|
 |
|
06-13-2020
|
#101
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Feb 2007
Posts: 19,307
Thanks: 47,192
Thanked 32,781 Times in 14,780 Posts
Mentioned: 617 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 6926 Post(s)
Rep Power: 59
|
Quote:
Originally Posted by cha12 ba
Tủ sách Tuổi Hoa - Hoa Tím
Chú thích của Tủ sách Tuổi Hoa:
1- Đây là tác phẩm cuối cùng của tác giả Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh viết cho Tủ sách Tuổi Hoa trước năm 75 và sắp sửa được xuất bản vào tháng 4 - 1975 .
2- Hình bìa do họa sĩ ViVi mới vẽ tặng tác giả Cam Li và Tủ sách Tuổi Hoa ngày 21 tháng 8 năm 2008.
|
Lâu lắm rồi mới có dịp đọc lại những truyện trong tủ sách Tuổi Hoa ngày xưa.
Thật tình thì tôi không thích chuyện tình cảm ủy mị, chỉ khoái xem truyện phiêu lưu và trinh thám.
Chẳng hạn như: Chiếc bẩy Kỳ Nhông. Không biết loại hoa màu gì nhỉ? Lâu quá quên mất rồi, Thời gian đi mau quá!
Last edited by cha12 ba; 06-15-2020 at 13:51.
|
|
|
The Following User Says Thank You to nangsom For This Useful Post:
|
|
|
06-13-2020
|
#102
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
BÀ NỘI
- Ối giời ơi, đã bảo bà đừng ra phòng khách nữa cơ mà, khổ tôi không cơ chứ!
Oanh vừa lau sofa vừa la ầm ĩ. Bà Năng lủi thủi vào phòng, lặng lẽ lấy chiếc áo cũ ra lau chỗ mình vừa ngồi.
- Thôi, bà không phải lau, để đấy đi, người đâu mà đi đến đâu bẩn đến đấy!
Oanh thoăn thoắt đi vào phòng bếp:
- Cái gì đây, đường đâu mà đổ tung toé ra chân tủ thế này. Ối giời ơi, kiến bám đen bám đỏ rồi! Chắc lại mọ mẫm ra đây chứ gì, đúng là người đâu mà!
Oanh lấy bình xịt kiến rồi lấy giẻ lau nền nhà, cô tất tả chuẩn bị cơm trưa.
Lan đứng trên cầu thang tầng hai chứng kiến hết toàn bộ những gì mà mẹ đối xử với bà nội, người mẹ mà Lan vô cùng thần tượng, một người phụ nữ hiện đại năng động có địa vị xã hội. Đặc biệt hơn trong cuộc sống hàng ngày mẹ lúc nào cũng là chuẩn mực trong cử xử và dạy bảo hai chị em Lan. Em không dám đi xuống nhà, vội vàng lên phòng đóng kín cửa, em ngạc nhiên và thất vọng vô cùng khi chứng kiến tất cả những sự việc vừa xảy ra. Em sợ phải đối diện với mẹ, sợ để cho mẹ biết em đang ở nhà và nhất là biết việc mẹ vừa làm.
Từ khi ông nội mất, bố mẹ Lan đón bà nội về ở cùng, đến nay cũng gần sáu tháng. Lan và bé Huyền vô cùng yêu quý nội, thi thoảng xuống ngủ cùng nội, nghe nội kể chuyện ngày xưa thời bố Lan còn bé, chuyện chú Hoàng và bố Lan tranh nhau nửa củ khoai nướng rượt nhau ngã gẫy cả răng còn bị ông nội đánh đòn. Bà nội còn là một kho tàng cổ tích tuyệt vời, mặc dù năm nay đã học đến lớp mười một rồi nhưng vẫn muốn rúc vào nách nội cùng với cái Huyền háo hức nghe những câu chuyện ngày xưa và câu chuyện cổ tích như những chai mật ong ngọt lịm.
Trước đây, khi ông nội còn sống, một năm Lan chỉ về thăm ông bà được vài ba lần cùng bố mẹ những dịp lễ tết hoặc nhà có giỗ có việc. Hai chị em bận học, hai đứa đều học trường chuyên nên thời gian nghỉ rất hiếm. Mỗi lần được về quê thăm ông bà nội Lan thích lắm, không muốn về thành phố nữa. Lần nào về hai chị em cũng theo nội xắn quần lội ao mò ốc, ra khu ruộng trước nhà nội bì bõm trải nghiệm cảm giác lội chân ngập bùn. Đêm đến kê chõng tre ra sân ngắm trăng uống nước, nghe ông nội kể chuyện ma, vừa thích thú vừa sợ hãi, cho đến khuya ông giục đi ngủ mới thôi, hai đứa lại tranh nhau nằm hai bên bà nội, tranh nhau sờ ti rồi cười rúc rích đến tận lúc mệt rồi ngủ lúc nào không biết.
Bà nội lên ở cùng, Lan vui lắm, cái Huyền cũng vậy, đi đâu hai đứa cũng mua quà về cho bà nội, có món gì ăn lạ và ngon cũng mua về cho bà nội thưởng thức, bà nội vui và yêu hai đứa lắm. Bố Lan là công an, thường xuyên phải đi công tác, đợt này bố đi gần mười ngày, ở nhà chỉ có mấy mẹ con bà cháu toàn phụ nữ. Thời gian này gần cuối năm thi liên tục, cả hai chị em Lan bận rộn với bài vở, cũng không dành thời gian nhiều cho bà. Hai đứa đi học gần như kín lịch. Bà nội hơn một tháng nay bị tai biến nhẹ, tai nghễng ngãng hơn, tay trở nên run rẩy nên hay đánh rơi đồ, bà nội còn bị lẫn lộn trong sinh hoạt cá nhân nữa. Có hôm nội còn đem muối cho hết vào bình nước lọc, Lan uống phát hiện ra mới biết bà nội bị lẫn như vậy.
Lan thương bà nội vô cùng, nghĩ đến gương mặt sợ sệt, dáng đi run rẩy khi bị mẹ quát to mà Lan ứa nước mắt. Đến bữa cơm trưa, hôm nay cái Huyền không về vì lớp đi dã ngoại, còn mình Lan, mẹ và bà nội. Lan ở lỳ trên phòng không xuống, Lan không biết mình sẽ đối mặt với mẹ như thế nào, bà nội cũng không ăn cơm vì bảo mệt. Chút nữa mẹ đi làm Lan sẽ rẽ qua hàng bánh cuốn đầu ngõ mua cho bà nội, món mà bà thích vì rất mềm và dễ ăn.
Tối đến, khi Lan xuống tầng tìm cục sạc dự phòng, đi qua phòng mẹ, Lan bất chợt nghe cuộc điện thoại mẹ nói chuyện với bố: Mẹ bình thường, hơi quên chút thôi, anh yên tâm, sáng nay em vừa cắt thuốc bổ cho mẹ, mẹ đang uống rồi...
Gì cơ, đúng là không thể tin được, mẹ có thể nói những lời ấy với bố sao, còn những lời mẹ quát bà nội trưa nay thì sao, thuốc nào mà bà nội đang uống, mẹ cắt khi nào...hàng ngàn câu hỏi dồn dập trong đầu Lan, mẹ là người như vây ư! Em thất vọng đi về phòng mà quên mất đi tìm cục sạc để ngày mai em đi chụp kỉ yếu với lớp.
Sáng Lan còn chưa dậy mẹ đã lên gõ cửa:
- Lan, dậy chưa con! Lan uể oải:
- Con dậy rồi, có việc gì ạ!
- Sáng nay đi học con cầm mấy ấm thuốc mẹ cắt cho bà ngoại gửi qua chỗ cậu nhé!
- Sáng nay con đi chụp ảnh kỷ yếu, con không đi qua đường nhà cậu!
Thì ra mẹ cắt thuốc cho bà ngoại chứ không phải bà nội. Bỗng nhiên Lan thấy xót xa và thương bà nội rất nhiều.
Bà ngoại Lan là người gốc Hải Phòng, lấy ông ngoại từ năm mười bảy tuổi, ông là người buôn chuyến, ngoại theo ông bôn ba khắp nơi rồi lập nghiệp tại Hà Nội, ông bà rất giỏi mới gây dựng được cơ ngơi khang trang với một chuỗi siêu thị tại sáu tỉnh thành. Năm nay bà ngoại gần bảy mươi tuổi nhưng còn rất nhanh nhẹn và điều hành siêu thị cùng với cậu. Lan không quý bà ngoại như bà nội, bà ngoại cũng ít có thời gian dành cho các cháu, đặc biệt chưa bao giờ bà ngoại kể chuyện cổ tích hay những câu chuyện ngày xưa như bà nội. Nhà ở gần nhưng Lan và Huyền cũng ít sang vì bà ngoại cũng không có nhiều thời gian.
Mặc dù bà ngoại không thiếu thứ gì nhưng mẹ Lan lúc nào cũng mua cho bà ngoại đủ thứ, mẹ đi chơi, đi công tác hay đi chợ thôi có thứ gì hay hoặc thức ăn nào ngon bổ đều mua gửi cho bà ngoại. Từ trước tới nay như vậy nên Lan cũng không mấy quan tâm để ý, nhưng hôm nay thì khác. Nghĩ lại tất cả những gì mà Lan biết em thấy mẹ thật là thiên vị, câu chuyện hôm qua mẹ quát bà nội và một phần nội dung mẹ nói chuyện với bố , Lan thất vọng vô cùng, em cố tìm ra lý do để biện minh cho mẹ, để những việc em chứng kiến chỉ là hiểu nhầm...
Lan xuống phòng, bà nội ngồi trầm ngâm trong góc giường.
- Bà nội ăn sáng chưa, sáng nay mẹ nấu gì vậy!
- Bà nội chưa ra khỏi phòng con ạ, sao hôm nay con đi học muộn vậy?
- Sáng nay con đi chụp ảnh kỷ yếu ạ! Bà nội ra ăn sáng đi!
Lan ra phòng ăn xem sáng nay mẹ nấu gì, không thấy gì, em mở tủ cũng không thấy. Không nhẽ mẹ không nấu đồ ăn sáng cho bà nội sao, Lan thường đi học sớm nên không ăn sáng ở nhà. Bỗng dưng em thấy nóng bừng cả mặt. Em quay vào:
- Bà nội ơi, ra phố ăn sáng cùng con đi!
Em vừa nói vừa cầm tay kéo bà nội đi, bà cười:
- Cha bố mày, bà không đói đâu, đi đi cho kịp giờ!
