo năm tháng.
Sự tao nhã của cuộc sống chính là sau khi trải qua bao nhiêu phong ba trắc trở, ta vẫn có thể nở một nụ cười điềm tĩnh, mùa xuân ngắm hoa, mùa thu ngắm trăng; mùa hạ thưởng thức hoa sen, mùa đông nghe tuyết rơi; bất kể tâm trạng thay đổi như thế nào, cũng đều giữ lấy một trái tim bình thường, ngắm nhìn gió trăng.
Ngay cả khi cuộc sống không cho chúng ta những gì chúng ta muốn, thì chúng ta vẫn có thể không oán trách, không đổ lỗi, dám đối mặt với những thăng trầm, và không kinh sợ trước sự vinh quang hay nhục nhã. Bởi vì truy cầu ít đi, nên sẽ cảm thấy nhận được nhiều hơn, bởi vì đơn giản, nên bước đi mới ung dung. Báo đáp lại tất cả cho cuộc sống với một trái tim biết ơn, thái độ quyết định cuộc sống, một người tao nhã, chắc chắn có thể thu hoạch được những món quà quý giá từ cuộc sống.
Người tao nhã sống trên dòng sông dài năm tháng, có lẽ họ không phải là những con sông lớn lúc thăng lúc trầm, mà chỉ là những dòng suối tâm hồn ấm áp; họ không phải là những đóa hoa thơm ngát trong nhà kính, mà là đóa hoa cúc nhẹ nhàng tỏa hương thanh lịch; họ không mang sự quý phái ung dung như hoa mẫu đơn, nhưng lại có mùi thơm khiêm nhường của hoa lan; họ không mang vẻ ngoài lộng lẫy khiến người khác phải kinh ngạc, mà họ có sự dịu dàng khiến bạn phải vấn vương.
Tao nhã là sự kiên định dịu dàng, là một chiếc áo khoác ấm áp cho bản thân, đó là một sự can đảm ung dung bình tĩnh, họ mang một tâm thái ung dung đối diện với năm tháng, là điều mà không phải ai cũng có thể làm được.
– Với một bộ trưởng ăn nói “ngáo”: “tăng viện phí, mọi bệnh nhân đều được lợi”
– Nhập vacin dỏm về chích chết mấy chục trẻ em mà vẫn không ai chịu trách nhiệm
– Nhập thuốc trị ung thư dỏm về móc túi người bệnh, đẩy người bệnh đến chỗ tiền mất tật mang. Tội đáng “dựa cột” mà chỉ bị mấy năm “tù” che mắt thế gian, vì liên quan tới em chồng “không phải người nhà” của bộ trưởng
– Các bệnh viện quá tải, có nơi có lúc 3-4 bệnh nhân một giường mà giá vẫn đắt hơn giường khách sạn
– Bệnh nhân đến, dù là cấp cứu, phải có thủ tục “đầu tiên”, nếu không thì nằm chờ chết. Chết rồi không có tiền thuê xe, người nhà bó xác vào chiếu chở bằng xe máy về nhà
– Bệnh nhân tử vong bị đưa xuống nhà xác, người nhà không trả tiền thì đừng hòng lấy xác ra
…
Ta nói một nền y tế khốn nạn thì có gì quá đáng, phản động?
Một nền giáo dục:
– Có bộ trưởng ngọng níu ngọng no, đạo văn làm luận án
– Hiệu trưởng mua dâm học sinh, rồi lại dùng các cháu để làm quà biếu quan thầy
– Các nữ giáo viên, ngoài giờ lên lớp, có khi còn phải làm “nhiệm vụ chính trị” là đi hầu rượu hoặc tiếp viên karaokê cho quan khách
– Học sinh sv đổi tiền lấy điểm, đổi tình lấy điểm không còn là chuyện hiếm
– Giáo viên nam ấu dâm, quấy rối tình dục với cả hs tiểu học, thậm chí mẫu giáo, bị tố cáo nhưng vẫn được bao che.
Giáo viên nữ kỷ luật bằng cách bóp vào nơi “nhạy cảm” của hs nam
– Bạo lực tràn ngập học đường: giáo viên đánh hoặc đánh nhau với hs ngay trong lớp học; học sinh đánh nhau, có khi lấy mạng bạn mình vì lý do lạt nhách; nữ sinh đánh hội đồng bạn gái trong lớp, đánh lột đồ bạn trên đường phố, bạn bè đứng quanh không ai can ngăn, còn thích thú quay clip tung lên mạng
– Cô giáo mầm non, giữ trẻ “khủng bố” các cháu như với quân thù
– Vì con cái của các lãnh đạo hoặc kẻ lắm tiền nhưng dốt nát, người ta sẵn sàng sửa điểm thi tốt nghiệp (cũng là đại học) cho chúng từ thấp thành cao, thậm chí từ trượt thành thủ khoa, ăn cướp bao cơ hội của con cái nhà nghèo không thế lực, mong học hành để đổi đời
– Đào tạo đại học tràn lan, phần lớn thời gian học những môn không thiết thực, không gắn với nhu cầu, không đạt chuẩn, dẫn đến thừa hàng trăm ngàn cử nhân không có việc làm, phải giấu bằng cử nhân đi làm cn hay chạy xe ôm Grab…
Với một nền giáo dục như vậy mà người ta vẫn tự hào “ưu việt” trên thế giới, đứng trên cả Mỹ , Úc.
Ta nói nền giáo dục đó là cực kỳ thối nát, có gì là quá đáng, phản động?
Hai phúc lợi cơ bản của xã hội, nhất là lại được khoe là đang đi đến “tốt đẹp nhất của loài người” mà như thế, thì đó là xã hội gì
Hầu hết với những người bị cận thị, và phải đeo kính đều cảm thấy rất khó chịu với chiếc kính của mình khi phải ăn những món đồ nóng như mì tôm, lẩu thậm chí chỉ là thở thôi mà kính cũng bị mờ do hơi nước bốc lên, mỗi lần như vậy chúng ta lại phải tháo kính ra lau khô hơi nước trên kính đó nhưng sau đó đâu lại vào đấy, kính lại vẫn tiếp tục có thể mờ thật khiến cho người ta chỉ muốn "phát điên".
Lúc đấy bạn chỉ ước quay lại thời gian để chăm sóc mắt tốt hơn để mắt mình không bị cận khỏi phải đeo cặp mắt kính khó chịu này hoặc ít ra có một cặp kính thần kỳ nào đó có cần gạt nước như cần gạt ô tô để có thể giúp ích cho bạn ngay lúc này.
Thế nhưng, bạn đừng lo lắng điều mong ước của bạn sẽ trở thành hiện thực thôi, bạn không phải sống với sự khó chịu từ hơi nước bốc lên làm mờ kính nữa mà lại cũng chả cần đến chiếc cần gạt nước ô tô đâu. Tất cả những gì bạn cần đó là nước rửa tay và khăn bông mềm. Nghe thật khó tin và kỳ diệu đúng không, vậy hãy xem bài viết hướng dẫn này nhé.
