Nhớ 'một câu nhịn chín câu lành', người Việt sẽ không hung dữ
Hơn nhau không phải ở nắm đấm mà là ở khả năng học tập, làm việc, chia sẻ, thương yêu, tử tế với mình, với người trong mối quan hệ với cuộc sống xung quanh!
Hạ cẳng tay, thượng cẳng chân sau khi va chạm giao thông - Ảnh do bạn đọc cung cấp
Cách đây mấy bữa, trên đường đi làm về, tôi thấy một đám đông ở Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh, TP.HCM), nghĩ là có kẹt xe. Tới gần mới phát hiện là vừa có vụ va quẹt và hai tài xế đang cãi nhau, người đi đường ngang qua ai cũng lắc đầu.
Chuyện va quẹt trên phố đông như Sài Gòn giờ tan tầm là chuyện cơm bữa, nếu cảm thông và chia sẻ được thì có lẽ người ta sẽ nhẹ nhàng cho qua, tôi nghĩ vậy!
Môi trường nhiều mầm mống bạo lực
Thường người ta sẽ nổi nóng khi gặp một chuyện bất như ý nào đó, như vừa bị sếp la, ra cổng cơ quan bảo vệ đùa một câu, liền sân si. Nỗi buồn, sự bực bội là thứ năng lượng chi phối hành xử khiến người ta không thể kiềm chế được cơn tức dâng lên, lây sang người khác.
Vì vậy, có người dễ nổi nóng đã cảnh báo: "Thấy tôi ‘khó ở’ là tránh xa xa giùm, không ăn mắng ráng chịu". Theo đó, người nóng lâu ngày họ cũng biết tính khí của mình nên có "chống chỉ định" chuyện nói đùa, tiếp xúc lúc họ đang không vui, căng thẳng. Thực ra, khi quá mệt mỏi, phiền muộn trong lòng, ta không còn giữ được mình.
Có người bạn của tôi bình thường hiền queo, ai nói gì cũng cười. Bỗng một ngày, tôi hỏi "sao buồn dữ rứa?" lại bị bạn nạt cho một câu nghe chưng hửng. Trời, bạn mình đây sao? Mới đầu tôi phản ứng vậy, nhưng chợt dừng lại vì nhớ ra, đây không phải là bản chất của bạn. Có thể bạn đang có một nỗi niềm, áp lực từ cuộc sống, gia đình, tình yêu hoặc bản thân đang trải qua bệnh tật, sự cố…
Ai cũng có lúc nóng giận, nếu mình hiểu thì sẽ không khiến ngọn lửa trong họ cháy phừng. Tôi im lặng và không bỏ mặc, cuối cùng cũng nghe được thổ lộ từ bạn. Bạn bị nhiều áp lực trong công việc: sếp chèn ép, đồng nghiệp tìm cách chơi khăm, lương không cao, phải chật vật trang trải cuộc sống…
Tất nhiên, nhiều người khó khăn hơn nhưng họ không nổi nóng. Đó là tính cách và sức chịu đựng của từng người. Sự nóng tính là một thói quen được huấn tập hằng ngày theo nguyên lý:
"Thói quen tạo nên tính cách, tính cách tạo nên số phận".
Vì thế, các chuyên gia tâm lý khi chia sẻ với tôi về thói vũ phu của chồng vẫn thường lưu ý, có thể anh ấy từng bị bạo hành lúc nhỏ, từng sống gần những gia đình lớn tiếng, ồn ào đánh cãi nhau như cơm bữa.
Sự tác động của cuộc sống xung quanh lên tính cách con người theo hướng đó được ông bà xưa đúc kết rằng "gần mực thì đen". Cái đen đó cần có thời gian thanh lọc để dần trắng, nhưng nếu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng trong môi trường đen hơn thì sẽ đen đậm hơn.
Ngày nay các văn hóa phẩm mang tính bạo lực vẫn đầy rẫy trên mạng và tồn tại trong cuộc sống, giải trí của nhiều người: từ game online đến phim ảnh. Thường ngày tiếp xúc với sự đánh đấm, máu me trong các "thức ăn tinh thần" đó khiến não quen với những "mùi vị" của bạo lực, từ đó hành xử theo.
Những kẻ "giang hồ mạng" được ngưỡng mộ và thu tiền trăm triệu cũng chính là một "hình tượng" khiến người ta thay đổi suy nghĩ: cần gì học hành, tử tế, chỉ cần có "số má" là có thể lên đời.
Môi trường bên ngoài đã vậy, trong nhà trường, gia đình cũng đầy mầm mống bạo lực, tránh sao người trẻ không hoang mang và hành xử theo cách tương tự. Đây mới là điều đáng lo, và người lớn muốn thay đổi không khí bạo lực lan tràn thì chính bản thân phải nỗ lực để ứng xử nhẹ nhàng với nhau trước.
Nhẫn để yêu thương
Không thể có kết cục tốt với những người nóng nảy. Nhân vật Trương Phi trong Tam Quốc Chí là hình mẫu của nóng tính dẫn đến hư sự và mang họa sát thân. Ai cũng nóng nảy trong hành xử thì chiến tranh sẽ nổ ra, thương vong là tất yếu.
Một câu nói đùa cũng thành chuyện lớn vì con người ta quá nóng, quá hung dữ; đi nhậu lo hát karaoke cũng bị đánh chết thì… ôi thôi, cuộc sống quá kinh khủng. Pháp luật cần nghiêm minh để trừng trị việc vô cớ đánh, giết người nhưng đó là xử lý phần ngọn, còn cái gốc vẫn là giáo dục.
Làm sao để con người có thể chậm lại để phân tích kỹ hơn từng câu nói, từng biểu hiện của người khác, trong đó có thân nhân, bạn bè mình để không chụp mũ rồi hành xử như người điên, người say?
Sống thiền hay bình tĩnh sống, sống chậm, sống có chánh niệm… là những cách sống theo tinh thần "nhẫn để yêu thương". Đầu tiên là thương mình. Một người chỉ được người khác tin tưởng, nể trọng và giao việc khi có sự chín chắn, điềm tĩnh trong xử lý. Như vậy, người sống có lý trí, điềm tĩnh chính là cách sống lợi lạc tự thân.
Còn cái lợi cho người xung quanh, nhất là người thân - thương thì cũng dễ dàng để thấy. Con cái sẽ học được nhiều điều hay ho từ bố mẹ có cách sống nhẹ nhàng, tình cảm. Đó mới là gia tài quý giá để lại cho con.
Hành xử nóng tính dẫn tới hư việc, hại người thì vòng lao lý chờ mình là chắc chắn. Một khi đã gây ra sự cố mới hối thì đâu còn kịp. Nhiều người bình luận thiếu niên 16 tuổi rút dao đâm chết người nhắc mình chuyện chạy xe chính là "anh hùng rơm", chứng tỏ với bạn gái nhưng rồi được gì sau lần ra tay đó? Tù tội và có thể mất luôn bạn gái.
Ai đợi và ai chấp nhận một người giết người làm người yêu, người chồng, người cha tương lai?
Thực ra, sân si - ai cũng có. Cái chính là cách quản lý năng lương tiêu cực đó để những năng lượng tích cực phát triển. Để làm được điều đó, phải xây dựng lối sống nhân văn từ chính mỗi gia đình, người lớn dạy trẻ nhẫn nhịn để an lành như ông bà mình nhắc "một câu nhịn chín câu lành".
Khi để tâm tĩnh lặng ta không khơi động những suy nghĩ lo âu. Ta nhìn ra cái giá trị thật của chúng là ảo tưởng. Vì thế suy nghĩ hiện ra rồi biến mất. Lúc đó là lúc ta từ chối không cho tư tưởng của quá khứ liên kết với những mạch thần kinh của sợ hãi. Hệ thống limbic không bị khởi động, ta cảm thấy những bắp thịt thư giãn. Ta không lo âu nên sự chú tâm nhận ra hiện thực càng ngày càng mạnh (trí tuệ). Hệ thống vỏ não không tạo ra những ảo tưởng hay thành kiến nữa nên có thể lắng nghe (hay điều hòa) với hệ thống limbic. Sự điều hòa càng nhiều thì năng lượng thần kinh được dùng càng ít đi. Một sự nhẹ nhàng thật khó tả trải rộng ra trong tâm hồn. Đó là cảm giác khi ta tập tâm tĩnh lặng. Khi đi sâu vào tâm tĩnh lặng, khi hòa hợp nhiều hơn với hệ thống limbic (thế giới của tình cảm và giấc mơ) thì ta sẽ có cảm nhận hòa hợp với nhân loại và vũ trụ. Lúc đó ta mới thấu hiểu được cái nghịch lý của: “trong một có tất cả”. Tâm tĩnh lặng có thể nói là chìa khóa mở cửa vào thế giới của sự hài hòa, vui vẻ và hạnh phúc vững bền.
Thoắt cái, chúng ta sang năm mới Tây, và cũng sắp bước vào đầu năm mới Đinh Hợi. Thời gian đúng như vó câu qua cửa sổ...
Năm mới Tây, gặp nhau, chúng ta tay bắt mặt mừng: “Happy New Year!”, nhưng sang năm mới Ta, lại chúc nhau: “Chúc Mừng Năm Mới”. (Các cánh thiệp Xuân gửi nhau có phần văn vẻ hơn: “Cung Chúc Tân Xuân”.)
Ở Mỹ, tiếng Anh tiếng Việt đề huề, chúng ta dùng tùy thời, tùy cảnh, tùy người.
Trẻ học tiếng Việt
Các cháu bé ngày nào tẻo teo, đến phòng mạch thập thò đứng ôm chân mẹ, nay đã lớn vượt, cao hơn cả bác sĩ. Cháu này Alex, cháu kia Michael, Jessica, ... Thế cũng phải, để các cháu đi học thày giáo, chúng bạn còn dễ gọi tên. (Nhưng ở nhà có thêm tên Việt cũng tốt.) Nhiều người lớn chúng ta, khi nhập tịch, vì công việc làm ăn, cũng lấy thêm tên Mỹ. Bác Peter Nguyên, chị Janice Tuyết, ..., nhìn hồ sơ nhiều lúc thuận tên nào tôi chào hỏi tên nấy.