- Không sao đâu bà !
Lan kéo xe ra chở bà nội đi, cũng lâu rồi hôm nay em mới có thời gian đưa bà ra ngoài, bà ôm cứng lấy em cứ sợ ngã và đụng vào người đi bên cạnh. Lan cười như nắc nẻ, thấy bà thật đáng yêu quá. Lan đùa rủ bà :
- Hay hôm nay bà đi chụp ảnh kỷ yếu với tụi con nhé!
- Cha tổ bố con, bà chụp sao được, chụp về đêm giật mình chết đấy!
- Hihi, thật như vậy sao bà!
- Ừa!
Lan tủm tỉm:
- Kệ bà , con đưa bà đi luôn!
- Ối, thôi thôi, cho bà về không có...
Bà nội bỏ lửng câu nói, Lan gặng hỏi:
- Có sao bà, bà sợ mẹ con nói ạ!
- À, không, bà ra ngoài sợ mẹ con lo lắng!
Lan lặng người, bà thật tốt, mẹ như vậy mà bà vẫn bảo vệ mẹ.
Chợt trong đầu Lan loé lên một ý định, bất ngờ Lan quật tay lái.
- Ơ, con đi đâu đấy, về đường kia chứ!
Lan phì cười:
- Bà cũng nhớ đường quá cơ!
Bà cười:
- Ừ thì bà thấy bên kia đường giống lúc đi hơn.
- Bà ôm chặt lấy con nhé!
- Ơ, nhưng con đi đâu!
- Chút nữa bà sẽ nhận ra, chắc bà sẽ vui ạ!
Lan ra bến xe, gửi xe rồi hai bà cháu bắt xe đi. Bà kinh ngạc:
- Con đưa bà đi đâu!
- Bà yên tâm, con không bắt cóc bà đâu mà lo, ba tiếng nữa bà sẽ biết!
Bà hơi hoang mang gương mặt phảng phất lo lắng:
- Cho bà về thôi, bà mệt!
Hai bà cháu lên xe, Lan chọn cho bà ngồi ngay ghế đầu, em vừa xoa bóp vai cho bà vừa động viên:
- Bà cứ ngồi nghỉ ngơi, con mát xa cho bà chút là đến thôi.
Xe chuyển bánh, bà dường như đã lờ mờ nhận ra sự quen thuộc qua những câu chuyện khách trên xe trao đổi, nhất là hướng tiến đến của xe, con đường về quê. Bà lặng thinh, một chút xúc động khi ngôi làng quen thuộc dần hiện ra, bóng nắng đã đứng, xe đỗ ngay tại bến đầu làng, nơi con đê xuống dốc đi vào khoảng 200m là đến nhà. Con đường bê tông hắt nắng tương đối nóng nhưng nội vui hay sao ấy mà bước đi xăm xăm. Hai bà cháu không hành lý nên cũng rảnh tay mà bước. Mấy người nhìn thấy bà đi qua cổng kêu lên:
- Bà thằng Su về thăm quê à, nắng quá, vào mời nước đã, lâu lắm rồi đấy!
- Chào các bà, tôi về đã, chiều vào chơi nhé!
Lan thấy mắt bà sáng lên, gương mặt rạng ngời. Thêm hứng khởi nên bà bước nhanh hơn, chẳng mấy chốc căn nhà nhỏ đầy màu xanh mát mẻ thân thuộc hiện ra. Chiếc khoá lâu ngày hoen gỉ, ôi không có chìa khoá. Lan trèo cổng vào, em lấy gạch đập bung chiếc khoá cho bà vào. Khoá nhà Lan cũng phải đập, cũng may, lâu ngày bị gỉ nên đập cũng dễ dàng. Nghe tiếng động, mấy nhà hàng xóm chạy sang, em và bà phải nói dối là mất chìa khoá. Mọi người xúm vào quét dọn nhà cửa giúp hai bà cháu. Chú Hùng nấu cơm mời hai bà cháu ăn. Bà vui lắm, như cá gặp nước, quên luôn cả cái ngột ngạt ở Hà Nội.
Đến chiều tối, thấy mẹ gọi cho Lan cuống quýt hỏi bà đi đâu, Lan bảo em không biết, em xin phép mẹ cho em về muộn, nếu muộn quá em sẽ ở lại nhà bạn sáng mai sẽ về. Mẹ bảo Lan về ngay để đi tìm bà nội, Lan bảo: Mẹ gọi cho bố đi!
Lan chợt nghĩ đến cảnh mẹ sẽ rối lên, gọi cho tất cả mọi người, thậm chí cho công an để tìm nội. Kệ, bỗng dưng Lan thấy mình thật chai lỳ. Lan muốn mẹ nếm trải cảm giác lo lắng, bà nội vẫn bình yên vui vẻ không sao là được.
Ngày mai Lan cũng chưa về, bố gọi cho Lan, giọng vô cùng nghiêm trọng, bố phải bỏ dở chuyến công tác để tìm bà, Lan chợt chột dạ, to chuyện rồi. Lan nói cho bố biết nội vẫn an toàn và vui vẻ ở quê. Bố cúp máy khi đang nói dở với Lan. Em gọi lại bố không nghe, Lan lo lắng hoang mang. Em không dám nói cho bà biết, suốt từ lúc bố gọi điện cho đến chiều Lan bồn chồn lo lắng, hết ra lại vào, hết đứng lại ngồi. Thấy thái độ của Lan như vậy, bà nội hỏi:
- Con lo việc ở lớp à, thôi về đi, bà ở lại chơi ít hôm rồi về đón bà . Con đã điện cho mẹ rồi chứ!
- Vâng, bà yên tâm!
Lan bấm bụng động viên bà, thực ra ruột Lan đang như có lửa đốt. Gần đến chiều tối thì xe bố về đến trước cổng, cả bố mẹ và cái Huyền, Lan chạy ra mở cổng, vừa xuống xe bố đã tát cho Lan một cái nổ đom đóm mắt. Lan choáng váng.
- Sao con làm thế, con có biết con làm như vậy hậu quả thế nào không!
Lan bất ngờ, em khóc: Bố hỏi mẹ con ấy!
Bà vội chạy ra:
- Sao thế, chưa về đến nhà đã đánh con, mọi việc là do mẹ đấy, mẹ thấy nhớ nhà nên bảo Lan nó đưa mẹ về.
- Không phải do bà, là do con, con tự ý đưa bà về, bà đừng có cái gì cũng bảo vệ mọi người như vậy rồi khổ!
Lan nói rồi nhìn sang mẹ.
- Con nói vậy nghĩa là sao!
- Con nói rồi, bố hỏi mẹ con ấy!
Nói rồi em chạy vào nhà, bố quay sang mẹ, mẹ cúi xuống tránh cái nhìn của bố , bà cũng không nói thêm gì, cả ba cùng lặng lẽ vào nhà.
Mẹ lặng lẽ làm bữa tối, cả nhà không ai nói với nhau một câu nào. Ăn xong, Lan vào buồng ngủ sớm, mấy bác hàng xóm sang chơi tận khuya mới về. Quá nửa đêm Lan tỉnh dậy, em mở điện thoại có một tin nhắn của mẹ: Mẹ sai rồi, mẹ xin lỗi con!
Lan ứa nước mắt, quay lại ôm bà thật chặt, em hít hà mùi hương lá bưởi từ những lọn tóc trắng như cước của bà. Em yêu bà , em mơ màng chìm vào giấc ngủ cùng với những câu chuyện cổ tích ngọt lịm như những chai mật ong mà bà nội vẫn thường hay kể.
Tác giả: Đan Thanh
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-13-2020
|
#103
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Tủ sách tuổi hoa - Còn dấu chân người (tiếp 3-4)
06/13/20
Chương 03 Ý thức bắt đầu nhờ tiếng chim hót. Sáng hôm qua cũng vậy, nghe chim hót mới biết những bóng vàng là nắng, tấm thảm xanh là lá cây. Trúc thức dậy sáng nay, trong một cảm giác lạ kỳ chưa hề thấy bao giờ. Thân thể như đau dần hơn, ê ẩm hơn. Nhưng sự nhức nhối ở vết thương không còn. Lẫn lộn trong đó, một chút mát mẻ khoan khoái len vào. Chiếc gối độn rơm, tấm mền cũ, chiếc mùng màu xanh đã bạc màu – là những tiện nghi của xứ tí hon dành cho Trúc. Cánh cửa sổ khép lại. Nhưng qua khe hở, Trúc thấy được màu trời, biết là đã sáng.
Trúc chống tay xuống giường, gượng ngồi dậy. Trúc nhìn xuống chân. Ai đã cởi đôi giày? Thảo nào suốt một đêm mình đã ngủ được một giấc thoải mái. Trúc mỉm cười thú vị. Ở đây mọi cảm nghĩ đều mới mẻ. Buổi sáng bắt đầu như bắt đầu cho ta một cuộc sống mới. Thời gian dừng chân ở quận nhỏ trước kia, sáng thức dậy phải vội vàng lo tập họp. Bây giờ ở đây chỉ nghe thoáng nhẹ tiếng ríu rít của chim chóc gọi nhau đi tìm thức ăn. Đời sống êm đềm thanh thản quá!
- “Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc, rèn luyện thể chất chúng con, trau dồi tâm hồn chúng con, giúp chúng con biết yêu mến thiên nhiên và chịu đựng thử thách, để mai sau chúng con trở nên người hữu dụng. A-men”
Trúc lắng nghe. Tiếng trẻ nhỏ vọng lên đều đặn, hình như phát ra từ căn phòng bên cạnh, có lẽ là phòng học. Sau tiếng “A-men”, sự lặng yên trở lại. Trúc đợi nghe tiếng Cát Tường. Nhưng một lát lâu sau vẫn không nghe thấy gì.
Một đứa bé gái nhỏ bước vào. Trúc nhìn kỹ đứa bé, nghĩ ra rằng Trúc chưa gặp nó lần nào. Đứa bé bước thật nhẹ đến bên giường rồi leo lên, hai tay cuốn vắt chiếc mùng lên cao, khá cao đối với thân hình của nó khiến nó phải nhón gót. Trong khi Trúc còn trố mắt ngạc nhiên thì đứa bé leo xuống đất. Trúc nói:
- Này em, cám ơn em lắm.
Đứa bé gái đứng yên nhìn Trúc, gật đầu nhẹ, đôi mắt ngây thơ long lanh. Trúc hỏi:
- Chị Cát Tường đâu em?