•Những lưu ý khi đeo kính áp tròng
•15 nỗi khổ khó nói chỉ những người đeo kính cận mới hiểu
•Những thói quen vô tình khiến mắt bạn ngày một tăng độ
Bạn chuẩn bị một chiếc khăn bông sạch và mềm để lau kính nhé. Sau đó đổ một chút nước rửa tay lên khăn bông.
Bước 2:
Lau kính bằng khăn
Bạn hãy bắt đầu lau phần khăn có nước rửa tay lên mặt kính, lau liên tục cả 2 mặt trong và mặt ngoài của kính nhé.
Bước 3:
Lau sạch phần nước rửa tay còn lại
Sau khi lau xong, bạn đừng rửa kính dưới nước mà hãy tận dụng luôn chiếc khăn bông này để lau khô và sạch hết phần nước rửa tay còn dính trên kính.
Thành quả sau khi thực hiện
Bây giờ thì tận hưởng thành quả thôi nào, với cách đơn giản này bạn có thể thoải mái ăn mì tôm hay lẩu mà không lo bị hơi nước bốc lên làm mờ kính nữa nhé!
Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.
Một người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.
Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.
Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.
Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
Trích trong Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật IV Thường Niên
Trưa thứ Bảy, sau một tuần lễ đi huấn nghiệp xa nhà, tôi lái xe về, vừa quẹo vô khoảng sân cul-de-sac trước nhà, tôi thấy lố nhố mấy chiếc xe và nhiều người đứng bàn tán ngay trên sân trước của bà hàng xóm kế bên phải của nhà tôi, tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Một người hàng xóm tiến về phía tôi và cho hay bà BJ mới được xe cấp cứu chở đi nhà thương trong tình trạng gần như bất tỉnh. Tôi không ngạc nhiên chút nào vì đã biết trước thế nào cũng có ngày này vì bà BJ đã già yếu và bệnh hoạn triền miên xem chừng khó có thể sống lâu được nữa.
Sẽ có người nói chuyện hàng xóm thì xưa như trái đất, ở đâu cũng vậy, có người khó tính không thể chịu nổi, có người dễ thương, hiền lành, dễ hòa đồng. Đúng vậy, xóm tôi cũng giống như mọi khu xóm khác, nhưng tôi muốn kể bạn nghe về một người phụ nữ hàng xóm độc thân của tôi, người này không thuộc loại nào trong hai loại đó. Bà không phải là cô “láng giềng ơi” của nhạc sĩ Hoàng Quý, hoặc cô thôn nữ nhà bên với vẻ e ấp, nên thơ, và sầu muộn như nhà thơ Nguyễn Bính tả: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn.
Tám năm trước đây, bà BJ và tôi mua hai căn nhà gần kề nhau cùng một lúc. Chúng tôi chào nhau, tự giới thiệu tên tuổi thật nhanh, rồi ai lo việc người đó. Tháng sau, tôi dọn vô, nhìn qua thấy căn kế bên đang còn sửa chữa và sơn mới lại. Vài tháng sau đó, một chiếc U-Haul thật lớn mang bảng số New-York cũng lăn bánh vào sân. Bà BJ run run bước xuống xe. Những người khuân vác làm việc cật lực mang vô nhà rất nhiều thùng giấy được dán băng keo cẩn thận, phải nói là quá nhiều đồ vật. Tôi hơi thắc mắc chồng con bà đâu mà không thấy một ai. Bán anh em xa, mua láng giềng gần, nên tôi thỉnh thoảng qua giúp bà khuân vác và treo những tranh ảnh trên tường mà vẫn không thấy bóng dáng chồng con của bà.
BJ là một người đàn bà da trắng, tóc bạc phơ, trạc 70 tuổi, vóc dáng nhỏ bé, da nhăn nheo, gầy guộc, lưng hơi còng, nhưng khuôn mặt rất sắc sảo, đặc biệt đôi mắt lạnh lùng tạo cho người đối diện một cảm giác e dè, khó thân thiện. Thoạt nhìn, tôi không mấy thiện cảm, nhưng tình hàng xóm cũng nảy nở dần theo thời gian. Bà cho biết chồng bỏ đi từ lâu lắm rồi, lúc bà còn trẻ, cả hai không có con cái gì nên chia tay dễ dàng. Trong giọng nói bà có vẻ khinh bỉ ông chồng bằng cách buông thõng một câu “he was a useless guy, I kicked him out”, một kẻ vô tích sự, trước khi kết thúc câu chuyện.
Tôi hỏi đùa bà có buồn khi sống một mình không? Bà nói bà không cần có chồng mà vẫn sống vui vẻ, thoải mái, muốn làm gì thì làm, khỏi vướng víu chân tay. Tôi đùa rằng bà phải rất tự hào vì cả mấy chục năm nay chưa một người đàn ông nào được hân hạnh nắm bàn tay của bà. Bà đáp anh nói rất đúng, tôi thấy không cần thiết phải có người đàn ông.
Trước đây bà là giám đốc tiếp thị, Marketing Director của hãng General Electric và về hưu đã hơn 10 năm nay, bà đưa tôi xem một số hình ảnh khi còn tại chức, trong đó có bức hình chụp chung với nhiều giám đốc khác ở chỗ làm, một mình bà, thấp và nhỏ con nhất, với nét mặt kiêu hãnh, đứng giữa hai bên là những đấng nam nhi, tai to mặt lớn, áo vét thẳng nếp, cao hơn bà cả cái đầu. Như một bông hoa lạc giữa rừng gươm, bà vẫn ngẩng cao đầu với khuôn mặt tự tin không kém cạnh một ai.
Về hưu, bà sống ở New-York, đồng thời coi sóc và cho thuê một nhà kho lớn (warehouse) ở đó mà bà là người chủ duy nhất. Hơn 70 mùa lá rụng với những mùa đông lạnh lẽo dài lê thê, một bầu trời xám xịt, những làn gió buốt giá, và sự cô đơn kéo về, bà muốn kiếm một miền đất ấm áp chan hòa ánh nắng nên bà chọn Arizona để gởi gắm cuộc đời còn lại.
Lai lịch của bà gây cho tôi một ấn tượng mạnh rằng đây là một người đàn bà thép, không phải thân liễu yếu đào tơ, chân yếu tay mềm cần một bờ vai để tựa đầu. Bà không thích giao tiếp nhiều với hàng xóm. Đôi khi tôi có cảm giác bà bất đắc dĩ phải giao tiếp với tôi vì hai nhà ở sát cạnh nhau. Vì vậy, kính nhi viễn chi là thái độ tôi chọn để giao tiếp với bà. Bề ngoài, tôi vẫn vui vẻ, lịch sự khi nói chuyện với bà, nhưng vẫn giữ một khoảng cách cần thiết. Tôi luôn nhấn mạnh rằng nếu bà cần chi, cứ cho biết, tôi sẽ giúp nếu có thể.
