Xe tăng T54 thuộc ḍng “tối cổ” (thế hệ đầu tiên ra đời năm 1948!) mà “quân đội nhân dân Việt Nam” hiện vẫn sử dụng có thể bắn từ Hà Nội vào Sài G̣n! Đó là “cảm xúc tự hào” của một phóng viên VOV khi tường thuật chương tŕnh A80 (80 năm Cách Mạng Tháng Tám và Quốc Khánh) được tổ chức ầm ĩ ở Hà Nội. Chi tiết hài hước này cho thấy điều ǵ?
Trong video quay trực tiếp được cộng đồng mạng chia sẻ, người ta thấy một nữ phóng viên độ tuổi hơn 20 của VOV, tự xưng là Kim Anh, phỏng vấn một người lính xe tăng tham gia chương tŕnh A80, trong đó có đoạn:
-Thật ra nói về chuyên môn th́ Kim Anh cũng không hiểu nhưng đại loại là ḿnh có thể bắn trúng đối tượng xa, cách xa ḿnh bao nhiêu ạ?
-Thường thường th́ xe tăng sẽ bắn ở khoảng cách từ 1,000 đến 2,000 mét…
-Xa vậy ạ…
-Là tầm bắn trực tiếp và chính xác nhất…
-Là từ đây vào TP.HCM là bắn được luôn ạ…
“Bắn được luôn ạ” không chỉ cho thấy “nói về chuyên môn th́ Kim Anh cũng không hiểu” mà c̣n “tiết lộ” rằng Kim Anh không phân biệt được đơn vị mét với kilomét – một kiến thức căn bản của học tṛ tiểu học.
Câu chuyện đầy tính mỉa mai cho thấy màn “lỡ lời” của Kim Anh không đơn giản là một tai nạn nghề nghiệp mà cô phóng viên này là nạn nhân điển h́nh của nền giáo dục Việt Nam, “sau 80 năm độc lập” và “50 năm thống nhất.”
Lỗ hổng kiến thức căn bản của giới trẻ Việt Nam, bất luận thành phần “trí thức” hoặc người lao động chân tay, là vấn đề thật sự nghiêm trọng. Câu chuyện một phóng viên như Kim Anh mà “dốt đến thế” hoàn toàn không hiếm, nếu không nói là rất phổ biến. Nó là tấm gương phản chiếu sự khiếm khuyết kiến thức trầm trọng của giới trẻ nói chung – một sự thật gần như không ai không thấy.
Kiến thức nền đă và đang bị găy đổ từ gốc. Khảo sát của Viện Nghiên Cứu Thanh Niên năm 2023 cho thấy, chỉ 18% học sinh trung học phổ thông trả lời chính xác mốc thời gian các sự kiện lớn trong thế kỷ 20. Nhiều sinh viên thừa nhận chưa bao giờ biết chính xác Việt Nam có bao nhiêu tỉnh giáp biển. Việc “học văn” chủ yếu để đối phó điểm số khiến học sinh thuộc ḷng phân tích mẫu nhưng không thể viết nổi một bài nghị luận mạch lạc.
Vấn đề không chỉ nằm ở hệ thống và cấu trúc giáo dục – một nền giáo dục chưa bao giờ khuyến khích tư duy phản biện – mà c̣n ở vai tṛ của t́nh trạng chính trị hóa giáo dục. Giới giáo dục học lẫn báo chí Việt Nam thường xuyên than thở “những kết quả đáng trăn trở về môn lịch sử suốt thời gian dài qua” (năm 2011, kết quả thi đại học môn lịch sử đă gây sốc khi có hàng ngàn điểm 0!). Điều đáng nói ở chỗ, học sinh không chỉ dốt sử mà c̣n mù tịt về “sử thật.” Ngoài “sử tuyên truyền,” chúng chẳng biết thứ sử nào khác đang bị che đậy.
Chúng bị trách không biết ǵ về Điện Biên Phủ nhưng chúng đồng thời không bao giờ được phép t́m hiểu về Cải Cách Ruộng Đất hoặc chiến dịch đàn áp tiêu diệt phong trào Nhân Văn Giai Phẩm diễn ra gần như cùng thời kỳ. Có thể kể vô số ví dụ “sử thật” bị “sử tuyên truyền” chèn ép như vậy trong nền giáo dục của chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Chắc chắn có rất nhiều người kinh ngạc khi biết giới trẻ ngày nay, thậm chí thành phần trung niên (độ tuổi 40 – tức sinh sau 1975), hoàn toàn không biết ǵ về sự kiện di cư 1954 hoặc vụ thảm sát Mậu Thân 1968. Ở một góc độ, đó là sự “thành công mỹ măn” của chính sách nhồi sọ và tẩy năo, nhưng ở một góc độ khác, đó là sự thất bại thảm hại của nỗ lực song hành xây dựng một đất nước văn minh và “có giáo dục.”
Trong xă hội, chỗ đứng cho tri thức luôn hạn chế. Những không gian công cộng cho học thuật – thư viện, câu lạc bộ tranh biện, hội thảo thanh niên – chỉ tồn tại theo khuôn mẫu được quy định. Hậu quả là khoảng trống tri thức bị lấp đầy bằng tuyên truyền méo mó, chủ nghĩa yêu nước cực đoan, lối sống thực dụng ngắn hạn.