Đứa bé chỉ tay ra cửa sổ, không đáp. Trúc bật cười, hỏi:
- Chị ấy vào nhà nguyện hở?
Đứa bé lắc đầu. Trúc càng ngạc nhiên hơn:
- Sao em không nói chuyện với anh?
Một cái lắc đầu tiếp theo nữa. Rồi đứa bé gái bước nhanh đi. Tới ngưỡng cửa, cái bóng nhỏ nhắn dừng lại, vì Cát Tường đã đến.
- A! Nhu Mì, em ở bên này à? Chị tìm em bên phòng học mà không thấy.
Đứa bé gái mang tên Nhu Mì chỉ tay về phía Trúc, rồi nhìn Cát Tường. Cát Tường cười:
- Em cuốn mùng cho ông Quy-Li-Ve đó hở? Giỏi lắm! Về phòng học đi nghen!
Bé Nhu Mì lắc đầu, giơ bàn tay trái ra, rồi dùng ngón trỏ của tay phải vẽ tròn tròn trên lòng bàn tay trái. Cát Tường hiểu, gật đầu:
- À, muốn vẽ hở? Thì… ờ , thì em cứ vẽ.
Nhu Mì nhoẻn miệng cười, rồi quay lại nhìn Trúc. Đôi mắt long lanh như muốn nói điều gì. Đứa bé ra khỏi ngưỡng cửa rồi, Cát Tường đến bên giường Trúc:
- Anh thức dậy lâu chưa?
- Hơi lâu rồi cô Cát Tường ạ. Tôi có nghe các em đọc kinh cầu bên ấy nữa.
- Không phải kinh đâu anh. Đó chỉ là lời tâm niệm đọc buổi sáng.
***
- Bé Nhu Mì có một vẻ khác thường làm tôi thắc mắc quá. Hình như bé không muốn nói chuyện với tôi?
- Với ai cũng thế, anh Trúc ạ. Bé Nhu Mì rất muốn nói chuyện…nhưng…
Trúc biết ngay rằng mình đã đoán không sai. Cát Tường nói nhỏ như muốn để tiếng nói của mình chìm xuống:
- Nhưng bé không nói được.
Cá Tường ngồi xuống một chiếc ghế, nói:
- Bé Nhu Mì cũng quý mến anh, giống như tất cả chúng em ở đây đều quý mến anh. Bé đã tỏ tình cảm của bé bằng công việc vừa rồi đó!
- Nhưng tôi nhận thấy là tôi chưa làm được điều gì cho các bé cả. Sự có mặt của tôi làm các bé bận rộn. Riêng Cát Tường, chắc cô mất rất nhiều thì giờ vì tôi lắm?
- Dạ không... không! Anh nói làm em… không biết phải nói sao. Chúng em quý mến anh như quý mến ông Gulliver..
Trúc cười:
- Cô thích truyện Gulliver?
- Dạ, không những em, mà cả làng đều thích.
Trúc kêu lên thú vị:
- Đến thế à?
- Dạ. Vì em thường đọc cho các bé nghe truyện ông Gulliver lạc vào nước của người tí hon . Mà chúng em ở đây, cũng giống như dân tí hon vậy.
Trúc reo lên:
- Đúng vậy, một xứ thật dễ thương!
Cát Tường bẽn lẽn:
- Đó là chuyện đặt ra để các bé khỏi buồn. Mà cũng vì… em chỉ thích mỗi truyện ông Gulliver mà thôi. Chuyện đó em xem hồi nhỏ.
Cát Tường thở dài:
- Vậy mà các bé tin lắm, thích lắm. Các bé tin rằng sẽ có một ngày ông Gulliver lạc vào xứ của các bé, các bé sẽ trói ông ấy lại, chở về làng.
- Rồi các bé sẽ leo lên mặt, lên mũi ông ấy, bứt tóc ông ấy? Ồ, nhưng các bé đã đối xử với tôi thật tốt. Tôi không bị trói, mà lại được chở về trên một chiếc xe ngộ nghĩnh. Các bé không phá phách mặt mày tôi, mà tôi lại được băng bó, săn sóc như thế này.
Cát Tường cúi đầu im lặng. Trúc gọi:
- Cô Cát Tường!
- Dạ!..
- Tôi phải nói sao để cám ơn các bé và cám ơn riêng cô đây?
Câu nói của người nghe khách sáo quá! Cát Tường chớp mắt, đáp:
- Chúng em chỉ làm theo… theo lời cha Đạo dạy.
- Cha Đạo là một vị vua cao quý.
- Nhờ cha, chúng em mới được như thế này.
- Tôi có cảm tưởng là để tìm hiểu trọn vẹn nơi đây, chắc phải sống ở làng cả năm.
Cát Tường sáng đôi mắt lên:
- Anh cứ ở đây… cả năm nhé!
Trúc cười:
- Đâu được. Tôi phải ra trình diện đơn vị chứ! Chắc lúc này họ đang tìm kiếm chúng tôi. Xem như là tôi đã mất tích.
Trúc xoa nhẹ chân, nơi có những lằn vải băng trắng toát:
- Chắc không thể ở lâu nơi đây.
- Nhưng anh đợi vết thương lành chứ?
Trúc gật đầu, lẩm bẩm:
- Điều quan trọng là phải làm sao liên lạc với đơn vị.
- Chuyện đó anh không lo. Sáng sớm em có gặp cha. Cha bảo rằng vài ngày nữa ông Năm chở gạo về, Cha sẽ nhờ ông Năm lên tỉnh báo với người ta.
- Ông Năm là ai?
- Một người thân tín của cha. Mỗi tháng ông Năm lái xe lên tỉnh mua các thứ cần thiết cho chúng em về trữ ở đây. Hầu như chỉ có ông Năm là người hay liên lạc với bên ngoài.
Trúc nhìn Cát Tường. Lúc này cô bé đang dọn dẹp căn phòng. Vẻ mặt Cát Tường, khi im lặng, trông giống người trong một bức tranh nào đó mà Trúc đã có lần được xem. Mái tóc vẫn được cột gọn sau gáy. Trúc tưởng tượng khi cô bé xõa tóc ra, chắc trên vai sẽ có một dòng suối đen nhánh. Trúc chưa biết tuổi của Cát Tường, cũng như chưa biết gì về cuộc đời của cô. Trúc tự nghĩ những điều thắc mắc ấy nếu hỏi ngay bây giờ chắc sẽ đường đột lắm. Thôi cứ để tự nhiên. Ít ra mình cũng sẽ được trú ngụ ở đây cho đến khi “ông Năm” nào đó trở về.
Bé Nhu Mì lại vào phòng, đem theo một đĩa khoai lang đã bóc vỏ và cắt ra thành từng lát. Cát Tường khen:
- Chà, bé giỏi quá, giành việc làm của chị ha! Sao lại để trên bàn? Bé mang lại mời anh Trúc ăn đi!
Bé Nhu Mì lắc đầu. Cát Tường cười:
- Sao vậy?
Đứa bé chỉ vào Trúc, rồi đưa hai tay ra sau lưng, như người bị trói. Chỉ có Cát Tường hiểu ý.
- À, quên nhỉ! Bé mang lại mời ông “Quy-Li-Ve” ăn đi!
Đôi môi nhỏ xíu hé ra, cười. Trúc nhận một lát khoai, cho vào miệng, và hỏi:
- Bé ăn không?
Nhu Mì lắc đầu, đưa đĩa khoai đến gần hơn cho Trúc. Cát Tường nói thay:
- Các em đã ăn từ sáng sớm. Các em trai xuống rẫy, còn các em gái làm việc nhà, nấu nướng, may vá hoặc tưới rau ngoài kia.
- Còn bé Nhu Mì làm gì?
Nhu Mì lại dùng ngón trỏ của bàn tay phải vẽ tròn tròn, rồi viết lên lòng bàn tay trái. Trúc hỏi:
- Bé viết? Bé vẽ nữa?
Một cái gật đầu, và một nụ cười thích thú kèm theo. Trúc khoe:
- Cô Cát Tường! Tôi đã có thể “tâm sự” với bé Nhu Mì rồi đó!
- Có cần em thông ngôn không?
- Khỏi, khỏi!
- Vậy bé Nhu Mì ở đây nói chuyện với anh, à không, với ông Quy-Li-Ve cho vui nha. Chị ra tưới rau nhé!
Bóng Cát Tường khuất sau khung cửa gỗ. Trúc quay lại nhìn bé Nhu Mì. Đôi mắt cô bé lúc nào cũng như ươn ướt, trông tội tội. Trúc hỏi:
- Sao? Bé Nhu Mì có thích nói chuyện với anh không? Bé thấy anh có giống Quy-Li-Ve không?
Nhu Mì gật đầu. Bé nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, đưa bàn tay thấp xuống đầu gối ra dấu như có những người lùn đang vây quanh bé. Trúc đoán:
- A, Quy-Li-Ve ngủ, rồi thức dậy, thấy có người tí hon ở xung quanh phải không?
Nhu Mì sáng đôi mắt lên, chỉ vào người Trúc, chỉ vết thương của Trúc, rồi chỉ hai bên chân của Trúc, chỉ xuống dưới chân giường. Trúc nhìn theo, thấy đôi giày của mình được đặt ngay ngắn ở đó. Trúc mỉm cười:
- Bé đã cởi giày cho anh phải không?
Bé Nhu Mì gật đầu, nhoẻn miệng cười. Trúc nghe một nỗi gì mang mang trong lòng. Nhìn đôi mắt ươn ướt non dại của bé, Trúc như thấy cả một tâm hồn chân thật, cả một ấu thời buồn tủi. Bé ở đâu đến? Bé là con của ai? Bé nghĩ gì khi thiếu thốn giác quan? Bé có nghe lời tâm niệm mỗi sáng các bạn của bé đọc không? “Lạy Chúa!... xin giúp chúng con chịu đựng thử thách…”, và bé đã chịu đựng cái thử thách suốt đời bé đó!
- Anh no rồi! Bé để dĩa lên bàn đi, rồi ngồi đây, anh nói chuyện tiếp.
Bé Nhu Mì làm theo lời Trúc. Trúc nói:
- Bé thật là ngoan, và… nhu mì giống như tên của bé vậy. Bé mấy tuổi?
Nhu Mì xòe hai bàn tay ra nhìn, rồi giơ bảy ngón lên.
- A, bé bảy tuổi rồi! Bé học được nhiều chưa?