Tất cả những người hàng xóm khác cũng đến chào hỏi thăm và làm quen với bà như thông lệ, bà cũng đáp lại một cách xã giao, có phần lạnh nhạt khiến họ khá phật lòng. Họ nói chắc tôi đặc biệt lắm nên bà mới làm bạn với tôi. Tôi đoán có lẽ tôi là người Á Châu duy nhất ở đây nên bà đối xử khác thường chăng? Mấy đứa con nít hàng xóm lỡ chơi skateboard trên sân nhà bà sẽ bị mắng xối xả nên chúng cũng tránh né không dám đến gần. Nói chung hàng xóm không mấy ai muốn kết thân với bà bà trừ gia đình chúng tôi và một gia đình hàng xóm khác ở bên trái nhà tôi.
Gia đình này là một cặp vợ chồng trung niên và một đứa con trai trạc tuổi con trai tôi. Người chồng đi làm tối ngày, nhưng người vợ chỉ ở nhà ăn không ngồi rồi nên hay lê la lắm chuyện. Mỗi khi bà bắt chuyện với ai thì người đó nên kiếm một cái ghế và ngồi xuống vì đôi môi của bà sẽ không bao giờ kịp ăn da non. Vì nói nhiều và nói khéo nên bà từ từ có được cảm tình của bà già hàng xóm. Tôi đặt cho bà này biệt danh cô môi mỏng.
Vì thái độ không thân thiện và bẳn gắt nên hầu hết người trong xóm không hiểu bà là người như thế nào, giàu nghèo ra sao, trước đây làm gì. Tôi và cô môi mỏng là hai người duy nhất biết một chút về quá khứ của bà. Tôi đoán cô môi mỏng mà biết thì chẳng bao lâu cả xóm đều biết.
Mùa Giáng Sinh năm ấy, bà tự tay giăng đèn, trang trí sân trước với những con nai, máng cỏ Chúa Hài Đồng, và vô số các hình tượng có đèn xanh đỏ rực rỡ. Bà bắc thang trèo lên cao để mắc những giây đèn màu ven theo mái nhà. Nhìn bà run rẩy trèo lên bước xuống thang mà tôi thấy ái ngại, nhưng bà vẫn cương quyết làm cho xong. Bà cho tôi coi một cái trống đồng Đông Sơn cổ của Việt Nam khiến tôi vô cùng ngạc nhiên và hỏi ở đâu mà bà có? Bà chỉ cười nói đó là 1 trong những đổ cổ bà sưu tập. Tôi không phải người chơi đồ cổ nên không chắc đây là đồ thật hay chỉ là 1 cái trống đồng làm nhái (replica) mà thôi.
Qua những đồ vật trang trí trong nhà, tôi biết bà rất giàu có nhưng hà tiện. Bà tự làm lấy những việc quanh nhà dù đó là những việc nặng nhọc. Nhìn bà đi lại khó khăn với cái lưng còng mà thấy tội nghiệp. Tôi tự hỏi sao bà không thuê người làm thay cho đỡ cực thân. Thỉnh thoảng bà lại đi bệnh viện để mổ, nắn lại cái xương sống lưng, không phải 1 lần, mà rất nhiều lần. Bà nuôi hy vọng bà có thể đứng thẳng lưng được như lời bác sĩ hứa. Sau mỗi lần mổ, sức khỏe bà xuống dốc nặng nề, bà bước đi còn nghiêng ngả hơn trước mà cái lưng còn còng hơn trước. Tôi có khuyên bà nếu không cần thiết thì đừng mổ nữa vì tuổi đã cao và cuộc giải phẫu không có vẻ gì là giúp cho lưng bà thẳng lên được. Bà chỉ im lặng không nói gì.
Bà khoe có nhiều bất động sản ở New York, nhiều quỹ hưu trí, nhiều đồ cổ sưu tập trong nhà. Nhưng cách sống của bà thì rất keo kiệt và chi li đến từng đồng. Đặc biệt, bà ta rất cứng đầu, không bao giờ nghe lời và không tin ai cả. Cái gì bà đã quyết là làm tới cùng. Bà tự làm lấy những công việc như cắt tỉa cây cối sân trước sân sau mà không bao giờ chịu mướn người làm thay. Bà nhờ tôi mua máy thổi lá cây và tự làm lấy một mình. Đôi khi tôi phải chạy sang làm giúp bà vì thấy dáng run rẩy. đi đứng khó khăn của bà sau những lần mổ xương sống, càng làm cho bà thêm đau đớn và khó tính hơn.
Một lần tôi mướn thợ cắt cành của 2 cây Meskite ở sân trước vì chúng chạm vào mái nhà. Nghe tiếng cưa máy nên bà bước ra sân nhìn. Bà hỏi tôi trả bao nhiêu tiền. Tôi cho bà biết số tiền tôi trả công anh thợ. Bà nhờ tôi hỏi người thợ cắt luôn cho cây Palo Verde to lớn của nhà bà. Anh thợ qua nói chuyện giá cả trực tiếp với bà. Hôm sau, khi xong việc, anh thợ về nhà; bà sang ngay bên tôi và trách sao anh ta đòi tiền mắc quá. Tôi đoán có lẽ cây nhà bà to hơn nên anh ta đòi tiền thêm. Bà tỏ vẻ bực mình và ngúng nguẩy bỏ về nhà không nói với tôi thêm lời nào.
Tuần sau, bà bắc cái thang và mua 1 cái cưa điện mới tinh để tự mình cắt cành cây. Lui cui làm sao, cành cây rớt xuống trên đầu bà, làm cái thang và cả bà lật ngang một bên, té xuống cái sân sỏi đá khiến bà xây xước, chân tay rướm máu vì gai góc đâm vào da thịt vốn đã xương xẩu của bà. Hàng xóm không ai hay cho đến khi mấy đứa con nít bấm chuông cửa nhà tôi và nhờ ra coi bà có bị gì không. Tôi chạy vội ra gỡ cành cây, đỡ bà ngồi dậy, và dìu bà vào nhà. Khuôn mặt bà hầm hầm và tức giận một cách lầm lỳ. Trước đây, tôi có nhắc bà nên mua một loại dụng cụ đeo vào cổ (medical alert system) như giây chuyền, nếu té ngã, nạn nhân chỉ cần bấm 1 cái nút trên đó, nó sẽ phát tín hiệu cầu cứu vì bà đã cao tuổi và ở một mình. Bà nói tốn tiền. Tôi cố thuyết phục chỉ 30 đô la một tháng. Bà nhất quyết không nghe.
Thời gian ngắn sau đó, sau khi các vết thương lành hẳn, bà nhờ tôi coi nhà giùm và tưới cây cảnh trong khi bà đi xa. Rồi bà trở về với một người đàn ông to béo khoảng 50 tuổi lái 1 chiếc U-Haul khá lớn, chất đầy đồ đạc. Ông ta phải khuân vác tất cả những thùng giấy vô nhà, bà nói với tôi đây là chuyến cuối cùng chở tất cả đồ đạc về đây. Bà kể lể và than phiền về cuộc hành trình mệt mỏi, dằn xóc, từ New York đi bằng chiếc xe dọn nhà quỷ quái này. Bà và người đàn ông, ngày lái, đêm ngủ motel, mất gần 4 ngày mới về đến đây. Tôi phải lắc đầu chịu thua sự cứng cỏi của bà.