Nó tạo ra một lớp trẻ thiếu nền tảng để có thể đối thoại với lịch sử, văn hóa, và với chính thế hệ ḿnh. Nó dẫn đến vô số hành vi lố bịch và thiếu văn hóa trầm trọng, như, một lần nữa, có thể thấy rơ ở những người dân đi xem chương tŕnh A80. Họ chửi bới, đánh nhau, gào thét chen lấn, xả rác bừa băi… Đó là ǵ nếu không phải là bằng chứng rơ nhất của một nền giáo dục thất bại!?
Dù vậy, không nên đổ thừa hết lên đầu giới trẻ. Giáo dục Việt Nam tiếp tục mắc kẹt trong ṿng lẩn quẩn của thành tích thi cử, quản lư quan liêu, trong khi bỏ qua những điều cốt lơi: khuyến khích tự do tư duy, phát triển năng lực cá nhân, nuôi dưỡng nhân cách và khát vọng.
Giới trẻ Việt Nam “kém” không phải v́ họ không thông minh mà v́ hệ thống giáo dục đang sản xuất ra “sự ngu” lây lan ấy. Sự khiếm khuyết kiến thức của giới trẻ không phải là lỗi của chúng. Nó là chuyện của hệ thống và chế độ.
Trong khi đó, Việt Nam vẫn ảo tưởng về một nền “giáo dục đại học đang phát triển.” Cuối Tháng Tám, 2025, Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam ban hành Nghị Quyết số 71 về “đột phá phát triển giáo dục và đào tạo,” với “tầm nh́n 2045,” đưa “ít nhất tám cơ sở giáo dục đại học vào top 200 Á Châu, và có một trường nằm trong top 100 thế giới.” Và “muốn bảo đảm điều kiện thực hiện khát vọng ấy, phải tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo.”
Vấn đề không chỉ là tiền. Vấn đề là bản chất phẩm chất đào tạo, môi trường nghiên cứu, và khả năng hội nhập tri thức toàn cầu. Ở đây, khoảng cách giữa đại học Việt Nam và khu vực thật ra ngày càng lớn. Giáo dục đại học Việt Nam thậm chí tệ hơn so với Thái Lan th́ “cửa nào” để giáo dục đại học Việt Nam sánh với các nước khu vực như Singapore?
Cần nói thêm, tiếng Anh – ch́a khóa mở cánh cửa tri thức thế giới – vẫn là điểm yếu chết người của sinh viên Việt Nam. Phần lớn sinh viên Việt Nam không đủ khả năng đọc hiểu tài liệu gốc bằng tiếng Anh, chứ chưa nói tới viết báo cáo nghiên cứu hay tham dự hội thảo quốc tế. Trong khi đó, sinh viên Singapore hay Malaysia sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính trong học tập. Sinh viên Việt Nam bị bó hẹp trong “ao làng,” chậm cập nhật xu hướng mới, chậm tiếp cận phát minh mới. Khoa học-công nghệ vốn vận động từng ngày, nhưng ở Việt Nam, tri thức thế giới đến với giảng đường muộn vài năm, thậm chí cả thập niên.
Theo Scopus (cơ sở dữ liệu tóm tắt và trích dẫn khoa học), tổng số bài báo khoa học quốc tế của Việt Nam trong một năm chưa bằng một khoa nhỏ của Đại Học Quốc Gia Singapore (NUS). Trong khi NUS công bố hơn 12,000 bài báo/năm th́ toàn bộ hệ thống đại học Việt Nam cộng lại chỉ vài ngàn. Phẩm chất công bố cũng khác biệt: Việt Nam chủ yếu ở các tạp chí hạng trung b́nh, ít trích dẫn, c̣n NUS hay KAIST (Korea Advanced Institute of Science & Technology) công bố ở các tạp chí lừng danh như Nature hoặc Science…
Điều quan trọng nhất là tư duy phản biện. Giáo dục đại học Việt Nam chưa bao giờ khuyến khích sinh viên tranh luận, phản biện hoặc thậm chí đặt câu hỏi. Giơ tay hỏi thầy về “cuộc đời t́nh ái của bác Hồ” th́ có mà “chết không kịp ngáp.” Trong khi đó, sinh viên Singapore, Nam Hàn hay Thái Lan được khuyến khích chất vấn giảng viên, tranh luận trên lớp, bảo vệ quan điểm bằng lập luận logic; và quan trọng nhất, họ được… biểu t́nh chống chính phủ nếu chính phủ đưa ra chính sách sai.
Trong bài “Dấu ấn, khó khăn, thách thức của ngành giáo dục năm 2024,” tờ Tiền Phong (27 Tháng Mười Hai, 2024) thừa nhận: “Tính đến Tháng Tư, 2024, cả nước c̣n thiếu 113,491 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông… Tỷ lệ đáp ứng về thiết bị dạy học theo chuẩn quy định trên phạm vi cả nước mới chỉ đạt hơn 50% là rất thấp…”
Dù vậy, nói chung, giới lănh đạo Việt Nam vẫn “nổ” về “tầm nh́n” và “khát vọng” cho nền giáo dục nước nhà.
Năm mươi năm nay, họ vẫn “nổ bạo” như thế, chưa bao giờ thấy họ ngượng mồm và mắc cỡ khi “lỡ mồm” nói đại bác xe tăng có thể “bắn được luôn” từ Hà Nội vào… Sài G̣n!