Nhu Mì lắc đầu, rồi chạy nhanh ra cửa. Trúc ngơ ngác nhìn theo. Một phút sau bé Nhu Mì trở lại, tay cầm một tập giấy nhỏ. Bé giở ra từng trang, cho Trúc thấy những nét chữ vụng dại viết trên giấy. Bắt đầu bằng những chữ đơn giản, lần lần về sau bé viết chữ khó hơn. Xen vào đó, có những hình tròn, vuông hay chữ nhật. Bé Nhu Mì vẽ được cả hình mặt trời, hình cái cây, hình bông hoa. Và ở trang gần cuối là hình một đôi giày. Trúc ngạc nhiên hỏi:
- Bé vẽ… đôi giày của anh?
Nhu Mì gật đầu.
- Sao giống hai ống điếu quá vậy?
Đứa bé úp tập giấy lên che mặt, cười mắc cỡ. Rồi trước sự ngạc nhiên của Trúc, bé rút cây bút ngắn từ trong túi áo bà ba, hí hoáy viết phía dưới hình đôi giày:
“Bé sẽ lấy vải may cho anh một đôi dép để anh mang đi dạo”.
Trúc vỗ tay, khoái chí:
- Giỏi quá! Bé Nhu Mì giỏi quá! Cám ơn bé lắm! Nhưng… nhưng… anh mà mang dép bằng vải, đi dạo dưới rẫy, trong rừng, thì… chân anh sẽ làm rách đôi dép xinh xắn của bé liền. Vì chân anh… to và mạnh như chân của ông khổng lồ.
Bé Nhu Mì xấu hổ che mặt bỏ chạy. Trúc gọi theo:
- Bé! Bé!
Bóng dáng nhỏ nhắn biến mất. Trúc nằm dài ra giường, cười một mình, và nhắm mắt lại, tưởng như hai mắt đang được vây kín bởi một màu trời xanh.
Chương 04
- Có ông Quy-Li-Ve ở đây, tụi em phải đào nhiều khoai hơn.
- Đừng lo, của Trời cho, và của do sức mình làm ra, không bao giờ hết.
- Nhưng tụi em đâu có than phiền gì, mà còn vui nữa là. Có anh ấy ở làng mình, tụi em thích ghê!
- Ông Quy-Li-Ve của chúng mình đâu có ăn nhiều ha!
- Anh ấy biết kể chuyện nữa đó.
- Chuyện gì?
- Nhiều lắm. Chuyện anh ấy đến một quận nhỏ, được dân chúng nấu cơm giùm, đi chợ giùm, và … hứa gả con gái cho anh ấy nữa.
Cát Tường bật cười:
- Rồi anh ấy chịu không?
Khánh đun thêm một cây củi vào lò, nói:
- Anh ấy sắp chịu, thì máy bay đến, chở đơn vị của anh ấy đi nơi khác. Híc híc!...
- Rồi sao nữa?
- Rồi máy bay bay ngang rừng, bị địch ở dưới bắn lên. Máy bay rớt, bạn bè của anh ấy chết hết.
- Chuyện đó thì chị biết rồi. À nè Khánh, mấy hôm nay các em vào rừng có thấy gì lạ nữa không?
- Dạ không. Em muốn đi lần theo dấu chân anh Trúc để tìm đến xem chỗ chiếc máy bay bị rớt, nhưng Cha có dặn là không được đi.
- Phải đó! Em đừng đi nghen. Chỗ đó chắc cũng ở sâu bên trong. Em vào đó lỡ có chuyện gì…
Khánh không nói, nhìn vào bếp lửa. Cát Tường lẩm bẩm:
- Gần hết gạo rồi. Chuyến này ông Năm đi lâu quá!
- Chắc ông Năm lên tỉnh gặp người quen.
- Không chắc… Hy vọng kỳ này ông Năm có mua quà cho chúng mình.
- Quà gì chị?
- Chị có dặn ông Năm tìm mua nhiều sách truyện để chị kể cho các bé nghe. Với lại vải hoa để chị may áo cho các bé.
Cát Tường cúi xuống. Tội nghiệp, ông Năm lâu về quá, Nhu Mì vẫn còn mặc áo cũ, các bé vẫn còn mặc áo cũ. Mới đây Cát Tường khám phá ra rằng các bé lớn dần và biết ao ước. Có lẽ các bé chẳng bao giờ nghĩ rằng người ta có khi may áo bằng vải màu sặc sỡ, bằng vải có hoa, nếu không có một hôm nghe Cát Tường kể chuyện về một nàng công chúa xinh đẹp và chiếc áo của nàng. Tội nghiệp! Tuổi nhỏ làm các bé chưa nhớ. Thời gian làm các bé dễ quên. Ở đây màu áo của các bé đồng hóa với màu cây, màu lá, màu đất, màu chiều xám xuống dần dưới chân đồi. Chờ ông Năm về, các bé sẽ có áo hoa.
Cát Tường đứng lên, nói:
- Khánh coi nồi cơm nghen! Chị đi sắp đặt lại nhà cơm. Chiều nay anh Trúc qua đó ăn cơm với tụi mình. Anh ấy đi được tốt rồi. Anh có thể vịn theo bàn ghế, vách tường, không run rẩy như ngày đầu. Chị nói anh ấy cứ ở trong phòng, chị bưng cơm vào, anh ấy không chịu, muốn ăn chung với các bé.
- Thích quá! Coi nào, bữa nay cơm ghế khoai, ăn với tương, rau muống luộc, với lại… hết rồi!
Cát Tường ngẩn ngơ:
- Ủa, hết rồi à? Không được. Vào chuồng gà, coi có cái trứng nào còn sót không.
Khánh cười:
- Sót làm sao được! Thôi kệ, đợi vài ngày nữa ông Năm về, tha hồ ăn cá hộp, thịt hộp.
- Ừ, thôi kệ.
- Ông Quy-Li-Ve của tụi mình đâu có đòi hỏi thức ăn ngon.
Cát Tường chắc lưỡi:
- Chắc khi về nhà, anh ấy còn bằng que tăm.
- Thiên hạ sẽ chê bai xứ tí hon mình quá tệ.
- Tại mình nghèo chứ!
- Nhưng anh Trúc của tụi mình dễ thương gấp mười lần ông Quy-Li-Ve.
Nói quanh quẩn chán, Khánh và Cát Tường nhìn nhau, phì cười. Thường ở đây, mỗi khi gặp nhau lúc ôm củi hay nhóm bếp, nấu ăn, hai chị em nói với nhau những câu chuyện vẩn vơ. Từ ngày có Trúc, những câu chuyện lại xoay quanh người ấy. Một cách không rõ rệt, cả hai cảm thấy sự có mặt của một người khách lạ nơi đây như nắng ấm làm tan chút sương mờ, thế thôi.
Cát Tường vào nhà cơm. Đây chỉ là một gian nhà nhỏ, cạnh nhà bếp. Vách cũng làm bằng ván mỏng, có nhiều khe hở. Mái tôn cũ kỹ đã lủng dột nhiều nơi. Không biết qua Tết này, đến mùa mưa, các bé có được yên thân mỗi khi ăn cơm không? Bốn cái bàn dài với hơn hai mươi cái ghế nhỏ choáng vừa hết gian nhà. Cát Tường thở dài. Không còn cái trứng gà nào sót lại. Chiều nay vẫn ăn cơm với rau muống chấm tương. Không có gì ngon hơn để thết đãi người khách đã khá thân. Nhưng có lẽ người không đòi hỏi gì đâu. Người dễ thương gấp mấy mươi lần Gulliver. Đúng vậy. Điều quan trọng là làm sao tìm cho anh ấy một cái ghế. Anh ấy không thể ngồi trên cái ghế nhỏ xíu bằng tre như các bé được. Phải đi qua nhà nguyện, xin cha Đạo một cái ghế.
Cát Tường vào gian nhà dùng làm phòng ngủ của mình và các bé gái. Buổi chiều, các bé qua hết bên nhà nguyện. Chỉ còn bé Nhu Mì ngồi yên trên giường. Hai mắt mở hé, chứng tỏ bé đang thức. Nhưng quyển vở trên tay thì gấp lại. Cát Tường ngồi xuống cạnh bên bé, rồi giở chiếc gối, lấy ra một bộ quần áo màu lam. Đây là quần áo của ông Quy-Li-Ve, Cát Tường mỉm cười với đôi mắt lười biếng của Nhu Mì. Còn một khuy nút chót phải làm, sau đó…, ừ sau đó sẽ mang qua cho Trúc.
Cát Tường kêu lên ngạc nhiên:
- Ủa! Ai đã khâu cái khuy nút này?
Rồi nhìn qua bé Nhu Mì, thấy đôi mắt bé mở to, bày ra sự thích thú. Nhu Mì chỉ vào mình. Cát Tường nói:
- Bé khâu hả? Giỏi quá! Hồi nào vậy?... A, mới đây thôi?... Anh Quy-Li-Ve sẽ thích lắm.
Nhu Mì đưa bàn tay chỉ vào nơi trái tim của bé, rồi nhắm mắt lại, mỉm cười. Cát Tường hỏi:
- Bé thương anh Trúc lắm phải không?
Nhu Mì đưa hết mười ngón tay ra, tỏ ý thương nhiều, nhiều lắm. Cát Tường vuốt mái tóc mướt mịn của đứa nhỏ, nói khe khẽ:
- Ai cũng mến anh ấy hết. Nếu mà… anh ấy ở lại làng mình luôn, bé thích không?
Nhu Mì gật đầu, Cát Tường tiếp:
- Có bộ quần áo này, anh ấy khỏi phải mặc bộ đồ lính kềnh càng nặng nề. Anh ấy sẽ dần dần lành chân, anh ấy xuống đồi, xuống rẫy với mình, thích nhé!
Nhu Mì gật đầu, rồi mở quyển vở ra, lật đến trang giấy có dòng chữ “Bé sẽ lấy vải may cho anh đôi dép để đi dạo”, đưa cho Cát Tường xem.
- Bé viết được câu này đó à? Chúa ơi! Em tôi học giỏi vô cùng. A, nhưng mà… - Cát Tường vỗ trán, chưng hửng – Bé làm chị sực nhớ…anh Quy-Li-Ve chưa có dép. Chân anh ấy đau, mang giày nặng chịu gì nổi. Mà mang giày vải của bé, anh ấy chỉ ngồi trên giường thôi, không dám bước xuống đất đâu!