Bà nói anh này là “gay”, dân đồng tính, nó thiếu nợ bà nhiều tiền lắm nên bà bắt nó theo bà về đây làm việc để trừ nợ, nếu làm tốt, bà sẽ cho một số tiền để nó trở về New York làm đám cưới với “vợ” của nó. Một hôm anh này qua nhà tôi nhờ scan dùm mấy tài liệu riêng tư và gởi qua điện thư email cho vợ sắp cưới của anh ta vì bà già không có máy in (printer). Tôi làm dùm rồi để hắn dùng địa chỉ email tôi gởi đi, nhưng tôi hoàn toàn không để ý là giấy tờ gì.
Một tuần sau, bà BJ qua nhà tôi than thở rằng “thằng gay” ăn cắp đồ nhà bả và tuồn ra một chỗ nào đó, rồi sau đó ghé qua lấy, đoạn lái chiếc U-Haul thẳng về New York. Giờ hắn đổi địa chỉ nên bà không biết nó ở đâu để thưa cảnh sát. Tôi coi lại email và máy scan mới tìm được địa chỉ của cặp “vợ chồng” này trong 1 tài liệu. Tôi in ra và đưa cho bà già. Bà nhờ luật sư gởi giấy đến địa chỉ và đòi bồi thường, nếu không bà sẽ thưa chúng ra tòa. Bà cười một cách khoái trá và khoe với tôi là vợ chồng 2 thằng đồng tính đó phải trả giá vì dám ăn cắp đồ của bà.
Ngày tháng trôi đi, tôi bắt đầu đi làm ở nước ngoài nhiều, ít có dịp qua giúp đỡ bà BJ. Thỉnh thoảng về, tôi ghé hỏi thăm, có vẻ như bà không còn thân thiện như xưa. Tôi để ý thấy đôi mắt mờ đục của bà nhìn tôi như xa lạ. Hàng xóm nói hình như bà bị Amnesia, một căn bệnh tuổi già khiến trí nhớ kém dần đi. Một lần bà chợt hỏi:
-Anh từ đâu đến?
Tôi biết trí nhớ của bà giờ lãng đãng rồi, bà ở kế nhà tôi đã mấy năm rồi mà vẫn không nhớ mình là ai. Tôi khẽ đáp:
-Tôi là người Việt Nam.
-Tôi ghét người Đại Hàn và món ăn của họ. Bà chợt xa xầm nét mặt.
-Vậy bà có ghét người Việt Nam và cuộc chiến Việt Nam không? Tôi hỏi.
-Không, không, tôi không chưa bao giờ đến Việt Nam nên không có dịp tiếp xúc với người Việt.
Bà kể khi còn làm việc với GE, bà hay qua Nam Hàn gặp gỡ khách hàng bên đó. Bà không thích người Đại Hàn vì họ thô lỗ lắm. Đồ ăn của họ, cái gì cũng có 1 chút xíu, trong cái chén cũng bé tí teo mà mùi thì nặng nề, khó ngửi. Xứ sở gì đâu mà kỳ cục. Tôi nhận ra trí nhớ của bà bắt đầu có vấn đề.
Cô môi mỏng bên trái nhà tôi cho biết trong lúc tôi đi làm xa, có đứa cháu trai từ New York ghé thăm bà và ở lại một thời gian ngắn. Ông này khoảng gần 60 tuổi, thân hình mập quá khổ, dễ chừng đến gần 350 pounds, mỗi lần đi đứng rất khó khăn và thở rất mệt nhọc. Ông nhờ chúng tôi để ý coi chừng có ai lạ đến thăm bà không. Anh nói đến một số tiền khá lớn của bà hình như bị ai đó lừa lọc và chiếm đoạt cách nào đó mà không ai rõ.
Cô môi mỏng tiết lộ rằng hình như bà BJ bị lừa mất một số tiền rất lớn qua mạng. Cô cho biết bà BJ khoe có quen với một người đàn ông ở Nigeria, Châu Phi. Ông này hứa sẽ bay qua Mỹ cưới bà. Hiện bà BJ vẫn gởi tiền đều đều cho tên lừa đảo này bằng nhiều cách. Tôi hỏi sao cô biết? Cô không trả lời mà chỉ khẽ suỵt ra dấu im lặng. Cô còn cho hay tuần này, gã người tình ảo hứa sẽ lái xe đến trước cửa nhà đón bà đi du lịch. Bà đã chuẩn bị sẵn hai cái suite-cases với quần áo, passport, và tiền bạc đầy đủ để đợi người tình không chân dung của bà.
Cô nói đã báo cảnh sát và FBI, họ đang âm thầm theo dõi vụ lừa đảo này. Họ yêu cầu phải có đơn thưa gởi từ bà BJ thì họ mới có cơ sở để tiến hành vụ này. Nhưng mỗi lần cô môi mỏng khuyên nhủ BJ, bà ta chỉ ậm ừ cho qua, rồi đâu vẫn hoàn đó. Sau đó, bà đóng cửa nhà và đóng cả cửa lòng với hàng xóm. Bà ít ra khỏi nhà, chỉ ra lấy thư từ khi rất cần thiết. Bà dành thời giờ để “chat” với người tình ảo Phi Châu.
Sáng thứ Hai, trước khi tôi lái xe ra khỏi nhà để đến phi trường, tôi thấy bà đứng trước cửa nhà để xe với một khuôn mặt xanh xao, gầy gò đến tội nghiệp. Bà đứng im lặng, mắt nhìn xa xăm mà như không nhìn thấy gì khi tôi vẫy tay chào bà. Hôm nay thứ Bảy, tôi trở về thì hay tin bà nằm nhà thương cấp cứu. Cô môi mỏng cho hay mấy ngày nay không thấy bà ra lấy thư nên cô nghi ngờ có chuyện gì xảy ra. Cô đến và mở hộp thơ của bà, thùng thơ đầy như không còn chỗ chứa. Cô bèn gọi sở cứu hỏa, nhưng nhân viên cứu hỏa nói họ không có quyền phá cửa vô nhà khi chưa có bằng chứng rõ ràng rằng chủ nhà đã chết.
Sau cùng cô phải gọi cảnh sát và họ phá cửa vô nhà. Bà nằm xõng xoài trên nền gạch giữa những vũng chất thải, không biết đã mấy ngày, còn thở thoi thóp. Nghe kể lại, bà BJ không còn nhận ra ai, hơi thở yếu lắm, chỉ khò khè qua cổ họng. Bà như cái xác không hồn khi họ đưa bà ra khỏi nhà. Tôi hỏi cô sao không khuyên bà mua medical alert đeo ở cổ, cô nói có khuyên nhủ nhưng bà không nghe. Bà nói bà còn khỏe lắm, không cần những thứ này.
Ngay chiều hôm đó, cô môi mỏng báo tin bà BJ đã qua đời tại bệnh viện. Chúng tôi lấy gỗ đóng niêm phong cánh cửa mà họ đã phá để vào nhà sáng nay. Là hàng xóm kế bên, tôi phải làm người canh gác nhà bất đắc dĩ cho bà.