Khám bệnh cho các cháu, tôi hay quen miệng hỏi:
- Cháu có nói tiếng Việt không chị nhỉ? Chà, nhanh thật, ngày nào đến đây nó nhỏ xíu, nay đã 16 tuổi rồi.
- Cháu nó nghe được tiếng Việt, nhưng không nói được bác sĩ ạ. Bảo chúng nó tập nói tiếng Việt ở nhà, chúng nó lười, cứ tụm lại là nói tiếng Mỹ với nhau cả ngày.
Nghe thế, tôi lại thường khuyên cháu:
- Cháu ạ, cháu phải tập nói tiếng Việt ở nhà chứ. Ai cũng cần biết rành ít nhất hai ngôn ngữ. Cháu xem kìa, mấy cô làm việc cho bác sĩ, nói được ba thứ tiếng: Anh, Việt, và Tàu. Không thì bác sĩ không mướn. Cháu lớn lên, chỉ biết mỗi tiếng Anh thôi, đâu có hơn gì ai, ở Mỹ đây ai cũng nói tiếng Anh cả. Cháu thấy, bác sĩ dùng tiếng Anh với cháu, dùng tiếng Việt với mẹ cháu.
Thế mà nhiều cháu chúng nghe, lần sau đến đã thấy nói tiếng Việt. Có lẽ người bác sĩ ở một vị thế dễ khuyên bảo. “Bác sĩ khuyên cháu hộ, tôi nói nó cứng đầu chẳng ngấm lời tôi”, câu này bác sĩ nào cũng đã từng nghe.
Học một ngôn ngữ không dễ, giúp các cháu thông hiểu, nói được tiếng Việt, vừa giữ lấy cội nguồn Việt, còn để cảm thông với bố mẹ, và sau ra đời thêm dễ dàng trong cuộc sống. Tôi từng gặp trường hợp một cậu con, bất hòa với bố mẹ, vì cậu ta chỉ nói tiếng Anh, bố mẹ nói tiếng Việt, cha mẹ con cái không hiểu và thông cảm nhau.
Xem bệnh xong, nếu có ít phút rảnh rỗi, tôi cũng thường chuyện trò thêm vài câu bằng tiếng Việt với các cháu, để các cháu thấy tiếng Việt thân thuộc.
Tôi còn nhớ ngày ở trại tỵ nạn bên Phi, có bà giáo người Mỹ dạy Anh văn thiện nguyện. Bà giáo chăm, ngày nào cũng đến dạy. Trại đông người, nhưng lớp học Anh văn thưa thớt, còn ngoài sân đánh volley vòng trong vòng ngoài, chẳng mấy lúc vắng. Nhiều người chặc lưỡi: “Lo gì, sang Mỹ, ở với Mỹ, chỉ sáu tháng là nói tiếng Mỹ như gió”. Bây giờ, ở Mỹ lâu, chúng ta biết không phải dễ vậy.
Và tiếc thay, ở Mỹ hàng bao năm, nhiều vị bệnh nhân vẫn chưa hòa nhập vào dòng y khoa Mỹ, hiểu được tính khoa học, chính xác của y khoa Mỹ, vẫn dùng những từ tiếng Việt dịch sang tiếng Anh bác sĩ Mỹ trong phòng cấp cứu họ nghe họ lắc đầu không hiểu, hoặc khi phòng cấp cứu cho về, ngày hôm sau trở lại bác sĩ chính để bác sĩ chính tiếp tục theo dõi vấn đề, hỏi, vị bệnh nhân ú ớ, không biết bác sĩ trong phòng cấp cứu đã nói, dặn dò những gì, định bệnh của phòng cấp cứu ra sao. (Rồi cả giấy tờ, thuốc men phòng cấp cứu họ đưa đem về cho bác sĩ chính xem cũng không đem theo nốt.) Lỗi tính ra có lẽ tại các bác sĩ nhiều hơn, đã quên nhiệm vụ hướng dẫn người bệnh, song song với việc chữa trị. (Vài vị còn nổi tiếng quá tệ, hành nghề kiểu “muốn gì cho nấy”, biên toa cho thuốc bừa bãi, chẳng màng chuyện chữa trị đàng hoàng theo đúng sách vở, nói gì đến việc hướng dẫn người bệnh.)
Tất nhiên, lớp Anh ngữ “English as a second language”, nhiều người chúng ta đã theo học, dạy chúng ta loại Anh ngữ thực dụng, cần dùng trong đời sống hàng ngày. Tại phòng mạch, các bác sĩ cũng có thể chỉ dẫn các vị bệnh nhân của mình học loại Anh ngữ thực dụng cần thiết này, càng tối cần thiết trong phòng cấp cứu, nơi tính mạng người bệnh chỉ mành treo chuông, nếu có sự nhầm lẫn, hiểu lầm.
- Mấy ngày nay tôi đau cổ, lấy đại “Ampi” có sẵn ở nhà xài thử. Sao bữa nay người tôi nổi đầy mẩn đỏ, ngứa ngáy quá.
- Bác có đem chai thuốc theo không, bác cho xem.
- May quá, tôi có đem theo đây.
- Thuốc trong chai này là “Septra DS”, đâu phải “Ampi” bác.
- Tôi có biết đâu, tưởng thuốc trụ sinh nào cũng là “Ampi”.
- Thuốc cũng như người vậy bác à, chúng có tên riêng của chúng. Không phải trụ sinh nào cũng là “Ampi”. Từ nay trở đi, bác đừng dùng loại trụ sinh “Septra” nữa nhé. Bác nhớ lấy tên thuốc này, để cho các bác sĩ khác cùng biết.
Tôi gặp không ít những người bệnh trụ sinh nào cũng gọi là “Ampi” như vậy. Rất nhiều khi, biên toa thuốc trụ sinh cho người bệnh, bác sĩ chúng ta cứ lẳng lặng trao toa, không giải thích thuốc tên gì, dùng làm gì. Lỡ có phản ứng phụ do thuốc gây ra, người bệnh đi khám rủi quên đem chai thuốc theo, sẽ rất khó cho việc định bệnh.
Nhiều lần, trong lúc thăm khám, tôi thấy vết sẹo mổ cũ trên bụng vị bệnh nhân, hỏi:
- Trước bác mổ gì vậy?
- Tôi mổ bướu trong bụng.
- Bác có biết bướu cơ quan nào, lành hay độc?
- Tôi không biết nữa. Ông bác sĩ trước xem tôi bảo tôi mổ thì tôi mổ.
Việc xin hồ sơ cũ để tìm hiểu và tiếp tục theo dõi vấn đề không phải lúc nào cũng dễ (vị bác sĩ ấy đã dọn đi chỗ khác rồi, đã về hưu, ...). Lỡ ung thư thì sao! Hình như tinh thần “thuốc Bắc” làm hại người bệnh nhân Việt Nam ta khá nhiều. Trước thày thuốc Bắc bảo, đem bọc thuốc này về sắc mà uống, thận yếu đấy, người bệnh cứ thế đem thuốc về sắc uống, không buồn hỏi tên thuốc là gì, trong thuốc có những chất gì, tác dụng ra sao, thì nay, bác sĩ Tây y bảo mổ bướu trong bụng, cũng vui vẻ đi mổ, không thắc mắc đây là bướu cơ quan nào, lành hay độc, sau mổ theo dõi ra sao, ...
Mỗi lần có dịp nói chuyện với các bác sĩ đàn em, ra trường ở đây, họ lại kêu trời: “Khám, chữa bệnh cho các bác bệnh nhân Việt Nam mình khó quá anh ạ. Tên bệnh các bác không biết, tên thuốc các bác không nhớ, kể bệnh không phân thành từng vấn đề rõ rệt, việc nọ cứ xọ việc kia. Rồi bệnh cường giáp trạng hyperthyroidism hay bệnh suy giáp trạng hypothyroidism đều gọi là bệnh ‘bướu cổ’, mà khám thấy cổ có bướu đâu; phim vú mammogram thì gọi ‘phim ngực’, phim ngực ‘chest X-ray’ lại gọi ‘phim phổi’. Nhiều lúc nghe các bác ấy kể bệnh, đầu óc em nó cứ quay mòng mòng, không biết đâu mà lần”.
Họ học ở đây, thực tập với những bệnh nhân người Mỹ kể bệnh rành rẽ, thuốc men thuộc tên, nay đột nhiên tiếp xúc với những người bệnh Việt Nam, họ cảm thấy khổ sở là phải. Nhưng, tre già măng mọc, đây là những người bác sĩ trong tương lai sẽ lần lượt thay thế các thế hệ bác sĩ đàn anh, chăm sóc người bệnh của cộng đồng Việt Nam. Các bác sĩ đàn anh cũng nên sửa soạn dần người bệnh nhân Việt Nam giúp họ.
Thế nên, gần đây, khi giảng giải vấn đề bệnh tật cho các vị bệnh nhân, tôi thường mở đầu với câu nói nhật tụng: “Chị Nancy M. này, bệnh tật nó cũng như mình ấy mà, mỗi đứa nó có một cái tên, vừa tên Việt vừa tên Mỹ, mà đúng ra tên Mỹ của nó còn quan trọng hơn cả tên Việt, chị cần nhớ cả tên Mỹ của nó nữa nhé, lỡ có lúc phải vào phòng cấp cứu, còn biết cách kể bệnh. Không phải phòng cấp cứu nào cũng có sẵn bác sĩ Việt Nam mình”. Rồi tùy trường hợp bệnh, tôi tiếp:
- Chị bị cảm thường, “cold” thôi, 1 tuần 10 ngày nó sẽ hết.
- Anh bị cúm rồi, mùa này “flu” đầy, có nhà bị “flu” sắp lượt.