Hai chị em nhìn nhau. Ở làng cô nhi này, hiện không biết tìm đâu ra một đôi dép đàn ông, ngoại trừ… ngoại trừ đôi dép của cha Đạo. Cát Tường hoảng hốt ngưng ngay ý nghĩ đó lại, tự cho là vô lễ lắm. Thôi, người khách đã chẳng đòi hỏi gì, chắc mình cũng đừng nên áy náy. Cát Tường ôm bộ quần áo đứng lên, nói với Nhu Mì:
- Bé ở đây, chị đem bộ đồ qua cho anh ấy. Chút nữa anh ấy xuống ăn cơm với chị em mình đó.
**
Trúc đang xem một quyển sổ nhỏ, gấp lại khi thấy Cát Tường vào.
- À, cô Cát Tường.
- Anh đang làm gì đó?
- Tôi lục lại giấy tờ trong túi áo, xem hôm bị nạn có…
- Anh có bị mất mát giấy tờ gì không?
- Ô… không. May quá cô Cát Tường ạ, giấy tờ vẫn ở nguyên trong túi, kể cả… cái này vẫn còn nguyên trên cổ.
Trúc mỉm cười, cầm mảnh kẽm hình chữ nhật có khắc những chữ và số lên ngắm. Cát Tường hỏi:
- Cái gì vậy anh?
- Đây gọi là tấm thẻ bài mà mỗi người lính đều phải đeo trên cổ. Đây là tên tôi. Đây là số quân, đây là loại máu. Khi mình bị thương, người ta nhìn đây biết được mình cần loại máu nào để mà tiếp cứu. Còn khi mình chết, nếu thân xác có bị dập vùi, người ta vẫn biết được gốc tích của mình để đưa tin về nhà.
Cát Tường rùng mình, nhìn Trúc. Những điều vừa nghe được thật là những khám phá mới. Ta cũng biết chiến tranh. Ta cũng biết tang tóc là gì. Nhưng đây mới là lần đầu đối diện với một người lính. Chẳng cần biết cấp bậc. Chẳng cần biết người ở đơn vị nào. Cát Tường chỉ thấy rõ hơn hết, một điều rằng những người chiến đấu là những người chấp nhận những gì rất bi hùng. Cái hình hài mà ta nhìn thấy trước mặt, mà ta đã may áo quần cho đây, biết đâu sau này khi tiếp tục đoạn đời gian nan, sẽ có ngày gửi thẻ bài về cho thân quyến. Cát Tường nhắm mắt lại. Cảm xúc nào làm tái tê ý nghĩ?... Hay cũng lại là sợi khói bay ngang trời? Hay cũng lại là ngọn gió lạc loài len vào vách gỗ?
- Cô Cát Tường! Cô nghĩ gì đó?
Cát Tường giật mình:
- Dạ? Không ạ. Em…
- Những điều tôi nói làm cô nghĩ ngợi hở? Tôi thật vô ý. Bỏ chuyện ấy đi nghen Cát Tường! Bây giờ tôi chỉ còn nhớ một điều là tôi đang sống ở xứ tí hon toàn những người tử tế, dễ mến.
- Chúng em chỉ sợ những thiếu thốn ở đây làm anh khó chịu.
Trúc cười:
- Khó chịu? Ồ không bao giờ. Cô không hiểu được rằng tôi đang sung sướng đâu! Thuở nhỏ tôi cũng thích xem truyện thần tiên vậy. Tôi không tin trên đời có chuyện thần tiên. Nhưng nơi đây là một nơi mà tôi không hề ngờ.
Cát Tường hỏi nhỏ:
- Anh có nhớ gia đình không?
- Có chứ! Nhưng tôi biết là tôi sẽ được về.
- Vâng. Khi nào ông Năm về lại, anh sẽ được ông ấy chở ra tỉnh.
- Tôi biết thế. Tôi cũng nóng lòng lắm. Nhưng nơi đây có một cái gì làm tôi quyến luyến. Tôi chưa biết nhiều về các bé, về làng cô nhi này, về… Cát Tường.
- Khi ăn cơm chung với các bé, anh sẽ biết nhiều hơn. Còn về làng cô nhi này, cũng rất đơn giản. Chúng em, xưa ở trên tỉnh, rồi vì loạn lạc, chúng em tản cư cùng với dân chúng tị nạn. Cha Đạo quyết định dẫn chúng em về định cư ở đây, vừa sống thoải mái gần thiên nhiên , vừa có thể tự lo phần nào miếng ăn.
- Cha không định lên tỉnh lại hay sao?
- Dạ, Cha có nghĩ tới. Nhưng bốn năm rồi, sống ở đây, Cha và chúng em thấy không nơi nào hơn ở đây nữa. Vả lại, ở tỉnh chật vật quá, ít có ai giúp đỡ thường xuyên được. Cha muốn chúng em tự lập, ít ra là về miếng ăn. Có ông Năm làm người chạy đi chạy về, còn cha với chúng em không đi đâu cả. Ở đây yên ổn, không biết gì đến thời cuộc. Chúng em dạy dỗ lẫn nhau, chăm sóc cho nhau.
- Cát Tường làm cô giáo?
- Em chỉ có thể dạy các em đọc, viết và làm toán. Vài năm nữa, chắc Cha phải gửi Khánh lên tỉnh.
- Đúng rồi, Khánh là con trai lớn.
Cát Tường nhìn ra cửa. Chiều đến chầm chậm trên những luống rau. Mặt trời còn để rơi rải những tia nắng úa. Cảm nghĩ hồ như cũng theo đó mà úa vàng. Điều gì buồn buồn theo nắng len vào mắt. Cát Tường đan mười ngón tay vào nhau, yên lặng. Trúc quan sát nét mặt cô bé, và hỏi:
- Còn Cát Tường?
- Dạ? Anh nói sao?
- Cát Tường có muốn về lại tỉnh không?
Cát Tường mở to mắt:
- Dạ? Về tỉnh? Em… chưa nghĩ gì hết.
- Sao vậy?
- Vì… vì em sống với các bé đã sáu năm rồi. Các bé ở đâu, em ở đó. Từ ngày chen chúc trong cô nhi viện chật hẹp đến lúc tung tăng ở đây, chúng em chưa rời nhau bao giờ.
Một điều thật đương nhiên – Cát Tường nghĩ nhanh như vậy rồi nhíu mày, không biết mình buồn hay vui. Tại vì Trúc hỏi, nên điều đương nhiên trở nên có vẻ dị kỳ. Cát Tường nói tiếp:
- Em vào sống ở cô nhi viện của cha Đạo năm mười bốn tuổi. Em là một trường hợp đặc biệt vì thuở đó cô nhi viện của cha Đạo không nhận những đứa trẻ lớn hơn mười tuổi. Em là bà con xa của ông Năm. Gia đình em bị tan nát trong chiến tranh, em không còn ai là người thân. Chỉ có ông Năm quen với Cha nên xin Cha cho em vào sống trong cô nhi viện. Lúc đó Khánh còn nhỏ lắm, mới chín tuổi, còn bé Nhu Mì chỉ mới thôi nôi. Cha nhận em vì em học khá, có thể giúp Cha dạy dỗ chăm sóc các bé. Từ ngày ấy em trở thành con cả của Cha.
Cát Tường nói như trả bài. Hết. Từ ngày ấy, Cát Tường trở thành con cả của cha. Đến bây giờ, và mãi mãi về sau.
Trúc lặng yên, tay đặt trên lớp vải băng. Không gian êm đềm làm Trúc thấy thèm một điếu thuốc lá. Ở đây, mấy ngày giam mình trong căn phòng, chỉ lê ra ngoài thật nhọc mệt mỗi khi thật cần thiết, Trúc cảm thấy mình giống như một đứa bé. Bây giờ nhớ những điếu thuốc tỏa khói trên môi của bạn bè, nhớ những lúc di chuyển bằng GMC, qua những con đường hai bên là ruộng, hoặc qua những cánh rừng cây xanh ngút ngàn. Khói thuốc không đủ làm ấm khoảng không gian lưu chuyển. Nhưng có với nhau điếu thuốc, bạn bè thấy gần nhau hơn, cảm thông nhau hơn về nỗi nhớ gia đình, bạn bè, người yêu. Ở đây, những sự việc bỗng dưng mới mẻ. Mới mẻ giống như ánh nắng lập lòe trong một khu rừng xa lạ. Mới mẻ giống như tiếng ríu rít của trẻ nhỏ bên tai khi mình còn đang nhắm mắt. Trúc nhìn Cát Tường. Cả đến mái tóc của Cát Tường cũng không giống một mái tóc nào mà Trúc đã thấy. Và đôi mắt cũng không giống đôi mắt của người trong một bức tranh nào đó. Tất cả đều mới mẻ. Tất cả đều như bắt đầu cho một khúc đời lạ.
Cát Tường đặt bộ quần áo lên giường, e dè nói:
- Xin anh Trúc nhận cho.
- Chi đó Cát Tường?
- Dạ… của em may và bé Nhu Mì kết nút.
Trúc reo lên:
- Tôi đoán là…
Trúc thích thú cầm bộ quần áo lên, giọng hân hoan:
- Cô lại cho tôi một điều mới mẻ nữa.
- Vì chúng em muốn anh được khỏe khoắn hơn với bộ đồ này.
- Cám ơn, cám ơn cô Cát Tường lắm! Cám ơn bé Nhu Mì nữa.
Trúc thấy mình nhỏ lại, nhỏ lại, như một đứa bé. Đôi mắt Cát Tường long lanh như muốn tỏa hết nỗi vui sướng. Cát Tường nói:
- Chỉ còn một đôi dép…. Chúng em còn thiếu cho anh một đôi dép.
Trúc kêu lên:
- Ấy! Thôi, Cát Tường! Tôi không dám để cô bận rộn vì tôi nữa đâu. Chẳng lẽ cô lại nhường luôn cho tôi đôi dép xinh xắn của cô nữa hay sao?
- Anh phải mang giày, nặng nề lắm!
- Tôi đã quen rồi. Đi chân đất cũng không sao mà.
Nâng niu bộ quần áo trên tay, Trúc nói, giọng cảm động:
- Cát Tường lo lắng cho tôi hơn là một cô em gái lo lắng cho anh. Tôi phải làm gì cho xứng đáng với sự chăm sóc ấy?
Cát Tường nói rất nhỏ:
- Em không mong gì hơn là được anh Trúc xem em như cô em gái. Đã từ lâu rồi, em chỉ làm chị cả.