Vài ngày sau, người cháu trai bay từ New York qua, đi với một người luật sư và một người cảnh sát, họ đậu xe trước sân nhà. Cô môi mỏng cũng là một trong những người có mặt ở đó. Họ mở cửa vào nhà, liệt kê và niêm phong tài sản. Họ ở tại một khách sạn và đi lại trong vòng mấy ngày liền. Bây giờ mới hay cô hàng xóm môi mỏng là người có giấy Power of Attorney để quản lý và phân chia tất cả số tiền của bà. Phần căn nhà căn nhà và tài sản bên trong sẽ được để lại cho người cháu trai của bà BJ. Cả xóm đoán già đoán non rằng cô môi mỏng lợi dụng bà BJ bị lãng trí nên thuyết phục được bà gìa để lại toàn bộ tài sản cho cô. Tôi không biết sự thật ra sao, nhưng tôi đã từng gặp những người có tài mồm miệng đỡ tay chân.
Sau mấy ngày làm việc, cô môi mỏng cho tôi hay cô chính thức là người thừa hành trên tài sản cùa bà BJ ngoại trừ căn nhà. Mọi người khám phá ra bà BJ đã cho người tình ảo khoảng hơn 3 triệu đô la tiền mặt qua các chứng từ giấy tờ và cả những thẻ cạo gift-cards. Bốn, năm cọc gift-cards được buộc lại bằng dây thun, mỗi cọc dày khoảng 8 inches, và mỗi thẻ là 7,500 đô la đã được cạo. Họ coi ngày tháng mới hay bà BJ gởi $15,000/ 1 tuần cho người tình ảo trong vòng nhiều năm. Tổng số tiền bà có trong ngân hàng là 187 triệu đô la gồm cả stocks và bonds. Đồ cổ khoảng 2 triệu, chưa kể một nhà kho khổng lồ ở New York.
Nói về sự lừa lọc (scam) qua mạng hay qua điện thoại. Báo chí có đăng và cho biết nhiều nguời ở khắp thế giới đã từngbị lừa. Nhưng tôi không ngờ một trong số đó lại là bà BJ, bà hàng xóm lạ kỳ của tôi, mà số tiền lên đến hơn 3 triệu đô la. Không ngờ trong trái tim sắt đá của bà đầm thép, với khuôn mặt lạnh lùng không ưa đàn ông, vẫn còn có chỗ trống cho một mối tình, dù chỉ là tình ảo. Ông cảnh sát cho hay, bọn lừa đảo này chuyên đi sưu tầm tên tuổi, địa chỉ tất cả các bà góa và những người già cô đơn. Chúng sẽ tìm mọi cách liên lạc và dụ dỗ. Những người già là những người cô đơn, hụt hẫng khi chồng hoặc vợ qua đời, họ dễ dàng rơi vào cạm bẫy ngọt ngào của bọn này. Cô môi mỏng chỉ vào hai cái suitcases vẫn còn nằm trong garage, mà người tình của bà đã và sẽ không bao giờ đến đón.
Tôi biết bà BJ giàu, nhưng chỉ dám đoán bà có trên dưới chừng 10 triệu, không ngờ bà có số tiền gần gấp 20 lần tôi phỏng đoán. Ông luật sư cho cô môi mỏng hay, tất cả số tiền trong ngân hàng sẽ được chia đều cho các hội từ thiện đã được bà nêu tên trong di chúc. Bà không để lại tiền cho người cháu trai hay bất cứ cá nhân nào, kể cả cô môi mỏng, dù là một xu. Cô môi mỏng kể tôi nghe với giọng điệu khá cay cú, cố giấu đi sự thất vọng não nề vì cô chỉ là người thừa hành (executive) để làm công việc phân chia tiền cho những hội đoàn có tên trong di chúc, dưới sự chứng nhận của luật sư.
Tôi an ủi cô môi mỏng dầu sao bà BJ cũng đã coi cô như con gái trong nhà nên mới bỏ tên cô vào trong di chúc, cô là người tốt đáng tin cậy và giờ đây cô là triệu phú rồi vì có trong tay gần 200 triệu đô la. Và cô cũng là người vinh dự được bà trao cho nhiệm vụ rải tro cốt của bà xuống lòng biển Thái Bình Dương theo di chúc để lại. Sống ở Mỹ khá lâu, đôi khi tôi vẫn không hiểu tại sao có những người rất giàu, lúc sống họ ky cóp từng xu, khi chết họ chẳng đem theo được bất cứ một thứ gì, nhưng nay tôi thầm ngưỡng mộ bà hàng xóm của tôi, khi chết đi, bà không mang theo được gì, nhưng di sản bà để lại là một tấm lòng vàng cho những người nghèo.
Khi tôi đang viết những giòng chữ này, tôi vẫn là người canh chừng bất đắc dĩ ngôi nhà của bà BJ vì giấy tờ luật sư vẫn đang tiến hành, và vì giấy chủ quyền nhà vẫn chưa tìm ra. Nhà vẫn cửa đóng then cài với vài ngọn đèn sáng bên trong. Sân sau, cái thác nước nhân tạo nhỏ của bà BJ không còn chảy róc rách như lúc bà còn sống; những bộ bàn ghế sân vườn được phủ bạt không ai ngồi, đã bám bụi, và những chậu cảnh đang chết dần vì không ai tưới. Tôi muốn tưới cũng không dám vì tôi sẽ vi phạm luật nếu bước vào sân nhà bà. Tôi chợt nhìn lại cái xã hội mình đang sống và tự hỏi rồi mình sẽ ra sao trong những ngày tháng khi cuộc đời về chiều.
Chỉ một cú vấp ngã là cuộc sống con người có thể thay đổi hoàn toàn, cuộc thay đổi không thể kềm hãm xoay chuyển. Sự đau đớn thể xác đi kèm với nỗi vật vã tâm thần. Đây là mối ưu tư, ám ảnh của tuổi vàng khắp chốn.
Con người sống lâu hơn, ít bệnh tật hơn nhưng tuổi thọ lâu dài kia có những khúc quanh không như ý. Cơ thể trải qua những biến chuyển cần sự thích nghi và chấp nhận từ mỗi cá nhân. Ôi chao, biết bao nhiêu là biến chuyển trong cái thân thể mong manh kia sau 70 – 80 năm dãi dầu với thời gian?
Mắt nhìn không còn tinh anh. Tai nghe không còn tỏ tường, có vị còn chịu chứng ù tai, tinnitus, những âm thanh tai quái u u trong đầu suốt ngày đêm. Khứu giác chẳng còn “cảm” được một mùi hương nhẹ nên vị giác hầu như mòn mỏi. Khoảng 70% khả năng “nếm” đến từ khả năng “ngửi”. Rượu [ngon] không còn giữ được hương vị cũ dù vẫn mang lại cảm giác lâng lâng và đôi khi còn gây chuếnh choáng nhanh chóng không ngờ. Bắp thịt không mạnh mẽ như trước, khuân vác một món gì cũng khó khăn. Khớp xương ê ẩm khiến việc xê dịch chậm chạp… Chưa kể sự thăng bằng, balance, kết hợp từ khả năng nhìn thấy, sức mạnh của bắp thịt, và khả năng cảm nhận vị trí của thân thể (proprioception) trong môi trường chung quanh, cũng sút giảm qua thời gian. Và cuộc sống có thể đến khúc ngoặt không ngờ khi trượt chân, vấp ngã.