- Tôi nghĩ cháu nó bị sưng phổi, “pneumonia”, để mình làm cái phim ngực “chest X-ray” xem có đúng không.
- Năm ngoái, bác chụp phim vú mammogram tháng nào nhỉ? Ung thư vú, “breast cancer”, nhiều ở người trên 50, bác nhớ đi chụp phim vú mammogram hàng năm.
- Siêu âm ultrasound cho thấy chị bị sạn túi mật, nếu đau dữ nữa, chị vào phòng cấp cứu, nói bị “gallstone”, bác sĩ phòng cấp cứu sẽ hiểu ngay.
- Chị có bướu lành tử cung “fibroid” khá lớn, lại hay ra máu, chắc bác sĩ phụ khoa thế nào cũng khuyên chị mổ. Bướu này không phải ung thư, “cancer”, mổ xong thường thì thôi, không cần theo dõi hay làm gì thêm.
- Phim chụp “Cat scan” đầu của anh bình thường, không có bướu óc, “brain tumor” đâu mà sợ. Tôi nghĩ anh bị chứng nhức đầu căng thẳng, “tension headache” thôi.
- Cháu bé trước có bị suyễn, “asthma”, không?
- Thử máu cho thấy chị có bệnh cường tuyến giáp trạng, “hyperthyroidis m”, tuyến giáp trạng chị làm việc mạnh bất thường, nên chị xuống cân, hay mệt mỏi, hồi hộp. Đừng gọi bệnh “bướu cổ”, ở đây bác sĩ Mỹ họ không hiểu.
- À, cám ơn bác đã đem thuốc lại tôi xem. Bác đang uống thuốc Synthroid, để chữa bệnh suy tuyến giáp trạng, “hypothyroidism ”. Lần trước, bác không đem thuốc theo, nói bị bệnh “bướu cổ”, tôi không đoán được bác có bệnh gì. Đây, xin chỉ bác xem cái hình tuyến giáp trạng, Mỹ họ gọi là “thyroid gland”. Bác nhớ lấy tên bệnh nhé: suy tuyến giáp trạng, “hypothyroidism ”. Tôi biên tên bệnh xuống cho bác giữ bỏ vào ví, cả tên Việt lẫn tên Mỹ. Mà thưa bác, tên Mỹ của căn bệnh có phần còn quan trọng hơn cả tên Việt, nếu chỉ cần nhớ một tên, bác nhớ lấy tên Mỹ của nó, đi đâu nói, bác sĩ nào cũng hiểu.
Mùa Xuân là mùa các cây non nảy vươn mầm sống, trong ngôn ngữ, chúng ta hãy sửa soạn cho các thế hệ con em tương lai. Đồng thời, chúng ta không ngừng trau dồi tiếng Anh, học nhớ lấy những gì liên quan đến đời sống, sức khỏe chúng ta, đặc biệt các tên bệnh. Xin nhớ, chúng ta ở Mỹ, mọi tiêu chuẩn liên lạc, giao dịch, chữa trị, cấp cứu đều bằng tiếng Anh, không phải tiếng Việt.
Năm mới đến Mỹ (1996), tôi có viết bài "Những Nhận Định Khác Nhau Về Cuộc Sống" đăng trên báo Việt ngữ Sacramento; Nguyên do từ câu nói của một bạn học tại trường Sacramento City College: "Nước Mỹ là Thiên Đường của tuổi thơ; Là Chiến Trường của thanh niên, và là Địa Ngục của người già".
Lúc bấy giờ tôi cũng như người bạn tị nạn chính trị, do chưa hội nhập với cuộc sống mới lạ ở xứ người nên có nhận định không chính xác lắm.
Mười năm sau, tôi đủ tuổi 65 nên xin được nhà dành cho chung cư người già: Eskaton President Thomas Jefferson Manor, nằm ở phía Nam Sacramento, gần khu thương mại Florin Mall, Trung tâm Medical và Thư viện.
Khu nầy tổng cộng có 104 căn, gồm 52 ở từng dưới và 52 từng lầu 2. Đa số là Mỹ trắng, cũng có vài ba người Mỹ đen, khoảng chục vợ chồng người Hoa và chừng 8 người Việt. Nhiều người lãnh trợ cấp già, nhưng cũng có người là Dược sĩ, Worker lãnh tiền hưu trí; Có vị là Tướng Tá ngày xưa, người khác có con cháu là dược sĩ, thương gia, công chức giàu có. Chung quanh khu nhà là vườn hoa dạo chơi, có hàng rào trắng bao bọc, có nhà để xe và có nhân viên an ninh túc trực ngày đêm. Cứ vào khoảng gần 12 giờ trưa mỗi ngày, thì nhân viên an ninh sẽ đi một vòng kiểm soát xem các người cao niên nầy có được khoẻ không, qua cái nút dấu hiệu trước cửa: Nếu đã được kéo qua màu trắng là khỏe, còn vẫn để nguyên màu đỏ mà an ninh tự động làm dấu lúc nửa đêm, thì họ sẽ gõ cửa kiểm soát, nếu không có người trả lời thì ngay lập tức, nhân viên an ninh sẽ mở cửa để xem coi có người bịnh thì gọi xe cứu thương đến chở vào bịnh viện điều trị khẩn cấp.
Nhà người độc thân như tôi thì có một phòng khách rộng rãi để TV và Computer, có gắn loa để liên hệ với văn phòng. Phòng nầy liền với nhà bếp đủ tiện nghi, có cửa lớn mở ra hành lang và cửa sổ ngắm cảnh trời mây hay xe và người qua lại. Một phòng ngủ cũng rộng không kém, có cửa ra hành lang và cửa khác thông với phòng khách, phòng vệ sinh tắm rửa. Còn có một nút đỏ để khi tắm lỡ có trợt té hoặc bị bịnh đột xuất thì giựt sợi dây báo động nầy, sẽ có an ninh đến tiếp cứu ngay tức khắc.
Hàng ngày, chúng tôi có thể đến phòng sinh hoạt để uống cà phê free, xem TV đọc báo, đánh bài bingo giải trí, gặp nhau chào hỏi trò chuyện thân mật; Hoặc đến phòng đọc sách có dụng cụ thể dục, có bàn billard và computer. Còn có cô giáo dạy ESL và dạy Sitersite thể dục ngồi cho người già yếu. Có phòng cắt tóc nam nữ. Tất cả đều sát bên văn phòng Manager. Trên lầu hoặc dưới đất đều có phòng giặt đồ và nơi đổ rác ra bồn chứa bên ngoài, rất tiện nghi vệ sinh.
Mỗi tuần có 2 ngày xe chở đi chợ hoặc mua sắm đồ, thường là ở Wal-Mart, Alberson, Raley's, Mall và Dollars tree. Những ngày lễ và Tết, có đãi tiệc và xổ số rất vui. Có một buổi khám bịnh theo hẹn. Khách đến thăm đậu xe trước văn phòng, nhắc phôn trước cửa gọi mở, phải ghi vào sổ trực giờ vào và giờ ra.
Quan sát và suy ngẫm cuộc sống ở Mỹ, ta sẽ hiểu được tại sao người già chọn vào ở chung cư mà không ở nhà ngoài với con cháu"
- Trước hết là được chăm sóc chu đáo hơn, đầy đủ mà ít tốn kém; Lại có nhiều bạn cao niên để tâm tình thích hợp, nhất là được yên tĩnh.
- Nếu ở ngoài, con cái bận đi làm; Cho dù có mướn người giúp việc săn sóc cũng không bằng. Nếu trông coi cháu chắt thì ồn ào bận bịu.
- Người ở chung cư, vẫn được con cháu đến thăm và rước về nhà hoặc đi chơi trong những ngày cuối tuần hoặc nghỉ lễ.
Tôi đã sống hơn 3 năm ở chung cư người già, ban đầu thì cũng cảm thấy lẻ loi buồn tủi và hơi lo sợ vẩn vơ về bịnh cao huyết áp; Sau quen dần thì lại rất thích thú và chẳng muốn di chuyển ra bên ngoài ồn ào kém an ninh.
Cái thoải mái nhứt là tự do mà khi đến nhà khác, dù là bà con hoặc thân hữu cũng khó có được. Chẳng hạn như, bất cứ lúc nào, dù ngày hay đêm, nếu thích thì tôi đều có thể mở TV, Computer để sưu tầm tin tức giải trí hoặc viết bài mà không ngại làm phiền ai. Đồ đạc dụng cụ thì trang trí bày biện thế nào tùy ý thích của mình, nhất là đang dùng mà mõi mệt buồn ngủ hoặc có việc cần đi gấp thì cứ bỏ bừa ra đó, không sợ mích lòng ai hoặc có người thấy được cười chê.
Tuy nhiên, cũng phải công tâm nhìn nhận, nhạc sĩ Trịnh Hưng cũng có lý khi diễn tả cảnh sống của một người độc thân qua những vần thơ mà tôi nhớ lõm bõm:
… "Một mình nấu, một mình. Một mình mình nói, một mình mình nghe.
Một mình nhiều lúc cười khì
Hai mình có phải diệu kỳ hơn không" "
Phước duyên thay cho những ai có bạn tri âm, nếu không thì đừng mang gông vào cổ mà chắc lưỡi hối tiếc. Nước Mỹ không chỉ là "Địa ngục" của tuổi già như có nhiều người tự ti măc cảm và hoang tưởng một cách quá đáng.
Chuyện kể trên Diễn đàn internet mới đây: Có một cụ già 92 tuổi động lòng cố quốc, tuyên bố về Việt Nam CS ở luôn. Được vài năm sau lại phải trở qua Mỹ để có đủ phương tiện điều trị bịnh; Xong rồi lại vào sống trong Nursing Home để có bác sĩ và y tá chuyên môn chăm sóc mỗi ngày, mà khỏi tốn kém tiền của thân nhân; Sống đến trăm tuổi thọ. Cũng đành ngậm ngùi qua 2 câu thơ:
"Muôn dặm hồn thiêng về cố quốc,
Trăm năm xương trắng gởi quê người!"