Rồi không đợi nghe Trúc nói, Cát Tường quay bước, sau khi dặn:
- Chúng em chờ anh ở nhà cơm. Xin phép anh, em xuống sắp chỗ cho các bé.
Cát Tường đi ra sân. Đàng xa, các bé trai bé gái đã đứng thành hàng đôi trước nhà cơm. Cát Tường đưa tay ra hiệu cho bầy trẻ đi vào. Sự trật tự đã quá quen thuộc. Cát Tường đứng nhìn đến khi đứa bé cuối cùng vào cửa, rồi quay trở lại để vào nhà nguyện. Còn phải xin cho Quy-Li-Ve một cái ghế. Khi bước đến khoảng đất trồng rau, Cát Tường nghe tiếng trẻ cất lên từ phía nhà cơm:
- “Là nai đàn nên nhường nhau miếng khoai
Là chim bầy nên chia nhau chén cơm
Giờ cơm đến rồi
Giờ cơm đến rồi….”
Cát Tường mỉm cười. Các em hát để nhắc nhau niềm vui và sự chia xẻ. Hát để yêu mến những bữa ăn thanh đạm Và hát để chờ người khách sắp xuống cùng chia nhau miếng cơm ngon...
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
06-14-2020
|
#104
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Ngày hè bên tô cháo lòng.
Những giấc trưa hè oi ả, con rất mong cứ đến khoảng 2 giờ trưa là chiếc xe cháo lòng của bà Bảy lại cọt kẹt đẩy từ xóm đi lên trên đường.
Ngày xưa con láo lắm, trưa ăn thật ít cơm, mẹ bảo sao không ăn, con vẫn khăng khăng "no quá mẹ ạ", nhưng có ai biết con âm mưu đến giờ trưa con đòi ăn cháo lòng bà Bảy nấu.
Nhà Bảy ở dưới xóm, cách đường khoảng 500 mét, Bà Bảy đẩy xe từ xóm lên và để xe cháo lòng tại sân nhà bà Chín kế nhà con, rồi sau 1 tiếng bà lại đẩy xe lên tận ấp 2 để bán tiếp. Con thương bà lắm, những hôm trời nắng, bà với chiếc nón lá mảnh khảnh, đôi mắt nheo nhíp vì nắng chói chang, mồ hôi bà tuôn ra nhưng trên gương mặt bà thì luôn tươi rói, con còn nhớ nụ cười của Bảy lúc tụi con xúm xít lại chơi trước sân nhà bà Chín. Thương bà nhất là những hôm trời mưa, chưa bán hết cháo lại vẫn tiếp tục mặc áo mưa đi bán, lúc về trời vẫn còn mưa và mưa còn có gió, con từ cửa sổ nhà mình nhìn ra, tự dưng con rưng rưng nước mắt...
Thân bà một mình vào đây sinh sống và buôn bán nghề nấu cháo lòng, quê bà cùng quê với mẹ con, cùng là miền Trung nhưng bà ở Quảng Ngãi, mẹ con ở Quảng Nam, con biết bà ăn không bao nhiêu nhưng bà phải cố làm để nuôi con nuôi cháu. Con luôn tự hào thay những người cháu của bà vì họ có một người bà thật anh hùng, con xin phép gọi là vậy, bao nắng mưa bà không quản, ở một ngôi nhà dựng tạm bà vẫn không sau nhưng khi nghe con cháu có việc thì bà lại rất sốt sắng. Đôi mắt bà còn sáng lắm nhưng nhìn thẳng vào sâu thì nó chứa đầy tâm trạng và rất nhiều nếp nhăn, không phải là nếp nhăn thuận theo tuổi già mà đâu đó con còn thấy nếp nhăn của sự tủi cực khi một mình thân già bà phải trải qua trong đất Nam này.
Ông bà con đã mất từ thời chinh chiến nên con rất muốn có một người bà, con rất mến bà không chỉ vì tô cháo mà bà nấu rất ngon - sau này ăn bất cứ nơi nơi đến tận bây giờ con chưa tìm thấy nơi nào, ở đâu bán cháo mà ngon như Bảy con nấu, mà là bà cũng rất mến con. Con nhớ, mùa hè là mùa mà cây hòn quân ra trái, biết con thích ăn nên bà đã hái nhà hàng xóm và khi đi bán trên đường nhà bà Chín thì trong túi Bảy là một mớ hòn quân tím rần, đỏ hỏn, ngon lành, thanh khát, chỉ là trái hòn quân thôi nhưng bọn trẻ chúng con cũng coi nhứ đó là một báu vật đó Bảy.
Năm tháng cứ tiếp tục như vậy, nhưng trong khỏang thời gian ngắn Bảy cứ bệnh lên bệnh xuống, con rất lo lắng, nhưng rồi gì đến cũng đến, Bảy trở bệnh, và con cứ ao ước Bảy lại khỏe và nấu lại món cháo lòng trưa hè tuổi thơ con.
Và mong ước con đã trở thành hiện thực, đợt đó con rất mừng là Bảy đã khỏe lại. Nhưng không lâu sau bệnh Bảy tái diễn lại, và điều con vô cùng sốc là những người con, những người cháu mà con từng nghe nói là Bảy dành hết tất cả tiền buôn bán với xe cháo nhỏ của mình nuôi họ, nhưng đến khi bệnh thì họ lại không có mặt chăm sóc Bảy, không chăm sóc đã đành họ cũng không gửi tiền cho bà có vài viên thuốc đề uống, bà tạm mượn mẹ con 150 ngàn để đi bệnh viện. Và đợt đó cũng là đợt bệnh Bảy cũng khá nặng, vì sợ có chuyện không may xảy ra tại nơi đất khách quê người, nên người nhà của bà, con nhớ không lầm là một người con của Bảy ở tận Quảng Ngãi phải vào Nam chăm bà và lo cho bà về quê cho tiện chăm sóc. Và thế là con tạm chia tay với tô cháo lòng thơm ngon nứt mũi ngày bé.
Một thời gian sau, con Bảy vào Nam có chút chuyện, và cũng tìm đến xóm nhỏ nơi mà Bảy ở, người con của Bảy đã hỏi thăm nhà mẹ con và đến nhà theo lời Bảy dặn là gửi trả mẹ con 150 ngàn và mẹ con thật sự thấy Bảy rất trách nhiệm, dù bệnh và khó khăn nhưng vẫn không quên ơn nghĩa mà những người giúp đỡ Bảy. Nhưng do vội quá, mẹ con chưa xin được số điện thoại liên lạc của người nhà Bảy, thế là mẹ con xuống xóm hỏi thăm tin tức của Bảy, và con mừng rơn khi mẹ con tìm ra được số điện thoại của Bảy. Con và mẹ cũng rất hay gọi cho Bảy, nhất là những dịp như hè hay Tết. Bảy vẫn nói chuyện vui vẻ, vẫn nhớ hết tất cả những người trong xóm mình, và mỗi lần gọi về cho Bảy con đều nhắn với Bảy câu này "Con nhớ và thèm tô cháo lòng của Bảy nấu quá, Bảy mau hết bệnh rồi vào đây bán tiếp nha Bảy", Bảy chỉ biết cười và nói "Ừm, hết bệnh Bảy sẽ vào một chuyến thăm mọi người trước khi Bảy yếu quá không đi tàu xe nổi".
Con trông chờ lời hứa của Bảy từ ngày này sang tháng nọ. Một phần con nhớ Bảy như nhớ một người bà của con và vì môt phần hương vị tô cháo lòng làm con nôn nao không biết khi nào con mới được ăn trở lại đây. Cũng như mọi lần, tết năm rồi 2017, mẹ con gọi về nhưng không phải bà bắt máy mà là tiếng của một người đàn ông, hỏi ra mới biết người đàn ông đó là con ruột của Bảy, và còn tin này con chẳng muốn nghe, nhưng cuối cùng buộc con phải nghe là ngày mồng 2 Tết Bảy đã theo ông bà về nơi chín suối rồi.
Con rất buồn và nhớ Bảy, nhớ thân hình gầy guộc, da đen nhẻm, mùi mồ hôi và mùi thuốc là Bảy phì phèo trong cơn mưa giá rét, nhớ ánh mắt Bảy nhìn con hay mấy đứa trẻ trong xóm mà Bảy nhớ cháu mình, giờ đây không còn nghe tiếng Bảy trò chuyện với mẹ con con, không còn ai để con đòi tô cháo lòng mà đã nuôi lớn thân hình cũng như tâm hồn con, món cháo lòng cho con no nê ngày hè, cho con có cảm giác con có một người bà và hơn hết Bảy cho con thấy tấm chân tình, hết mình và một mực yêu thương của Bảy dành cho những con người trong xóm, Bảy xem họ nhưng gia đình của Bảy.
Hè đến, nhìn sang gốc sân nhà bà Chín là con nhớ đến Bảy. Mặc dù Bảy không còn nhưng hương vị Bảy mang đến cho con cho mọi người ở nơi đây thì mãi mãi không gì phai hòa hay thay thế được. Một lần nữa con vẫn quyết định bình chọn cho món cháo lòng Bảy nấu là số một, ngon nhất từ thời thơ bé đến tận bây giờ. Và giờ con có thể tự hào khoe rằng, tuồi thơ con hạnh phúc biết bao khi con được lớn lên cùng với những con người mà con gọi đó là "anh hùng"!.
Ngọc Châu.

|
|
|
The Following 5 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-15-2020
|
#105
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Nhà toàn con gái.
Tuy là gái nhưng ông Tín lại đặt tên con là Ngọ. Ông nói: Đặt tên con ngựa cho nó chạy nhảy đây đó, chứ như ông ở cái “xó xỉnh” khỉ ho cò gáy này, nhạt quá.
Căn nhà lâu nay bình yên. Từ khi Ngọ sinh ra ngày nào cũng om sòm tiếng vợ chồng cãi nhau. Tiếng ông Tín: “Bà không biết đẻ thì tôi đi nhờ người đẻ hộ”. Bà Thanh cũng không vừa: “Ai rước được ông cho tôi nhờ, ngày nào cũng say, cũng xỉn ai mà chịu thấu”. Ngày qua tháng lại “tiếng bấc tiếng chì” giữa hai người cũng thành quen.