Tại Huê Kỳ, số người cao niên (65+ tuổi) té ngã và chịu biến chứng nặng nề mỗi ngày một gia tăng. Nha Thống Kê của cơ quan Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Tật (the CDC) công bố một con số đáng ngại, chỉ trong năm 2012, trên 2.4 triệu người té ngã, trong số ấy trên 200 ngàn người tử vong vì biến chứng trong cùng năm.
Theo hội chuyên khoa về tuổi vàng, Geriatrics, tai nạn gia tăng khi con người quá lạc quan quá tự tin, không lượng sức mình; người có tuổi cũng không ngoại lệ nhưng chịu ảnh hưởng của tai nạn nặng nề hơn. Những thứ bình thường trước đây bỗng dưng trở thành chướng ngại vật trong một phút không ngờ: các bậc thang, tấm thảm trên sàn nhà, bồn tắm trắng bóng, vồng u trong chỗ đậu xe, rễ cây ngoài vườn…, và ngay cả con chó con mèo quanh quẩn bên chân hằng ngày. Những món thuốc trị chứng cao huyết áp, chữa trầm cảm…có thể gây chóng mặt, choáng váng khiến việc vấp té, trượt chân xảy ra dễ dàng hơn.
Trong số các cụ cao niên té ngã và gãy xương chậu xương đùi, 20% tử vong trong cùng năm, 80% còn lại chịu ảnh hưởng nặng nề. Họ không còn tự di chuyển nên việc nhàn tản trên một quãng đường ngắn trở nên bất khả. Nhiều người mất luôn khả năng lái xe vì chân ga chân thắng không còn nhậm lẹ nên dễ gây tai nạn.
Không thể tự di chuyển, các cụ này trở nên phụ thuộc vào người chung quanh, từ bạn bè, hàng xóm láng giềng đến con cái. Tuổi vàng sợ đau đớn thể xác thì ít nhưng họ lại hãi hùng trước viễn ảnh mất hết khả năng độc lập.
Một sự thật khó chấp nhận là việc càng cao tuổi, càng dễ té ngã. Theo Tiến Sĩ Judy A. Stevens, chuyên viên Dịch Tễ, epidemiologist, tại CDC, té ngã xem ra giản dị nhưng lại là nỗi ám ảnh kinh hoàng cho tuổi vàng, không mấy ai muốn nhắc đến và ngay cả người bị té cũng không muốn đề cập đến. Lý do? Các cụ ngượng ngùng, bạn ạ, ngại bạn bè chê cười mình vụng về, nhưng lý do sâu thẳm nhất, các cụ sợ con cháu lo lắng quá lại khênh họ vào nhà dưỡng lão hầu được (bị) chăm sóc kỹ lưỡng hơn, và từ đó mất luôn cuộc sống độc lập riêng tư. Họ sợ hung thần té ngã còn hơn các trận đau ốm. Đau ốm khi hết bệnh còn có thể độc lập chứ té ngã thì lôi thôi lắm!
Phục hồi sau khi té ngã là một hành trình gian nan, chậm chạp. Với các ca gãy xương “bình thường”, sau khi bó xương, nối xương và vết thương tạm lành, bệnh nhân trải qua thời gian tập luyện để có thể tự di chuyển. Chương trình phục hồi kéo dài vài tháng, từ việc dùng xe lăn, khung cân bằng đến cách dùng gậy để chống đỡ thân mình và giúp thăng bằng. Nhiều cụ không còn leo thang được nữa vì cần dùng khung sắt để di chuyển, và từ đó phải lìa bỏ tổ ấm nơi có các bậc thang thân quen, gần gũi. Thay đổi chỗ ở là cả một cú sốc trong tuổi vàng. Cụ nào chấp nhận và chịu thích nghi thì vết thương “lìa tổ ấm” sớm lành, cụ nào rầu rĩ vật vã với chỗ ở mới thì nhanh chóng rơi vào nỗi trầm cảm u uất và không thiết sống!
Ngược lại, được sinh sống trong khung cảnh quen thuộc là nỗi ấm áp, thoải mái trong tuổi vàng ngay cả khi các cụ không còn có thể tự chăm sóc thân thể.
Như mọi loại bệnh tật, phòng ngừa là phương cách tốt nhất. Té ngã cũng thế. Phòng ngừa té ngã để tránh thương tật và các biến chứng thay đổi đời sống của bệnh nhân.
Để phòng ngừa té ngã, bà Judy Stevens cho rằng thể dục là yếu tố quan trọng nhất. Khi thân thể khỏe mạnh, bắp thịt cứng cáp, thì ít bị té ngã; và nếu bị té ngã thì ảnh hưởng cũng bớt trầm trọng so với các cụ ít động đậy, đi lại.
Các lớp thể dục, nhất là các buổi dạy về thăng bằng, như tập đứng một chân, lăn trái banh Bosu cho quen với sự chông chênh. Môn Thái Cực với các động tác co duỗi thong thả, chậm chạp giúp thân thể phối hợp hoạt động của bắp thịt và hai lá phổi thở hít nhịp nhàng. Sự phối hợp này cần thiết cho việc hô hấp, thăng bằng và dáng đi đứng của thân thể.
Hiệu quả cụ thể nhất của sự tập luyện thân thể là việc có thể tự đứng dậy từ ghế ngồi mà không cần vịn tay: bắp thịt hai chân và bắp thịt bụng, lưng cứng cáp đủ để chống đỡ và thăng bằng thân thể khi thay đổi vị thế.
Những yếu tố khác không kém quan trọng là việc dùng các món thuốc. Thuốc trị cao huyết áp, khoảng 70% các cụ tuổi thất thập dùng món thuốc này, gây chóng mặt khi huyết áp xuống nhanh và dễ té ngã nếu không cẩn thận. Chưa kể các thứ dược thảo lợi tiểu, giảm đường giảm mỡ (?) hầm bà lằng khác bán tự do trên thị trường mà các cụ Á Đông dùng thường xuyên như uống trà.
Xin mở ngoặc để nhắc đến dược thảo một chút: Dược thảo là con dao hai lưỡi rất sắc, có thể vô cùng hiệu quả trong việc chữa trị một bệnh tật nào đó, nhưng dược chất trong dược thảo có liều lượng bao nhiêu lại là một điều bí mật. Bí mật thứ nhì là món dược thảo tuy có cùng tên nhưng mức khác biệt về dược chất [và dược tính] lại là khoảng cách mênh mông… chưa kể các phụ chất có dược tính khác.
Các cụ dùng thuốc trị cao huyết áp có tỷ lệ té ngã cao gấp đôi những người không dùng. Đặc biệt là loại thuốc lợi tiểu, diuretic, [dùng để giảm cao huyết áp và suy tim]. Nếu cần dùng, các cụ nên uống thuốc ban ngày để tránh những chuyến vào nhà vệ sinh trong đêm tối. Món thuốc khác, món thuốc trị mất ngủ, có thể gây mất thăng bằng, và nếu có thể, nên thay thế bằng một ly sữa ấm, một cuốn sách dễ đọc hoặc một vài bản nhạc êm dịu.