Tiền trợ cấp xã hội cho người già hoặc bịnh tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ cũng được chiết tính vừa đủ, nếu lỡ vướng mắc nợ như làm mất hoặc hư đồ vật có giá của người khác, hoặc chuyển housing quên không báo nên bị cúp trợ cấp tiền nhà, thì theo luật pháp, mỗi tháng chỉ phải trả dần $50 theo mức thu nhập lương hàng tháng của tiểu bang Ca-li cao nhứt là 836 Mỹ kim. Bởi chiết tính chi tiêu bình dân thì gồm có: Tiền nhà $200 + tiền xăng và bảo hiểm xe cũ 200. + tiền điện thoại và internet 100. + tiền ăn 200. + mua sắm và giao tế 100 cũng vừa đủ lương. Khi xe hư nhiều cần tu sửa hoặc mua xe cũ khác vài ba ngàn đô là một vấn đề suy tính đau đầu. Những ai không cần xe và cell phone hoặc ở nhà free của con cháu, thì có dư để đi du lịch hoặc giúp đỡ người thân ở quê nhà, nhưng đó cũng là du di ngoài luật. Vấn đề hậu sự cũng là một nỗi nặng lo, nếu muốn giữ được tro cốt và làm tục lễ cho phần hồn thì phí tổn trên dưới 5 ngàn đô. Còn những ai chết mà không có thân nhân thừa nhận, thì Sở xã hội sẽ thiêu hủy luôn hài cốt.
Những người già hẩm hiu ở nước ngoài, nếu như thân nhân từ Việt Nam không thông hiểu mà thường than thở thúc bách tiền bạc, thì thật là tội nghiệp cho cuộc đời xa xứ cô độc bơ vơ khi bịnh hoặc tuổi đã về chiều.
Nhưng khi cưới nhau rồi, đa số các bà vợ dần thể hiện các tính xấu ra.
Đến lúc này, do gạo đã thành cơm nên các ông chồng chỉ biết " cắn răng chịu đựng" mà thôi.
Khi đã hình thành nên một gia đình, các ông đường đường là "chủ hộ", nhưng quyền quyết định mọi chuyện quan trọng đều thuộc về các bà, nên các ông cũng phải "cắn răng chịu đựng" tiếp...
Tức tối nhất là chuyện lương của mình mà không được xài, bởi các bà vợ thu tất nên các ông chồng càng "nghiến răng trèo trẹo" hơn.
Năm thì mười họa có được đồng quỹ đen nào, thi thoảng cùng chiến hữu "chiến đấu" chút đỉnh, cũng bị vợ cằn nhằn cữ nhữ, tức không chịu được nhưng các ông cũng phải "cắn răng chịu đựng" nữa chứ có dám "hỗn" lại đâu !
Do cắn răng và nghiến răng suốt "chiều dài lịch sử" nên cánh đàn ông chưa kịp già là "răng từ bỏ (quyền) lợi hết rồi !
Tóm lại đàn ông bị rụng răng sớm so với đàn bà cùng tuổi là do phải "cắn răng" và "nghiến răng" nhiều quá. Hihihi
Trong một khu rừng lớn ở Ấn Ðộ, có một con trâu nước không khác gì một vị Bồ Tát hóa thân.
Con trâu nước này không giống đồng loại của nó. Với một màu da đen xanh, nó có một thái độ nghiêm túc và trang trọng, lại có bản tính nhân từ và hiền hậu, giàu lòng thương người, biết chịu đựng và nhẫn nhục.
Vì thế có những con thú nhỏ nghịch ngợm hay phá quấy nó bằng những trò đùa ác độc, hay ức hiếp, làm nhục nó, coi nó có chịu đựng được không.
Có một con khỉ xấu tính và ngu đần, thấy con trâu nước này dễ bắt nạt nên thường hay cưỡi lưng nó nhảy múa đùa giỡn không một chút sợ hãi. Hơn nữa, nó còn kiêu mạn mắng trâu rằng:
- Con trâu già xấu xí kia, ta không sợ mi đâu! Mi có khác gì cục đá ngu si bị vất bỏ bên bờ ao cho thiên hạ đánh đập chửi rủa, vậy mà sao cứ đứng chết tiệt, đực mặt ra đó không có phản ứng gì cả!
Không cần biết trâu đang ăn cỏ hay đang làm việc, con khỉ càng ngày càng phóng túng, lộng hành. Có lúc nó cưỡi lên đầu, lên sừng trâu mà phóng uế, có lúc nó khoa chân múa tay trên lưng trâu, thậm chí lấy cây thọc vào tai trâu, động đậy không ngừng. Trong lúc trâu đang ngâm mình trong ao tắm, thì nó lấy hai tay bịt mắt trâu lại không cho thấy đường đi, làm đủ cách ngăn không cho trâu hưởng cái vui thú của sự tắm mát.
Trâu nước nhẫn chịu mọi sự nghịch quấy của khỉ, tuy khỉ càng ngày càng lộng hành, một khắc cũng không tha nhưng trâu từ đầu chí cuối không một lần phát ra một lời oán than hay độc ác.
Không hiểu bằng cách nào mà chuyện trâu nước nhẫn nhục này lại đến tai trời Ðế Thích. Có một hôm, trong lúc con khỉ đang quấy phá trên lưng trâu nước, trời Ðế Thích bỗng hiện ra trước mặt trâu thở dài nói:
- Trâu nước! Với sức mạnh của ngươi, ngươi chỉ búng một cái là con khỉ hung hăng kia chết toi. Tại sao ngươi lại cứ nhẫn nhục chịu đựng cho nó bắt nạt đủ mọi bề như thế? Không lẽ ngươi không biết sức mạnh của chính mình hay sao? Tại sao không dạy cho nó một bài học đích đáng?
- Chính thế, tôi biết sức mạnh của của tôi có thể đập tan một con khỉ, nhưng tôi không muốn dùng sức mạnh ấy mà đối phó với một con vật nhỏ yếu. Giá như nó mạnh bằng tôi hay hơn tôi thì tôi đã không nhẫn nhục với nó như thế.
Trời Ðế Thích lại khuyên trâu nước:
- Ngươi nhẫn nhục như thế tuy rất cao thượng, nhưng ngươi lại sẽ bị cái bọn vô lại ấy ngược đãi hoài, không có ngày nào thoát được tay chúng.
- Tôi đang tu thiện pháp, chỉ sợ không tu được, làm sao dám làm hại một con thú vật khác? Tôi muốn đem hạnh nhẫn nhục ấy mà đánh thức lương tâm của chúng nó. Mặc dù con khỉ này không hiểu được bài học không lời của tôi, nhưng khi nó bị người khác xử phạt đích đáng thì tự nhiên nó sẽ hối cải và hiểu ra.
Trời Ðế Thích nghe thế, rất lấy làm kính phục, lớn tiếng tán thán:
- Trâu nước cao thượng kia! Thực hành nhẫn nhục với một nghị lực kiên cố chính là cái tâm của Bồ Tát dùng để hành đạo, chính loài người cũng phải tôn ngươi lên làm thầy. Nhẫn nhục được thì không có tâm sân hận, mà không sinh tâm sân hận thì giữ được trí tuệ, mà có trí huệ thì không có gì là không làm được. Hạnh nhẫn nhục của ngươi đã làm cho Trời, người phải tôn kính.
Nói xong trời Ðế Thích thuận tay nắm cổ con khỉ trên lưng trâu, giận dữ mà mắng rằng:
- Này con khỉ ngu si, quả báo đau khổ sẽ giáng xuống đầu mi, chưa chịu mau thông ra nữa hay sao?
Nói xong trời Ðế Thích rời trâu nước nhẫn nhục mà trở về thiên cung.
Về sau trâu nước được hưởng hạnh phúc, và cuộc đời của con khỉ thì vô cùng bi thảm!
Dùng nhẫn nhục đối xử với người không có nghĩa là chịu thua họ, mà là chiến thắng họ một cách chân chính.
Em viết về chuyện đàn ông vì họ có nhiều chuyện đáng nói. Nhưng em biết chưa bao giờ em được viết dễ dàng và thoải mái như hôm nay vì viết mà không cần phải lách, phải tránh né gì cả. Bọn đàn ông hết chín phần mười đọc tựa đề này xong sẽ lật qua trang khác ngay. Muốn họ đọc thì phải viết về chuyện đàn bà, chuyện cấm đàn bà, vả lại họ có đọc đi nữa cũng có sao đâu? Ở các xứ Âu Mỹ này làm gí có tổ chức, có cơ quan nào bảo vệ họ đâu mà sợ.
Trước tiên em xin thanh minh cùng các chị rằng em không có thù oán cá nhân gì với bọn họ. Em cũng có gia đình, nghĩa là cũng có một tên nô lệ da vàng hầu hạ như ai, chớ không phải thuộc loại gái già khú đế, vất ra đường, 5, 7 ngày không ai nhặt.
Thôi để em kể lại chuyện đời em cho các chị nghe.
Thuở còn con gái, em nổi danh là người đẹp, lại còn được tiếng nết na đức hạnh. Ba mẹ em thuộc dòng dõi Nho gia nên dạy dỗ em rất kỹ, nào là tam tòng tứ đức, nào là nhân lễ nghĩa trí tín, nào là xuất giá tòng phu, lấy chồng phải gánh vác giang sơn nhà chồng. Cho nên em rất đắt mối, chưa học xonh trung học mà đã đám này đám nọ, ông bà này đến coi mặt cho con, cậu mợ kia đến thăm dò cho cháu. Nói ra cứ tưởng em được tha hồ chọn lựa, kỳ thực quyết định chính là mẹ em, mà lựa theo tiêu chuẩn nào thì hiện em cũng chưa rõ nữa.