Hương là con cả, có khuôn mặt thanh tú, đôi môi lúc nào cũng mộng đỏ như dưa hấu, mắt lá răm ươn ướt, nước da trắng nõn nà. Mỗi lần đi học vén quần lội qua suối, bọn con trai mắt cứ trợn ngược lên, nuốt không khí ừng ực. Lại thêm có giọng hát hay, trong trẻo. Giọng dân ca của Hương bay cao, bay xa mỗi khi lên biểu diễn trước trường, ai cũng tấm tắc khen. Nhưng tính đanh đá của Hương cũng không vừa. Hương thường cãi lại bố khi nghe những lời bố nói không thuận. Dám đánh nhau với cả con trai trong lớp, hạnh kiểm của Hương không khi nào đạt được loại tốt. Bà Thanh hay than phiền về Hương. “Mặc! Bà có sống cho mình đâu!” Nhiều khi Hương thốt lên những câu đại loại như thế…
Hoa là con thứ, tính tình hiền lành, ít nói. Cái nốt ruồi bên mép mỗi khi cười tạo nên cái nét duyên ngầm cho mấy chàng học lớp trên trêu chọc. Bị trêu chọc là phận gái, Hoa bỏ qua. Chăm chỉ học tập, miệt mài kinh sử, hay lam hay làm là bản tính của cô.
Quý thứ ba. Ông Tín bảo đặt tên Quý cho chúng nó khỏi buồn, chứ cái ngữ toàn “vịt giời” thì quý hóa gì. Càng lớn, Quý biết bố nói cho bỏ tức chứ bố cũng thương mấy chị em lắm. Quý là người vui tính, lúc nào cũng cười. Ai có mắng nhiếc cũng, chê bai cũng cười. Nụ cười của Quý lúc nào cũng rạng rỡ.
Bốn chị em lớn lên trong sự yêu thương của mẹ, sự hằn học vì không có con trai của bố; cứ lớn lên như cây măng mọc chen chúc, ấm áp trong bụi tre bên bờ suối.
Quê Ngọ, đồi núi nhiều hơn ruộng, sắn ngô nhiều hơn lúa. Cứ chiều chiều mấy chị em hái củi về đi ngang qua suối, rửa mặt ngắm nhìn thân hình bên dòng nước trong vắt mà tự hào với làn da trắng trẻo mịn màng của tuổi dậy thì. Hương lúng liếng ánh mắt trên dòng suối rồi cất lên một làn điệu dân ca. Lời hát hòa vào tiếng róc rách của dòng suối, dội vào vách đá nghe như tiếng loa phóng thanh trên sân khấu. Hoa bảo: “Chị cả sau này đi thi giọng hát hay thế nào chả được giải!”. Quý đùa: “Chị cả mà đi thi giọng hát hay thì thế nào chả được giai!” rồi cười như nắc nẻ. Mất cả hứng Hương thôi không hát, lấy tay khoát nước làm Quý ướt hết. Mấy chị gánh củi về. Ngọ lẽo đẽo theo sau mang một bao sim chín. Thế nào mai mẹ đi chợ bán có tiền rồi mua cho mỗi đứa một tập vở, sắp khai giảng năm học mới rồi.
Như thường lệ, cứ mỗi sáng, sau khi gà ra chuồng là ông Tín dậy. Hôm nay, ông dậy sớm hơn mọi ngày. Chân vừa chạm đất, ông lớn tiếng:
– Mấy “con vịt giời” đâu rồi! Dậy đun cho bố ấm nước chè xanh nhá! Sáng nay các cụ, các bác, các chú…trong xóm sang nhà ta uống nước chè đấy nhé!
Không hiểu từ bao giờ, như một thông lệ, cứ thay phiên nhau, mỗi nhà sáng nấu ấm chè xanh, nồi khoai lang rồi mời cả xóm. Họ uống nước, ăn khoai, hút thuốc lào phả khói đầy nhà. Chuyện trên trời dưới đất chán chê rồi giải tán về làm đồng. Sáng nay đến phiên ông Tín. Từ sớm, mấy chị em đã dậy quét nhà, lau ấm chén, sắp xếp lại đòn ngồi cho ngay ngắn, rồi bê rổ khoai đang nghi ngút bốc hơi lên nhà để bố tiếp khách.
Ông Ba, người đến sớm nhất cất tiếng:
– Chú Tín đâu rồi? Chà! Nhà cửa tinh tươm sạch sẽ quá. Đẻ toàn con gái lúc này mới thấy sướng làm sao! Mấy thằng quí tử nhà tôi không bằng cái móng tay của con gái chú!
– Này! Bác “chỉ trích” tôi đấy à? Ừ ! Nhà tôi toàn con gái thì đã sao. Bác đừng có chọc tức tôi đấy nhé! Nhà bác toàn con trai nên nói cạnh, nói khóe tôi chứ gì? Bác có nghe người ta nói: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” là sao không đấy hả? Thế là hai người to tiếng với nhau…Bà Thanh can ngăn thế nào hai ông cũng cứ lời qua tiếng lại. Khi các cụ, các bác… trong xóm lần lượt sang nhà thì hai ông mới hết cãi nhau. Ông Năm nghe chuyện cũng chen vào:
– Hai bác cãi nhau làm gì cho mất cái tình. Người ta nói “ngũ nữ bất bần” đấy thôi! Bác Tín cố đẻ lấy một đứa nữa cho đủ ngũ nữ nhé! Ông Tín ấm ức lắm, nhưng nhịn vì đang có khách. Vậy là cuộc vui chùng xuống. Ai cũng đăm đăm, khó chịu. Rồi mọi người lặng lẽ ra về.
Ngọ cũng lờ mờ hiểu câu: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” nên cũng buồn. Cứ nghĩ, sao các ông cứ trọng nam, khinh nữ đến thế. Như trong sử sách có viết đến Bà Trưng, Bà Triệu là nữ mà đánh Đông, dẹp Bắc làm cho quân giặc nhiều phen khiếp vía đấy thôi! Người buồn nhất vẫn là bà Thanh. Mọi tức giận của ông Tín rồi sẽ đổ lên đầu bà mà thôi.
Lớn lên, Ngọ ước ao, giá mình có một người anh để khi bọn con trai bắt nạt thì có anh che chở hay có một đứa em trai để được yêu thương, chiều chuộng. Nhiều lúc ngẫu hứng Ngọ muốn nói với mẹ, nhưng từng ấy chị em đã làm bà vất vả lắm rồi. Ông Tín thì sáng cầm cuốc lầm lũi ruộng vườn, tối về xỉn rượu nói oang oang, chẳng cho ai nghỉ ngơi gì cả. Bà Thanh, tinh sương nấu nướng xong đòn gánh lại oằn cong xuống chợ bán mớ rau, trái bí lấy tiền. Chiều lam lũ ruộng đồng, tối về nghe chồng ca bài ca muôn thưở.
Hương không thi vào cấp 3. Hương bảo, đi học xa nhà phải ở nội trú nên không thích. Ở quê Hương, đi học cấp 3 trường huyện xa nhà gần ba chục cây số, đường rừng quanh co, lội suối trèo đèo vất vả lắm. Lại phải ở nội trú. Hằng tuần đi bộ, tiếp tế gạo, muối, lỉnh kỉnh quần áo nên cũng cực. Tính Hương chỉ thích trau chuốt, ăn diện. Tuy nhà nghèo nhưng cũng tập son phấn, đàn hát. Bà Thanh chẳng than phiền gì vì Hương cũng đảm đang gánh vác việc nhà chứ không quá ham chơi. Ông Tín lúc nào cũng mắng: “Cái ngữ ấy làm gì mà ăn, chỉ có cạp đất!”. Mỗi lần bố mắng, Hương nhìn bố lườm một cái, cặp mắt sắc như dao cau. Rồi Hương xuống phố huyện bán cà phê và hát cho khách.
Hoa, Quý lần lượt đi học trường huyện. Hai chị em học giỏi lắm. Nhất là Quý, năm nào đi thi học sinh giỏi toán cũng đạt giải. Bà Thanh vui lắm, nhưng trong niềm vui đó chiếc đòn gánh của bà lại oằn hơn, lưng còng thêm. Thương mẹ, Ngọ ở nhà ngoài học hành cố băm bèo, thái chuối chăm con lợn, con gà có thêm đồng tiền để các chị yên tâm học tập.
Một hôm, bà Thanh lên phố thăm Hương xem làm ăn thế nào, có phải vất vả không. Đi học về, Ngọ thấy bà nằm trên giường mệt mỏi, nước mắt lưng tròng. Bà bảo: “Chị Hương mày đi đâu biệt tăm, biệt tích rồi”. Bà ôm Ngọ vào lòng khóc nức nở. Gặng hỏi mãi bà mới nói với Ngọ. Bà kể: “Khi mẹ lên đến nơi làm việc của chị Hương, chủ nhà không phải ông chủ tiệm cà phê nữa. Nghe đâu, con trai ông ta đã bán nhà, rồi bị bắt vì tội sử dụng ma túy. Ông chủ quán cà phê cũng đã bỏ xứ đi đâu không rõ. Chị Hương mày phải lòng thằng con trai ông chủ. Con trai ông chủ thì lêu lỏng ăn chơi, có bao nhiêu tiền bạc đều nướng vào hút hít, rượu chè. Quần áo đắt tiền, trang sức chị Hương có được là do hắn mua sắm cho. Thấy chị xinh gái, hiền lành ông chủ cũng đem lòng nhớ trộm. Vợ ông ta mất đã lâu nên cũng khao khát đàn bà, con gái. Thằng con ông ta biết vậy nên làm cuộc giao kèo với bố, nếu ông ta có chị Hương thì gia sản thuộc về con trai”. Oái ăm! Một hôm lợi dụng bữa nhậu, hắn ép chị mày uống rượu đến say mềm. Sáng ra, hốt hoảng thấy mình đang nằm trên giường với ông chủ. Thế là cuộc đổi chác giữa hai bố con chủ tiệm cà phê thành công. Rồi đứa con “quí tử” ấy bán nhà, trả nợ hút hít. Ông bố mất nhà, không còn cơ nghiệp. Xấu hổ ông bỏ nhà, bỏ phố đi đâu không hay. Chị Hương mày cũng uất ức bố con ông chủ lắm. Về nhà thì sợ bố đánh chết nên cũng đi đâu không biết. Chuyện đã rõ ràng, con đừng nói với bố và các chị nhé!”