Cách phòng ngừa té ngã khác là cách xếp đặt vật dụng trong nhà, loại bỏ tấm thảm đặt hờ hững trên sàn nhà, bàn ghế nằm gọn ghẽ trong một góc khuất, dẹp giày dép, đồ chơi… trên lối đi.
Các cụ trong tuổi vàng cần đi khám mắt hàng năm và đeo kính để duy trì thị lực. Dùng kính đơn tròng khi đi bộ và chỉ dùng kính hai tròng, ba tròng (bifocal, progressive lenses) khi đọc sách, ngồi tại chỗ vì loại kính này có thể gây vấp té.
Trong nhà cần có đèn đủ sáng để thắp rõ vật dụng chung quanh. Và món vật dụng cần thiết nhất, với các cụ sống đơn chiếc, có lẽ là món “gọi cấp cứu”, emergency button, electronic alert, có thể trong dạng vòng đeo trên cổ tay có nút bấm, có thể là dây đeo trên cổ.
Mùa thu của cuộc đời không nhất thiết chỉ là mùa tàn úa, mùa lá vàng; với sự chấp nhận, sửa soạn và sẵn sàng cho tinh thần, mùa thu có thể trở thành…vàng lá, vàng ròng với các chuyến du ngoạn thong thả để tận hưởng sự thanh nhàn khi tâm tư không còn vướng bận với sinh kế nhọc nhằn và bổn phận dưỡng dục khó khăn?
Từ Thời Còn Trẻ… Đến Lúc Về Già - Nguyễn Ngọc Chính
Lúc trẻ, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ trên đời... nhưng khi lớn tuổi, trải qua nhiều cuộc tình, mới biết sau yêu còn có… chia tay. Không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần, cứ lập đi lập lại… Điều mà người trẻ tuổi không bao giờ hoặc ít khi nào nghĩ đến!
Đời người thường được gói gọn trong một câu thật đơn giản: “Từ thời còn trẻ… đến lúc về già”. Nói như vậy nhưng không đơn giản chút nào vì những suy nghĩ phức tạp của từng thời kỳ, qua đó thể hiện quan niệm sống khác hẳn nhau, nhiều lúc đến độ mâu thuẫn, xung đột gay gắt.
Thời còn trẻ bao gồm các giai đoạn từ thơ ấu, tiến dần đến tuổi vị thành niên và rồi trở thành thanh niên vào lứa tuổi từ 19 đến 24. Đây là khái niệm của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) nhưng chưa được thống nhất vì còn tùy thuộc vào từng khuôn khổ xã hội của từng quốc gia. Chẳng hạn như ở Trung Hoa, tuổi thanh niên là 29, trong khi tại Bangladesh là 34 và ở Malyasia thậm chí đến 40 tuổi!
Tuổi trẻ
Những người được gọi là “cao tuổi”, “cao niên” hay “người già” thường có độ tuổi từ 60 trở lên như tại Việt Nam. Tại một số nước quy định tuổi của người già được căn cứ vào những gì họ cống hiến cho gia đình và xã hội. Thuật ngữ “senior citizen” dùng tại Anh và Mỹ ám chỉ những người đã hưu trí (retiree), thường là những người từ 65 tuổi trở lên. Tại Mỹ, ngày 21/8 là ngày toàn quốc tôn vinh những công dân lớn tuổi, ngày đó được gọi là “National Senior Citizens Day”.
Tuổi già
Bài viết này không có ý tôn vinh tuổi già và cũng chẳng đề cao tuổi trẻ. Tôi chỉ có tham vọng đặt vấn đề về những cảm xúc của con người thay đổi theo tuổi tác. Những điều được nêu ra dưới đây có thể mang phần nào ý nghĩa chủ quan vì người viết thuộc về lứa tuổi “gần đất xa trời”, nhưng thiết nghĩ, người trẻ cũng như già nên đọc để chiêm nghiệm những cái đúng và cả những cái sai.
Đề tài từ cổ chí kim được nói đến nhiều nhất là “Tình yêu trai gái”. Một triết gia nào đó đã phân tích: Cảm xúc về Tâm hồn tạo ra Tình Bạn; Cảm xúc về Tri thức tạo ra lòng Kính Trọng và Cảm xúc về Thể xác tạo ra lòng Ham Muốn. Nếu cả ba cái này cộng lại, người ta sẽ có Tình Yêu (!). Cụ thể hơn, “Tình yêu Nam-Nữ” được thể hiện qua công thức:
Tình yêu Nam & Nữ = Tình bạn + Tôn trọng + Ham muốn
Lúc trẻ, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ trên đời... nhưng khi lớn tuổi, trải qua nhiều cuộc tình, mới biết sau yêu còn có… chia tay. Không phải chỉ một lần mà rất nhiều lần, cứ lập đi lập lại… Điều mà người trẻ tuổi không bao giờ hoặc ít khi nào nghĩ đến!
Lúc trẻ, vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi, tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời. Khi có tuổi mới biết tình yêu “đến đó rồi đi, có đó rồi mất”. Từ những cảm nghĩ lạc quan của tuổi trẻ người ta lại bước sang tư tưởng bi quan của người già!
Lúc trẻ, cứ tưởng “yêu một người thì dễ, quên một người mới khó”. Người trẻ khi yêu hình như đã mặc nhiên công nhận vị trí “khó quên” của người bạn tình. Đến khi tuổi tác ngày một cao đã chứng minh điều ngược lại: người lớn tuổi thấy mình đã quên đi nhiều người mình đã từng yêu, quên một cách dễ dàng!
Tình yêu có vĩnh cửu như "ổ khóa tình nhân" trên cầu?
Lúc trẻ cứ tưởng tình yêu luôn dựa theo nguyên tắc “bình đẳng” qua triết lý “yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại”. Về già mới chợt nhận ra bài học kinh nghiệm đầy bất công của tình yêu: “có những yêu thương chỉ cho mà không nhận”. Nhà thơ người Anh, Abraham Cowley (1628-1667) đã phải thốt lên:
“Of all the pain, the greatest pain
It is to love, but love in vain”
Tạm dịch là:
“Trong mọi khổ đau, niềm đau vĩ đại,
Là trót yêu người… không hề yêu lại”
Lúc trẻ cứ tưởng rằng “yêu một người là sống chết vì người đó”, giờ mới biết “yêu một người là phải biết tự yêu lấy mình”. Đây không phải là lòng “tự ái” của con người khi về già mà là những điều mà nhiều người có tuổi rút ra được sau những cuộc tình “mù quáng” của thời thanh niên và thiếu nữ.