Thế rồi đến ngày đám cưới, mẹ em kêu em vào dặn dò. Nếu muốn không bị chồng bắt nạt thì khi vào phòng tân hôn, phải chạy lại ngồi ngay trên đầu giường chổ gối chồng em nằm. Trời đất ơi ! Không biết các cụ nhà ta bị đàn ông bắt nạt thế nào mà thần hồn nát thần tính, rồi đâm ra dị đoan mê tín lẩn thẩn thế. Từ ngày về làm dâu nhà họ Nguyễn, em được tiếng là vợ đảm, dâu hiền, các cụ cứ khen rối rít cả lên, đi đâu cũng đem ra khoe, làm em cũng được hảnh diện, hai lỗ mũi cứ phồng lên, rồi em cật lực đem thân ra làm dâu làm vợ
Các chị xem, đây là thời khóa biểu mỗi ngày như mọi ngày của em: 6 giờ sáng đã rón rén thức dậy pha trà hầu bố chồng, rửa mặt rửa mũi qua loa; rồi 7 giờ sáng vào đánh thức chồng dậy, dọn điểm tâm cho chàng trước khi đi làm, xong rồi quét dọn nhà cửa; đến 9 giờ sáng xách giỏ theo mẹ chồng đi chợ, bà vừa mua vừa trả giá vừa giảng giãi cho em biết lựa con cá nào ngon, con gà nào tơ bó rau nào tươi, phải biết đối đáp thế nào với những cô hàng chua ngoa đanh đá; 11 giờ về đến nhà, nấu cơm nấu canh cho cả nhà xơi; thường thì mọi người ăn được nửa bữa em mới có thì giờ ngồi vào bàn ăn, ăn xong lại dọn dẹp; trưa đến giặt dũ, là ủi áo quần, chiều vừa tắt bóng lại nổi lửa nấu cơm, đến 8,9 giờ tối mới tạm xong công việc; tắm rửa xong, vào phòng mệt muốn chết, cặp mắt muốn ríu lại, nhưng việc đã hết đâu, chàng bảo hôm nay làm việc mệt quá, mình đấm bóp cho anh một chút nhé, rồi còn chuyện kia nữa chứ !
Xong rồi chàng quay lưng ra ngủ khò.
Cuộc đời em cứ từ từ trôi qua như thế, mà em tưởng tất cả những đàn bà trên thế giới cũng có một cuộc sống như em, như lời mẹ chồng thường nhắc nhở. Rồi cứ một năm em sòn sòn đẻ mắn như gà, rồi việc ơi là việc, hết chồng lại con, hết bếp lại núc, hết nhà lại cửa; thế mà lạ thật, em chả oán trách than van gì cả. Thỉnh thoảng về nhà cha mẹ, em thấy trong ánh mắt của mẹ em một thoáng ái ngại, còn các em em thì phản đối ra mât. Chúng nó nói xa nói gần, có khi nói thẳng, nhưng em cứ cho là quá tân thời, tiêm nhiểm theo đời sống thác loạn Âu mỹ, nên thường không thèm chấp, có khi em thường đem dạy những bài học luân lý, đạo đức cho bọn chúng nghe nữa, chúng nó cười lắc đầu ngán ngẫm, coi trường hợp em như đã hết thuốc chữa.
Thế rồi miền nam thất thủ, em và gia đình chồng may mắn được lên tàu đào thoát. Qua đến Montréal, em vẫn giữ vai trò nội trợ như trước, nhưng lần hồi rồi chồng em cũng phải để cho em đi làm; thực sự, một mình chàng kham không nổi gánh nặng tài chánh của cả gia đình.
Thú thực với các chị, lần đầu tiên phải đi làm em sợ quá, nhưng rồi cũng quen đi. Mà hình như đàn ông bên này họ lịch sự, chiều chuộng đàn bà quá chừng. Lần hồi rồi em cũng biết ở các nước Âu Mỹ đã có cuộc giải phóng phụ nữ từ lâu, rồi em cũng nghe đến tai câu: nhất đàn bà, nhì chó mèo, thứ ba mới đến đàn ông gì đó.
Em ngẩm nghĩ đến cả mấy tuần, rồi em mới rõ. Thì ra mười mấy năm trời nay người ta đã lừa phỉnh em, người ta bịt mắt em, người ta dụ dỗ em dựa theo những cuốn sách từ thời thượng cổ bên tàu để bắt làm tôi mọi không công.
Trời ơi, tức ơi là tức! mười mấy năm của tuổi xuân thì, mười mấy năm đẹp nhất của một đời người con gái bị người ta lợi dụng mà không hưởng được chút gì, các chị nghĩ coi có đáng thù giận không?
Thế rồi em sắp đặt kế trả thù, không phải để riêng cho em đâu, mà cho tòan thể phụ nữ trên thế giới nữa đó. Em bắt đầu đọc sách, tham khảo, suy gẫm, gia nhập những hội đoàn phụ nữ để mở mắt ra. Thì ra đến giờ em chưa hiểu chưa biết gì hết về cái giống đàn ông kia cả.
Từ nay em xin gọi giống đàn ông là “bọn họ” cho tiện việc. Kể ra em đã lịch sự quá rồi. Hóa ra từ xưa đến giờ, từ Tây qua Đông, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào bọn họ cũng ăn hiếp chúng mình đủ kiểu.
Các chị coi, ở bên Tàu, bọn họ đặt ra biết bao luật lệ, bao nhiêu ràng buộc để hành hạ các cụ bà, để phục vụ họ. Nghĩ cũng quá tội cho các cụ bên Tàu, ai đời chân người ta đang đi đứng ngon lành, họ bắt bó béng nó lại. Hồi đầu em cũng tưởng bọn họ muốn cho chân các cụ bà đẹp, từng bước nở hoa sen, thôi thì cũng được đi, bây giờ em mới biết họ bó chân các cụ với mục đích khác, họ nghĩ bó chân cho nhỏ, ít đi ít đứng thì chổ khác nở ra to để phục vụ bọn họ, nghĩ có giận không?
Còn bên Tây, thời Trung cổ, bọn họ đặt ra cái khóa trinh tiết bằng sắt nặng trình trịch, đi chinh chiến thì đem chìa khóa đi theo. Có mấy đứa mấy năm sau trở về, thấy vợ mình già nua xấu xí, thế là nó giả vờ bảo chìa khóa lạc mất đâu rồi, thế có chết con người ta không ?
Còn ở bên Trung Phi bây giờ, ở cái xứ U-đít gì đó, vẫn còn cái trò cấm đoán đủ thứ. Ra đường thì phải còn che mặt, mặc quần áo năm bảy lớp dù trời nắng chang chang. Lại còn phải sống trong cái harem nữa chứ, cứ như đàn bò cái, bầy gà mái.
Hồi xưa ở xứ Chiêm Thành còn có luật lệ, mỗi khi chồng chết, họ đem thiêu luôn các bà vợ. Các chị còn nhớ Huyền Trân Công Chúa không? Cũng may có ông Ngân Uyển đi vào được chiều thứ tư, ngược dòng thời gian, đến cứu kịp thời nếu không đã chết thiêu mất tiêu rồi còn gì.
Hiện chừ bên Phi Châu còn tục lệ cắt clitoris, ai đời con gái người ta mới 6, 7 tuổi bị đè ra cắt béng đi, cho hết khoái cảm về sau, các chị nghĩ có dã man hung ác không?
Còn các cụ bà nhà ta, thôi em chả cần phải viết đi viết lại làm gì những điều các chị đã biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng càng nghĩ lại càng tức lộn ruột, hồi còn là con gái, các cụ phải lo lắng cho gia đình, hết bếp núc đến đồng áng, trong lúc bọn trai thì cho đi học đi chơi tùy ý, cái gì mà “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Đến tuổi lấy chồng, các bà mối bà mai đến nắn tay nắn chân, sờ tai vạch tóc, coi có khỏe mạnh, có mắn đẻ không? Để đem về làm dâu, thực ra là để làm việc nhà chồng, nói phải tội, chắc chả có cụ nào được thỏa mãn sinh lý một lần trong đời. Các cụ chỉ dám than thở qua ca dao, qua câu hò câu hát, bạo hơn, như cụ Hồ Xuân Hương làm thơ châm biếm, thế là bọn họ ghép cho bao nhiêu là tội. Về làm vợ, các cụ phải gánh vác giang sơn nhà chồng, làm việc bất kể ngày đêm, rồi lại đẻ đái sòn sòn, làm sao mà không sồ sề, không già trước tuổi ra được. Thế là bọn họ lấy cớ để lấy V2, V3. Mà còn chưa đủ, họ lại bày đặt ra chốn kỷ viện, thanh lâu, đem chị em ta ra làm trò chơi giải trí.
Hiện nay ở xứ Bắc Mỹ này, mặc dù ở thế hạ phong, bọn họ vẫn còn ngấm ngầm chống đối chúng ta. Các chị cứ để ý lại xem, trong các lễ lượt của chúng ta, mặc dù họ ngồi yên ra vẻ nghiêm chỉnh, nhưng em thấy trong ánh mắt họ có cái gì riểu cợt, khinh thường.
Còn chuyện khổ nhất của đàn bà con gái chúng ta là chuyện kinh kỳ, một tháng bốn năm ngày đau khổ biết chừng nào. Thế mà bọn họ cũng nỡ đem ra làm đề tài diễu cợt, nào là mang cờ Nhật, nào là Chu Du thổ huyết, thật dơ dáy quá sức.
Đến lúc sinh nở, họ dông tuốt đi luôn để ta vượt cạn một mình. Qua xứ này, theo phong tục, họ phải vào phòng sanh để giúp đỡ vợ, thế là chín đứa trên mười xỉu tại chổ.
Chao ơi, càng nghĩ em càng nộ khí xung thiên, em đã quyết rồi, em nhất định phải làm một cái gì đặc biệt mới hả mối giận này, mà bây giờ em cũng khôn ngoan thận trọng ra rồi, muốn trị họ cho đến nơi đến chốn, thì phải biết mình biết người, nghĩa là phải biết rõ các khuyết điểm của họ.
Trước tiên về thân thể vóc dáng, bọn họ thường tự hào là phái khỏe, còn chúng ta chỉ là một cái xương sườn của họ. Quả thực bọn họ cao lớn khỏe mạnh hơn ta chút ít, có điều càng to càng khỏe thì chức vụ cao nhất cũng chỉ làm đến cận vệ cho tổng thống là cùng. Ta tuy bé mà bé hạt tiêu, bé nhưng dẻo dai, còn hơn lớn mà bở rẹt.
Còn về sắc đẹp, chị em chúng ta có vòng 1, vòng 2, vòng 3 cong cong mềm mại, còn bọn họ thì thẳng đuồn đuột, lòng tha lòng thòng, thật đểnh đoảng vô vị như cặp vú đàn ông. Còn mặt mày, đứa thì hói đầu, đứa thì râu tóc lởm chởm, mũi miệng thô tháp, đôi mắt khi thì liếc ngang liếc dọc, khi giận thì đỏ kè hung hãn.
Một số bọn chúng cũng biết thế nên nay có phong trào sửa sắc đẹp, có đứa cũng bắt đầu sửa mắt, sửa mũi, son phấn tùm lum, rồi tập đi tập đứng thướt tha dịu dàng như chúng mình để lập lừa đánh lận con đen, đại diện là bọn “gay”. Em có hỏi bọn họ tại sao phải làm như vậy, bọn họ thú thật thời nay đàn ông đã mất giá, nên muốn thành đàn bà để được bảo vệ, để được hưởng nhiều quyền lợi, bọn này chỉ là bọn thấy bên nào mạnh thì theo, thì hùa vào. Chị em chúng ta phải dứt khoát không thâu nhận bọn họ vào hàng ngũ.
Còn về tính tình, bọ họ thường tự cao tự đại, ba hoa khoác lác, ít chịu thua ai, cho nên nếu có bị hiếp đáp cũng giả bộ ra vẻ ta đây là người lớn không thèm chấp, đó là một khuyết điểm lớn mà ta phải biết lợi dụng để khai thác.
Ngoài ra họ còn ham danh ham lợi, thích làm tiền, ta phải xúi dục khích bác để bọn họ đem nhiều tiền về cho ta tiêu, lại còn thích ngọt, thích được nịnh nọt, ta phải biết, để dễ nắm mũi kéo đi.
Hiện nay trên thế giới biết bao nhiêu phong trào nổi lên dành lại sự công bằng cho phụ nữ, thế mà vẫn có một số chị em sợ sệt vớ vẩn. Các chị sợ rằng bọn đàn ông bị hiếp đáp quá sẽ chủ bại, nhu nhược lờ khờ, đâm ra biếng nhác ù lì ,rồi không chịu làm việc để phục vụ chúng ta, các chị này bị hiếp đáp quá nhiều và quá lâu nên đâm ra lẩn thẩn, phải cần có thời gian để giải độc. Em nghĩ thật ra các phong trào phụ nữ chưa nhầm nhò gì đâu các chị ạ.
Sau mấy năm nghiềnn ngẫm, em đã tìm ra chân lý, tìm ra nguyên nhân chính của sự đau khổ của chúng ta, và đã tìm ra phương pháp chửa trị tận gốc, em không nói ngoa đâu, các chị đọc tiếp sẽ rõ.
Sự đau khổ chính của chúng ta là mang thai, sinh sản, và vấn đề kinh nguyệt, có phải không các chị? Nghĩ đi nghĩ lại, giải quyết dễ ợt hà! Thời buổi này là thời buổi văn minh, cắt chổ này ghép chổ kia, các bác sĩ làm như trở bàn tay. Thế rồi em nghĩ sao không cắt tử cung rồi ghép vào bọn đàn ông để chuyện bầu bì từ nay giao khoán cho họ. Còn chuyện thụ thai được hay không là chuyện khác, đó là chuyện của họ, họ phải tự xoay sở lấy, việc gì đến ta? Từ thuở tạo thiên lập địa, giống cái chúng mình đã đảm trách công việc truyền giống rồi, đến nay là phiên họ, em nghĩ cũng không sớm lắm đâu. Suy nghĩ chính chắn xong em đi tham khảo ý kiến của các giới phụ nữ khắp năm châu, ai ai cũng cho là ý kiến độc đáo mới lạ từ cổ chí kim chưa ai nghĩ đến. Sau đó em xin đến gặp bà chủ tịch Hội Nữ y sĩ thế giới.
Bà gật gù đồng ý ngay trên nguyên tắc, nhưng bảo phải thử ghép các giống khỉ vượn trước, để xem kết quả ra sao? Em vội trả lời:
- Ối dào, việc gì phải thử vào khỉ cho dây dưa với hội bảo vệ súc vật? Ta cứ vào các trường Đại học, tuyển một số tình nguyện thí nghiệm, cứ hứa với họ là sau khi thành công sẽ cho làm đàn bà luôn, em nghĩ có khối đứa tình nguyện xin được ghép. Quả nhiên khi vào các trường Đại Học tuyển người, số thí sinh xung phong tình nguyện đông không kể xiết, có nơi còn đi đến xô xát để dành chỗ.
Rồi kết quả các cuộc cắt ghép thành công ngoài dự định của các nữ bác sĩ giải phẩu. Chỉ có vài sự trục trặc nhỏ như bọn đàn ông phút chốc lại trở thành đàn bà, mừng rỡ quá như hoa điên hóa cuồng, đi đâu cũng khoe khoang ầm ĩ cả lên, làm nhà em tràn ngập đơn xin, còn ông bưu điện vất vả ngày đêm để nhận, chuyển các thư từ, giây thép từ khắp năm châu gửi về xin cắt ghép.
Rồi em lại lên gặp bà chủ tịch Hội Nữ y sĩ thế giới, bà phục em quá, xin em làm cố vấn cho hội, rồi còn đề nghị trao giải Nobel năm tới cho em vì có công trong cuộc giải phóng phụ nữ. Em nhún nhường:
- Việc đó nhằm nhò gì, phụ nữ Việt Nam chúng tôi còn có những kế hoạch kinh thiên động địa nữa, có thể đảo lộn cả thế giới như chơi.
Sau đó em đến gặp bà chủ tịch Hội Nữ luật sư thế giới để bàn định soạn thảo một luật gia đình cho toàn cầu. Điều khoản chính là trước khi thành hôn, người chồng phải được ghép tử cung của vợ. Từ nay về sau chuyện sanh sản phải do phái nam đảm trách, đàn bà chúng ta sẽ rảnh tay để làm những chuyện khác, chuyện gì thì hiện giờ em chưa nghĩ đến.
Công chuyện ghép tử cung đại khái kể cũng tạm xong.
Chiều nay về đến nhà đã hơn 7 giờ tối, tên nô lệ da vàng đã cơm nước sẳn sàng, ân cần đưa khăn cho em lau mặt, rồi kéo ghế mời em ngồi xơi cơm, trông hắn độ này nhủn nhặn ra hẳn. Ăn xong, hắn mời em đi xem xiné, phim “ Một Thế Giới Không Đàn Bà”. Phim thật hay, chuyện giả tưởng ấy mà, một thê giới mà đột nhiên đàn bà biến mất cả, bọn đàn ông sống với nhau mất thăng bằng, nổi điên nổi khùng chém giết lẫn nhau, cuối cùng cả thế giới bị tận diệt.
Ra về, tên nô lệ da vàng của em nhẹ nhàng thú nhận:
- Phim đó diễn tả rất đúng, một thế giới không có đàn bà là một thế giới chết, đàn ông chúng anh rất cần phái nữ, có đàn bà cuộc đời mới có ý nghĩa, đúng theo luật âm dương của tạo hóa.
Sau khi đắp chăn cho em, hắn hôn lên trán em, chúc em ngủ ngon rồi tiếp- Chúc em tối nay có một giấc mơ “ Một Thế Giới Không Đàn Ông”. Nói xong hắn cười, em ngờ ngờ thấy trong nụ cười của hắn có một cái gì khó hiểu, một cái gì ranh mãnh tinh ma.
Thế rồi em nằm mộng thấy “Một Thế Giới Không Đàn Ông “ thiệt các chị ạ. Chao ơi, kinh khủng quá, một thế giới chỉ toàn đàn bà là đàn bà, càng nghĩ lại càng rùng mình, mồ hôi tay mồ hôi chân cứ rịn ra, em không dám kể lại đâu, em sợ quá rồi. Thôi cái kế hoạch cắt ghép tử cung phải đem vất vào xọt rác cho rồi, còn cái giải Nobel nữa,em chả thèm vào đâu. Mà nghĩ cho kỹ, mình còn đòi gì nữa, đàn ông người ta quá tốt, người ta làm việc như trâu bò để lo lắng cho gia đình, đùm bọc che chở cho mình, thế mà thấy người ta ít nói mình cứ kiếm cách ăn hiếp người ta, bày đặt ra chuyện này chuyện nọ để tìm cách hạ người ta, nghĩ lại em thấy thẹn thùng quá. Thôi,em sẽ ra tòa Đô Chánh ngay để xin lập hội bảo vệ đàn ông, kẻo không họ tuyệt chủng mất thôi.
Chúc các chị tối nay ngủ ngon và đầu năm đừng nằm mơ thấy “ Một Thế Giới Không Đàn Ông”
Vì Sao Việt Nam Không Có Vietnam Town? - BS Hồ Hải
Một dân tộc lớn hay không lớn, không phải vì dân tộc đó có một lãnh thổ rộng lớn, hay một dân số đông, hay một nền kinh tế, quốc phòng hùng cường bậc nhất toàn cầu, mà một dân tộc lớn là dân tộc có một lịch sử và nền văn hóa lớn.
Ở đây không bàn đến chuyện văn hóa đang suy đồi đến cùng cực sau hơn 38 năm dưới sự "giáo dục" của đảng cộng sản cầm quyền. Vì cái gì cũng vậy, khi đi xuống đến tối thiểu thì sẽ tự có cơ chế bảo vệ, ắt văn hóa sẽ đi lên, khi người dân ý thức được những gì xằng bậy đã bị các chính khách gieo rắc. Bài viết này tôi muốn bàn đến bản chất của vấn đề trong văn hóa Việt cần thức tỉnh.