Lúc trẻ cứ nghĩ “sau tình yêu sẽ là hôn nhân”, đến khi về già mới nhận ra: “vẫn có những cuộc hôn nhân không cần tình yêu”. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Tình yêu là Bình Minh của hôn nhân, hôn
nhân là Hoàng Hôn của tình yêu” và với kinh nghiệm bản thân, Socrates khuyên nhủ mọi người:
“Bằng đủ mọi cách, hãy lập gia đình. Nếu lấy được người vợ tốt, bạn sẽ hạnh phúc. Nếu lấy phải người xấu bạn sẽ trở thành một triết gia” (By all means: marry. If you get a good wife: you’ll become happy. If you get a bad one: you’ll become a philosopher).
Ngay từ lúc còn trẻ nhiều người cũng đã trở thành “triết gia” vì yêu. Họ thích định nghĩa tình yêu với những mỹ từ, mỹ ý… Nào tình yêu là X, là Y, là A,B,C,D… khi lớn tuổi lại cuống cuồng vì hoang mang, không biết tình yêu thật sự là gì cả. Tại sao ư? Vì, “tình yêu thật khó định nghĩa: nó đến bất chợt, đi bất ngờ, và để lại một vết thương lòng muôn thuở”!
Tình yêu quả là… rắc rối
Lúc trẻ cứ tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm, về già mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh, có chăng là mình đã không nhận thấy. Người trẻ chỉ thấy hạnh phúc trong hôn nhân khi được sống bên người tình yêu mến, về già hạnh phúc đó lan tỏa đến con cháu qua một thứ không còn là tình yêu trai gái mà là tình ruột thịt, máu mủ.
Khi còn trẻ, phạm vi giao tiếp thường mở rộng, bạn bè giao thiệp rất đông. Đến lúc ở vào tuổi về hưu bỗng thấy mình cô đơn vì cuộc sống thu hẹp và người già thường “ẩn mình” trong phạm vi gia đình.
Tuy nhiên, cũng có người vẫn hăng say hoạt động xã hội để khỏa lấp sự trống rỗng, có người tìm một thú vui cho bản thân như chăm sóc cây cảnh, viết lách… Chỉ tội nghiệp những ai không tìm cho mình một hướng đi lúc về già trước khi bị bệnh tật tấn công để trở về với cát bụi.
Lúc trẻ tưởng “nói quên là có thể quên được”, giờ mới biết có những chuyện càng muốn quên thì nó lại càng ở mãi trong lòng. Điều này cho thấy người lớn tuổi hướng về cuộc sống “nội tâm” trong khi người trẻ giữa cuộc sống tất bật ngoài xã hội, luôn… “hướng ngoại”.
Lúc trẻ, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm vì chung quanh toàn là người, về già mới hiểu những giây phút bên người thân quả là một sự ấm áp nhưng lại rất mong manh, trong khi đó, “nỗi cô đơn luôn ở bên cạnh”. Cũng vì thế cho nên khi còn trẻ cứ tưởng việc đóng một cây đinh vào tường thật đơn giản vì không thích thì có thể nhổ đi. Về già mới thấy: đinh có thể nhổ nhưng vết lõm trên tường vẫn còn đó.
“Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi”
Đó là những lời kết trong bài thơ Tình Già của Phan Khôi đăng trên báo Phụ nữ Tân văn năm 1932. Bài thơ này có thể coi như tác phẩm thơ tự do đầu tiên, mở đường cho phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Về phương diện tình cảm, bài thơ thể hiện “một vết lõm trên tường” sau khi cái đinh được nhổ từ thời trai trẻ.
Hạnh phúc tuổi già
Theo lẽ tự nhiên, người ta khóc khi buồn nhưng một khi có tuổi mới thấy điều buồn nhất là…“không thể khóc được”. Xem một cuốn phim, đọc một cuốn truyện người trẻ và người già thường có những cảm xúc khác hẳn nhau! Có thể vì đã từng trải nhiều nên tình cảm của người già đã trở nên… “chai lì”? Phải chăng tuyến lệ cũng đã bị “lão hóa” nên không còn hoạt động?
Giọt nước mắt
Ở một thái cực ngược lại, cười là vui nhưng nhiều khi người lớn tuổi lại thấy “có những giọt nước mắt còn vui hơn tiếng cười”, chẳng hạn như trường hợp gặp lại người thân sau một thời gian dài xa cách, “mừng mừng, tủi tủi”.
Những lúc tình cảm đạt đến “cực điểm”, người ta thường nhớ đến câu thơ đầy mâu thuẫn của Xuân Diệu:
“Cười là tiếng khóc khô không lệ
Người ta cười trong lúc quá chua cay”
Người ta cũng có thể “cười ra nước mắt” hay như Nguyễn Du trong Kiều đã vẽ nên cảnh oái ăm “Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Suy cho cùng, chuyện Khóc-Cười là lẽ thường tình
nhưng rõ ràng là mức độ Khóc-Cười thường bị ảnh hưởng phần nào vì tuổi tác.
Khóc & Cười
Lúc trẻ tưởng chỉ có kẹo là ngọt, giờ lớn mới biết có những thứ còn ngọt ngào hơn cả kẹo. Người cha già trên giường bệnh nhận từ con viên thuốc đắng nhưng sao vẫn thấy ngọt. Người mẹ già ăn bát canh khổ qua nhưng không cảm thấy đắng vì sự hiếu thảo của con. Ông cha ta thường nói: “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới” là vậy.
Lúc trẻ tưởng tượng rất nhiều, về già mới nhận ra: “chuyện cổ tích không bao giờ có thật”. Lúc trẻ, tưởng mình có thể thay đổi cả thế giới, khi tuổi tác đã cao mới thấy thay đổi chỉ một người cũng khó, có chăng vẫn chỉ là tự thay đổi mình.
Lúc trẻ cứ tưởng một khi thành “người lớn” là lớn, bây giờ mới thấy có nhiều người đã lớn mà vẫn chưa thành người lớn. Đến khi thật sự thành người lớn thì người ta mới hiểu: “không bao giờ bé trở lại được”. Đó là sự thật khiến cho nhiều người lúc bé cứ mong mình chóng lớn, giờ đây lớn rồi lại ước gì mình bé lại.
Lúc trẻ cứ mơ ước lớn lên sẽ trở thành người này người kia. Về già mới biết: “được trở thành chính mình mới là hạnh phúc nhất”. Lúc trẻ tưởng rằng “những gì đến rồi sẽ đi”, giờ mới biết: “khi niềm vui đến thường qua mau, còn nỗi buồn đến thì cứ ở bên ta mãi mãi”.
Lúc trẻ cứ nghĩ: “Tiền bạc, Tình yêu rồi mới đến Sức khỏe”, về già mới khám phá sự đảo ngược: “Sức khỏe, Tiền bạc, Tình yêu”. Lúc trẻ rất sợ phải chết, nhưng về già “sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái chết rất nhiều”.
Cuối cùng, lúc trẻ cứ tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm. Về già mới hiểu nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh. Johann Von Goethe đã từng nói: “Cái chết, ở một mức độ nào đó, là một điều vô lý bỗng trở thành hiện thực” (Death is, to a certain extent, an impossibility which suddenly becomes a reality).
Và lúc đó chúng ta thanh thản ra đi để khởi đầu một cuộc hành trình cuối cùng: Bước - Nhảy - Vọt - Vào - Bóng - Tối.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.