Lịch sử dân tộc nào cũng có bi, hùng mà không cần phải so sánh để biết được dân tộc đó lớn hay nhỏ. Ngay cả Hoa Kỳ, một đất nước đa chủng tộc, có một lịch sử non trẻ chỉ từ 1776 đến nay, nhưng lịch sử nội chiến, và tham gia giữ gìn hòa bình, dân chủ, tự do cho toàn cầu, thì nền lịch sử của Hoa Kỳ hoàn toàn đáng để gọi là vĩ đại.
Phần còn lại của sự lớn mạnh của một dân tộc là ở nền văn hóa của dân tộc ấy. Mỗi nền văn hóa của một dân tộc thì lại quá mênh mông và to lớn cho bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Nhưng để khẳng định sự to lớn của nền văn hóa ấy với toàn cầu lại là một việc khác. Những tiêu chuẩn để khẳng định văn hóa to lớn của một dân tộc không chỉ định hình nó ở trong quốc gia, mà còn sự khẳng định nền văn hóa của dân tộc ấy ra ngoài lãnh thổ biên cương.
Người Việt Nam bắt đầu biết vươn ra biển lớn từ thời thuộc Pháp. Một tầng lớp trí thức và nhà giàu đã du học, hoặc ra đi tìm vận mệnh cho đất nước, hoặc họ ở lại trời Tây, hoặc mang về tầm nhìn, kiến thức để khai sáng dân tộc. Nhưng so với văn hóa Trung Hoa, dân tộc Việt chưa bao giờ làm được sự khẳng định văn hóa Việt ra ngoài lãnh thổ.
Cho đến hôm nay, người Việt Hải Ngoại đã có mặt trên hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mặt dù mãi đến thập niên 1970, cũng chỉ có khoảng 100.000 người Việt sống ở các nước khu vực Đông Nam Á và một số quốc gia như Pháp, Hoa Kỳ và châu Âu. Nhưng "nhờ" sự có mặt của đảng cộng sản cầm quyền đã "giúp" người Việt thà bỏ thây cho cá biển, cướp biển để được sống ở Hải ngoại, dù bất cứ nơi đâu, mà nơi đó không phải là Việt Nam. Con số người Việt ở hải ngoại ngày nay đã lên đến khoảng hơn 4 triệu người. Đông nhất là Hoa Kỳ khoảng 2.2 triệu. Đông hàng thứ hai là Pháp và Úc khoảng hơn 300 ngàn.v.v... Nhưng người Việt chưa bao giờ có được Vietnam Town - Phố Việt - như người Trung Hoa có China Town.
Tuy không có Vietnam Town, nhưng văn hóa uống nước nhớ nguồn của dân Việt không thua Trung Hoa. Hằng năm khúc ruột ngàn dặm, mà xưa đảng cầm quyền cho là bán nước, nay là yêu nước vẫn đều đặn gửi về cho quê hương khoảng 10% GDP. Một con số không hề nhỏ so với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới mà có dân ở hải ngoại gửi tiền về xây dựng quốc gia.
So sánh với người Trung Hoa, thì cho đến hôm nay dân tộc Việt không thể so sánh về cả tư tưởng, lịch sử, lãnh thổ, dân số lẫn văn hóa. Khi người Trung Hoa tự hào đội quân thứ Năm của họ trên khắp hoàn cầu - ngoài Mãn, Mông, Hồi, Tạng ở nội địa - ở đâu cũng có China Town. Nó là sức mạng to lớn ghê gớm không chỉ kinh tế, an ninh quốc phòng mà còn là sức mạnh văn hóa lan tỏa của tư tưởng Khổng Khâu và Tôn Tử của Trung Hoa.
Sẽ có người cho rằng, người Việt đã có Little Sài Gòn ở San Jose, Hoa Kỳ. Đồng ý, nhưng Little Sài Gòn không thể đại diện văn hóa Việt. Vì nó mang màu sắc chính trị hơn là văn hóa. Trong khi đó, người Việt, nước Việt cần một biểu trưng đại diện cái lớn hơn, trường tồn hơn cho dân tộc, đất nước, dù đất nước Việt có bị chịu dưới ách thống trị của một chính thể xấu xa đến cỡ nào. Người dân Việt và đất nước Việt không xấu xa như các thể chế chính trị đã và đang hiện hữu nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Sự lớn mạnh của một dân tộc cần văn hóa hơn là chính trị, dù có một nền chính trị tốt đẹp nào đi nữa thì người dân vẫn là kẻ bại trận, như câu nói của De Gaulle: "Tất cả các chủ thuyết rồi sẽ qua đi, điều còn lại cuối cùng là dân tộc!"
Vì sao chúng ta chưa có Vietnam Town? Hôm nay nói chuyện với ông bạn già hơn 30 năm sống ở Hoa Kỳ và chu du khắp thế giới, ông bảo, người Việt mình chỉ biết đoàn kết khi cùng đường, lúc còn thở được thì không biết nhìn về một hướng. Cậu thấy đấy, ngay cả trong lúc này, khi đời sống người dân đang xuống đáy, nhưng dân mình còn chưa biết đoàn kết, nói gì những lúc còn có thể thở được. Buồn!
Em viết về chuyện đàn ông vì họ có nhiều chuyện đáng nói. Nhưng em biết chưa bao giờ em được viết dễ dàng và thoải mái như hôm nay vì viết mà không cần phải lách, phải tránh né gì cả. Bọn đàn ông hết chín phần mười đọc tựa đề này xong sẽ lật qua trang khác ngay. Muốn họ đọc thì phải viết về chuyện đàn bà, chuyện cấm đàn bà, vả lại họ có đọc đi nữa cũng có sao đâu? Ở các xứ Âu Mỹ này làm gí có tổ chức, có cơ quan nào bảo vệ họ đâu mà sợ.
Trước tiên em xin thanh minh cùng các chị rằng em không có thù oán cá nhân gì với bọn họ. Em cũng có gia đình, nghĩa là cũng có một tên nô lệ da vàng hầu hạ như ai, chớ không phải thuộc loại gái già khú đế, vất ra đường, 5, 7 ngày không ai nhặt.
Thôi để em kể lại chuyện đời em cho các chị nghe.
Thuở còn con gái, em nổi danh là người đẹp, lại còn được tiếng nết na đức hạnh. Ba mẹ em thuộc dòng dõi Nho gia nên dạy dỗ em rất kỹ, nào là tam tòng tứ đức, nào là nhân lễ nghĩa trí tín, nào là xuất giá tòng phu, lấy chồng phải gánh vác giang sơn nhà chồng. Cho nên em rất đắt mối, chưa học xonh trung học mà đã đám này đám nọ, ông bà này đến coi mặt cho con, cậu mợ kia đến thăm dò cho cháu. Nói ra cứ tưởng em được tha hồ chọn lựa, kỳ thực quyết định chính là mẹ em, mà lựa theo tiêu chuẩn nào thì hiện em cũng chưa rõ nữa.
Thế rồi đến ngày đám cưới, mẹ em kêu em vào dặn dò. Nếu muốn không bị chồng bắt nạt thì khi vào phòng tân hôn, phải chạy lại ngồi ngay trên đầu giường chổ gối chồng em nằm. Trời đất ơi ! Không biết các cụ nhà ta bị đàn ông bắt nạt thế nào mà thần hồn nát thần tính, rồi đâm ra dị đoan mê tín lẩn thẩn thế. Từ ngày về làm dâu nhà họ Nguyễn, em được tiếng là vợ đảm, dâu hiền, các cụ cứ khen rối rít cả lên, đi đâu cũng đem ra khoe, làm em cũng được hảnh diện, hai lỗ mũi cứ phồng lên, rồi em cật lực đem thân ra làm dâu làm vợ.
Các chị xem, đây là thời khóa biểu mỗi ngày như mọi ngày của em: 6 giờ sáng đã rón rén thức dậy pha trà hầu bố chồng, rửa mặt rửa mũi qua loa; rồi 7 giờ sáng vào đánh thức chồng dậy, dọn điểm tâm cho chàng trước khi đi làm, xong rồi quét dọn nhà cửa; đến 9 giờ sáng xách giỏ theo mẹ chồng đi chợ, bà vừa mua vừa trả giá vừa giảng giãi cho em biết lựa con cá nào ngon, con gà nào tơ bó rau nào tươi, phải biết đối đáp thế nào với những cô hàng chua ngoa đanh đá; 11 giờ về đến nhà, nấu cơm nấu canh cho cả nhà xơi; thường thì mọi người ăn được nửa bữa em mới có thì giờ ngồi vào bàn ăn, ăn xong lại dọn dẹp; trưa đến giặt dũ, là ủi áo quần, chiều vừa tắt bóng lại nổi lửa nấu cơm, đến 8,9 giờ tối mới tạm xong công việc; tắm rửa xong, vào phòng mệt muốn chết, cặp mắt muốn ríu lại, nhưng việc đã hết đâu, chàng bảo hôm nay làm việc mệt quá, mình đấm bóp cho anh một chút nhé, rồi còn chuyện kia nữa chứ !
Xong rồi chàng quay lưng ra ngủ khò.
Cuộc đời em cứ từ từ trôi qua như thế, mà em tưởng tất cả những đàn bà trên thế giới cũng có một cuộc sống như em, như lời mẹ chồng thường nhắc nhở. Rồi cứ một năm em sòn sòn đẻ mắn như gà, rồi việc ơi là việc, hết chồng lại con, hết bếp lại núc, hết nhà lại cửa; thế mà lạ thật, em chả oán trách than van gì cả. Thỉnh thoảng về nhà cha mẹ, em thấy trong ánh mắt của mẹ em một thoáng ái ngại, còn các em em thì phản đối ra mât. Chúng nó nói xa nói gần, có khi nói thẳng, nhưng em cứ cho là quá tân thời, tiêm nhiểm theo đời sống thác loạn Âu mỹ, nên thường không thèm chấp, có khi em thường đem dạy những bài học luân lý, đạo đức cho bọn chúng nghe nữa, chúng nó cười lắc đầu ngán ngẫm, coi trường hợp em như đã hết thuốc chữa.
Thế rồi miền nam thất thủ, em và gia đình chồng may mắn được lên tàu đào thoát. Qua đến Montréal, em vẫn giữ vai trò nội trợ như trước, nhưng lần hồi rồi chồng em cũng phải để cho em đi làm; thực sự, một mình chàng kham không nổi gánh nặng tài chánh của cả gia đình.
Thú thực với các chị, lần đầu tiên phải đi làm em sợ quá, nhưng rồi cũng quen đi. Mà hình như đàn ông bên này họ lịch sự, chiều chuộng đàn bà quá chừng. Lần hồi rồi em cũng biết ở các nước Âu Mỹ đã có cuộc giải phóng phụ nữ từ lâu, rồi em cũng nghe đến tai câu: nhất đàn bà, nhì chó mèo, thứ ba mới đến đàn ông gì đó.
Em ngẩm nghĩ đến cả mấy tuần, rồi em mới rõ. Thì ra mười mấy năm trời nay người ta đã lừa phỉnh em, người ta bịt mắt em, người ta dụ dỗ em dựa theo những cuốn sách từ thời thượng cổ bên tàu để bắt làm tôi mọi không công.
Trời ơi, tức ơi là tức! mười mấy năm của tuổi xuân thì, mười mấy năm đẹp nhất của một đời người con gái bị người ta lợi dụng mà không hưởng được chút gì, các chị nghĩ coi có đáng thù giận không?
Thế rồi em sắp đặt kế trả thù, không phải để riêng cho em đâu, mà cho tòan thể phụ nữ trên thế giới nữa đó. Em bắt đầu đọc sách, tham khảo, suy gẫm, gia nhập những hội đoàn phụ nữ để mở mắt ra. Thì ra đến giờ em chưa hiểu chưa biết gì hết về cái giống đàn ông kia cả.
Từ nay em xin gọi giống đàn ông là “bọn họ” cho tiện việc. Kể ra em đã lịch sự quá rồi. Hóa ra từ xưa đến giờ, từ Tây qua Đông, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào bọn họ cũng ăn hiếp chúng mình đủ kiểu.
Các chị coi, ở bên Tàu, bọn họ đặt ra biết bao luật lệ, bao nhiêu ràng buộc để hành hạ các cụ bà, để phục vụ họ. Nghĩ cũng quá tội cho các cụ bên Tàu, ai đời chân người ta đang đi đứng ngon lành, họ bắt bó béng nó lại. Hồi đầu em cũng tưởng bọn họ muốn cho chân các cụ bà đẹp, từng bước nở hoa sen, thôi thì cũng được đi, bây giờ em mới biết họ bó chân các cụ với mục đích khác, họ nghĩ bó chân cho nhỏ, ít đi ít đứng thì chổ khác nở ra to để phục vụ bọn họ, nghĩ có giận không?
Còn bên Tây, thời Trung cổ, bọn họ đặt ra cái khóa trinh tiết bằng sắt nặng trình trịch, đi chinh chiến thì đem chìa khóa đi theo. Có mấy đứa mấy năm sau trở về, thấy vợ mình già nua xấu xí, thế là nó giả vờ bảo chìa khóa lạc mất đâu rồi, thế có chết con người ta không ?
Còn ở bên Trung Phi bây giờ, ở cái xứ U-đít gì đó, vẫn còn cái trò cấm đoán đủ thứ. Ra đường thì phải còn che mặt, mặc quần áo năm bảy lớp dù trời nắng chang chang. Lại còn phải sống trong cái harem nữa chứ, cứ như đàn bò cái, bầy gà mái.
Hồi xưa ở xứ Chiêm Thành còn có luật lệ, mỗi khi chồng chết, họ đem thiêu luôn các bà vợ. Các chị còn nhớ Huyền Trân Công Chúa không? Cũng may có ông Ngân Uyển đi vào được chiều thứ tư, ngược dòng thời gian, đến cứu kịp thời nếu không đã chết thiêu mất tiêu rồi còn gì.
Hiện chừ bên Phi Châu còn tục lệ cắt clitoris, ai đời con gái người ta mới 6, 7 tuổi bị đè ra cắt béng đi, cho hết khoái cảm về sau, các chị nghĩ có dã man hung ác không?
Còn các cụ bà nhà ta, thôi em chả cần phải viết đi viết lại làm gì những điều các chị đã biết bao nhiêu lần rồi. Nhưng càng nghĩ lại càng tức lộn ruột, hồi còn là con gái, các cụ phải lo lắng cho gia đình, hết bếp núc đến đồng áng, trong lúc bọn trai thì cho đi học đi chơi tùy ý, cái gì mà “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Đến tuổi lấy chồng, các bà mối bà mai đến nắn tay nắn chân, sờ tai vạch tóc, coi có khỏe mạnh, có mắn đẻ không? Để đem về làm dâu, thực ra là để làm việc nhà chồng, nói phải tội, chắc chả có cụ nào được thỏa mãn sinh lý một lần trong đời. Các cụ chỉ dám than thở qua ca dao, qua câu hò câu hát, bạo hơn, như cụ Hồ Xuân Hương làm thơ châm biếm, thế là bọn họ ghép cho bao nhiêu là tội. Về làm vợ, các cụ phải gánh vác giang sơn nhà chồng, làm việc bất kể ngày đêm, rồi lại đẻ đái sòn sòn, làm sao mà không sồ sề, không già trước tuổi ra được. Thế là bọn họ lấy cớ để lấy V2, V3. Mà còn chưa đủ, họ lại bày đặt ra chốn kỷ viện, thanh lâu, đem chị em ta ra làm trò chơi giải trí.
Hiện nay ở xứ Bắc Mỹ này, mặc dù ở thế hạ phong, bọn họ vẫn còn ngấm ngầm chống đối chúng ta. Các chị cứ để ý lại xem, trong các lễ lượt của chúng ta, mặc dù họ ngồi yên ra vẻ nghiêm chỉnh, nhưng em thấy trong ánh mắt họ có cái gì riểu cợt, khinh thường.
Còn chuyện khổ nhất của đàn bà con gái chúng ta là chuyện kinh kỳ, một tháng bốn năm ngày đau khổ biết chừng nào. Thế mà bọn họ cũng nỡ đem ra làm đề tài diễu cợt, nào là mang cờ Nhật, nào là Chu Du thổ huyết, thật dơ dáy quá sức.
Đến lúc sinh nở, họ dông tuốt đi luôn để ta vượt cạn một mình. Qua xứ này, theo phong tục, họ phải vào phòng sanh để giúp đỡ vợ, thế là chín đứa trên mười xỉu tại chổ.
Chao ơi, càng nghĩ em càng nộ khí xung thiên, em đã quyết rồi, em nhất định phải làm một cái gì đặc biệt mới hả mối giận này, mà bây giờ em cũng khôn ngoan thận trọng ra rồi, muốn trị họ cho đến nơi đến chốn, thì phải biết mình biết người, nghĩa là phải biết rõ các khuyết điểm của họ.
Trước tiên về thân thể vóc dáng, bọn họ thường tự hào là phái khỏe, còn chúng ta chỉ là một cái xương sườn của họ. Quả thực bọn họ cao lớn khỏe mạnh hơn ta chút ít, có điều càng to càng khỏe thì chức vụ cao nhất cũng chỉ làm đến cận vệ cho tổng thống là cùng. Ta tuy bé mà bé hạt tiêu, bé nhưng dẻo dai, còn hơn lớn mà bở rẹt.
Còn về sắc đẹp, chị em chúng ta có vòng 1, vòng 2, vòng 3 cong cong mềm mại, còn bọn họ thì thẳng đuồn đuột, lòng tha lòng thòng, thật đểnh đoảng vô vị như cặp vú đàn ông. Còn mặt mày, đứa thì hói đầu, đứa thì râu tóc lởm chởm, mũi miệng thô tháp, đôi mắt khi thì liếc ngang liếc dọc, khi giận thì đỏ kè hung hãn.
Một số bọn chúng cũng biết thế nên nay có phong trào sửa sắc đẹp, có đứa cũng bắt đầu sửa mắt, sửa mũi, son phấn tùm lum, rồi tập đi tập đứng thướt tha dịu dàng như chúng mình để lập lừa đánh lận con đen, đại diện là bọn “gay”. Em có hỏi bọn họ tại sao phải làm như vậy, bọn họ thú thật thời nay đàn ông đã mất giá, nên muốn thành đàn bà để được bảo vệ, để được hưởng nhiều quyền lợi, bọn này chỉ là bọn thấy bên nào mạnh thì theo, thì hùa vào. Chị em chúng ta phải dứt khoát không thâu nhận bọn họ vào hàng ngũ.
Còn về tính tình, bọ họ thường tự cao tự đại, ba hoa khoác lác, ít chịu thua ai, cho nên nếu có bị hiếp đáp cũng giả bộ ra vẻ ta đây là người lớn không thèm chấp, đó là một khuyết điểm lớn mà ta phải biết lợi dụng để khai thác.
Diễn Đàn Người Việt Hải Ngoại. Tự do ngôn luận, an toàn và uy tín. Vì một tương lai tươi đẹp cho các thế hệ Việt Nam hãy ghé thăm chúng tôi, hãy tâm sự với chúng tôi mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút có thể. VietBF.Com Xin cám ơn các bạn, chúc tất cả các bạn vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
Welcome to Vietnamese American Community, Vietnamese European, Canadian, Australian Forum, Vietnamese Overseas Forum. Freedom of speech, safety and prestige. For a beautiful future for Vietnamese generations, please visit us, talk to us every day, every hour and every moment possible. VietBF.Com Thank you all and good luck.