Hoa thi đậu vào đại học, ông Tín lặng lẽ làm thịt gà, sắm bữa cơm chia tay. Nhấp xong li rượu, ông nói:
– Bây giờ gia đình ta, cả xóm ta vinh dự chỉ mình con đậu đại học. Con cố gắng học giỏi không phụ công cha mẹ, đừng lo gì cho nhà ta. Mọi người sẽ chăm chỉ làm ăn để cho con có đủ điều kiện học tập…! Bà Thanh nghe ông nói vậy thì cảm động quá , tự nhiên hai hàng lệ trào ra. Có lúc nào bà nghe ông nói một câu mát ruột như thế bao giờ! Ông Tín thấy bà sụt sùi liền lên giọng:
– Cái bà này thật mau nước mắt. Con nó đi học đại học chứ có đi làm tình làm tội gì mà…Nói chưa dứt câu, ông cũng quay mặt đi, đôi mắt chớp chớp…
Quê Hoa, con gái đậu đại học là chuyện hiếm. Ông bà Tín vui mừng đến rơi nước mắt là đúng quá đi rồi. Cả làng này, người giàu có, người vai vế trong dòng họ mà đã có con ai đậu đại học đâu! Nhìn Hoa là người ta nể lắm. Niềm vui đã làm ông Tín có những thay đổi cũng đúng thôi. Con trai vùng này có đứa nào bằng con gái của ông đâu! Ngày chia tay Hoa vào đại học, cả nhà lỉnh kỉnh ba lô, túi xách đầy cả xe đạp. Hoa chia tay bố mẹ mà lòng nghẹn ngào không nói được câu nào.
Giấu mãi, rồi ông Tín cũng biết chuyện của Hương. Hôm nay, ông bỏ việc đồng, tay cầm cây mác nhọn mài đi mài lại đến sáng quắc. Cầm cây mác trên tay, ông chém lia lịa vào không khí miệng lẩm bẩm: “Tao, tao phải giết mày để trả thù cho con gái!”. Cây mác lâu ngày không dùng nên lưỡi long cán bay ra. Ông né người tránh vội nhưng lưỡi mác rơi nhanh vào chân cứa một đường ngọt lịm. Ông ngồi xuống đè tay vào vết thương miệng kêu cứu. Ngọ dưới bếp nghe tiếng, chạy lên thấy máu bê bết, mặt tái ngắt. Rồi như có phản xạ, chạy nhanh đến tủ thuốc bông băng, Ngọ ga rô, băng bó cho bố rồi gọi người đưa ông đi bệnh viện. Đêm hôm ấy, Ngọ ở lại bệnh viện chăm sóc bố. Nhìn vết thương phủ băng trắng toát, Ngọ thấy thương bố lắm. Ngồi bên bố, Ngọ nói chuyện cho ông dịu đi nỗi đau:
– Bố à! Bố có thương chúng con không? Chúng con toàn con gái mà làm được ối việc đấy thôi! Mà sao lúc nào trong lòng bố cũng muốn chúng con là con trai nhĩ? Bố thấy con trai nhà bác Ba toàn uống rượu đánh nhau, lúc nào cũng quát mắng bố mẹ. Bao nhiêu tiền của cứ nướng vào cờ bạc đấy thôi! Sao bố cứ thích con trai mà không phải là con gái nhĩ…? Ông xoa đầu Ngọ âu yếm:
– Vậy là con gái của bố đã lớn rồi đấy! Biết nghĩ thế là tốt, nhưng con gái nghĩ ít thôi kẻo sau này lại khổ đấy con ạ!
Từ ngày ở bệnh viện về, ông không còn say rượu nữa, có phần trầm tư hơn. Nhiều đêm ông khó ngủ, chắc trong lòng ông có điều gì mông lung lắm. Một hôm, ông gọi bà Thanh:
– Bà vào đây, tôi có chuyện!
Lại chuyện gì đây? Bà lo lắng xét nét đi vào ngồi đối diện với chồng. E hèm một tiếng ông lên tiếng:
– Bà nó ạ! Lâu nay tôi làm khổ bà nhiều rồi. Tôi thấy có lỗi với bà, với các con. Tôi chưa làm gì được nhiều cho chúng nó. Bây giờ con Hoa đã vào đại học nhà ta lại neo người. Của cải cũng chẳng có gì để cho các con ăn học. Con Quí, con Ngọ lại đang học cấp 3, không biết bao nhiêu khoản phải chi. Mọi công việc đều trên vai trên cổ bà. Tôi tính thế này…! Dừng lại giây lát như có điều gì lưỡng lự, rồi ông cũng nói được cái điều ông muốn nói.
Bà Thanh nghe ông nói xong lòng thấy nhẹ nhõm vì chồng đã nhận ra những sai trái của mình. Lâu nay bà phải nín chịu với những cơn thịnh nộ, những trận đòn do ông say rượu phang gậy vào lưng bà, mắng nhiếc bà…Nhưng bà cũng nặng trĩu với những nỗi lo canh cánh trong lòng. Vài ngày nữa thôi, ông sẽ theo đoàn sơn tràng của hợp tác xã đi khai thác gỗ trên mạn ngược. Đi khai thác gỗ đâu có dễ gì. Bao nhiêu nguy hiểm rình rập, nào là rắn độc, thú dữ, nào sốt rét, rồi cây đổ đè người….Không biết bao nhiêu người đã mất mạng đó sao? Rồi ở nhà, mưa gió, lụt bão ai che cho mái nhà, ai chống cho cây chuối…! Nhưng không đi thì lấy tiền đâu nuôi con ăn học, chi tiêu? Lo lắng, nhiều đêm bà Thanh không ngủ được cứ thở ngắn than dài…Ông Tín biết bà Thanh đang nghĩ gì, nhưng ông đã quyết rồi. Tính ông thế, đã nói thì làm.
Quý vào đại học hai năm thì Ngọ cũng đậu vào Trường đại học kiến trúc. Ngày chia tay Quý đi đại học ông Tín không về được vì ông đang đóng dở bè gỗ chuẩn bị xuôi dòng. Ngày Ngọ đi học ông cũng không về vì ông đang cùng đội sơn tràng chuyển gỗ xuống sông.
Hoa học về ngành Hải dương học, ra trường với bằng tốt nghiệp loại ưu nên được phân về Viện Hải dương học. Từ khi có việc làm, có lương trang trải cuộc sống nên đã bớt đi gánh nặng cho mẹ. Cứ tháng một lần, ông Tín về lấy gạo, lấy thực phẩm lại đưa tiền về cho bà Thanh trang trải. Cuộc sống gia đình có phần được nâng lên, cái lưng của bà giờ có thời gian nghỉ ngơi, đòn gánh đỡ oằn hơn.
Ngọ đang học năm nhất. Ngoài việc học còn kiếm việc làm thêm như rửa bát cho nhà hàng, dạy kèm cho mấy đứa con nhà có điều kiện…cũng có tiền chi tiêu. Hè sắp hết Ngọ mới về nhà với mẹ ít hôm cho bà vui, cho đỡ nhớ nhà. Không hiểu sao năm nay trời trái tính. Mới đầu tháng tám mà mưa gió ầm ầm. Nước lũ dâng lên ngập cả khúc suối đầu xóm.. Cây đổ ngổn ngang, đất đá sạt lở. Đường tắc nghẽn. Bà Thanh cứ đi vào đi ra, lòng dạ không yên. Bà quàng chiếc áo mưa định đi đâu đó thì ông Ba hớt hải chạy sang:
– Thím có nghe tin gì về chú Tín chưa? Nghe đâu đoàn sơn tràng bị lũ cuốn trôi mấy người, không biết chú ấy có làm sao không? Vừa nghe chỉ vậy, bà Thanh ngã vật xuống nền nhà, bất tỉnh. Ngọ, ông Ba chạy vội đỡ bà lên giường kiếm dầu xoa cho bà. Bà tỉnh dần nằm yên, mắt nhìn trân lên mái nhà, không nói năng gì. Bà bị huyết áp cao.
Rồi trời cũng tạnh. Con suối đầu xóm đã bớt gầm gào. Tin về ông Tín và đoàn sơn tràng đã rõ. Ông Tín cùng hai người nữa bị lũ cuốn trôi, còn mấy người bị thương do cây gãy đè lên. Nghe đâu đội sơn tràng đã chèo thuyền đi cứu hộ cho dân bản nơi khai thác gỗ. Dân làng tổ chức đi tìm người. Các Ban ngành trong xã, dân quân địa phương phối hợp với bộ đội Biên phòng cũng được huy động. Ba ngày sau, xác mấy người đã tìm thấy. Bà Thanh cùng anh em họ hàng lo đám ma cho ông Tín. Hôm chuẩn bị đưa ông ra đồng, ông Ba cứ lẩm bẩm: “Sao chú ấy không sinh lấy một đứa con trai nhĩ? Bây giờ không biết tính sao đây!” Ngọ nghe ông Ba nói vậy liền hỏi:
– Để làm gì hở bác?
– Để có người chống gậy đi lùi! Nghe vậy Ngọ chêm vào:
– Để cháu làm cho! Tiến mới khó chứ lùi thì khó khăn gì!
– Giờ này mà mày còn đùa được à?
– Cháu nói thật đấy. Ngày còn sống bố cháu coi cháu là “thằng” mà!
Phá lệ, ông Ba đồng ý cho Ngọ được đi lùi trước quan tài như con trai theo tập quán. Đám tang cũng được tiến hành theo nghi lễ, theo phong tục của địa phương. Hoa, Quý cũng về kịp. Mọi việc tang lễ được mẹ con bà Thanh và bà con cô bác lo lắng chu toàn. Ông Tín được mồ yên mã đẹp, an nghỉ suối vàng. Xong đám tang, lối xóm ai cũng khen con gái mà có hiếu, nhà có phúc mới đẻ được mấy đứa con như thế!
Người khổ nhất vẫn là bà Thanh. Bà khổ vì công việc thì lâu nay đã quen rồi, giờ phải chịu khổ về tinh thần. Mất chồng, bà mất đi chỗ dựa vững chải. Mấy năm lại đây, ông Tín đã quan tâm chăm sóc bà nên cái tình yêu thương, nhung nhớ bây giờ càng làm cho bà khổ thêm. Rồi đây, bà biết dựa dẫm vào ai?
Ngọ ra trường với tấm bằng tốt nghiệp đỏ chói và được nhận vào làm cho một Công ty xây dựng thành phố. Công việc không giản đơn như cô đã từng học. Mới ra trường, mức lương thử việc thấp nhưng cường độ công việc đòi hỏi cao. Suốt ngày vật lộn với tính toán, đem những lý thuyết giải tích, vật lý, tĩnh học và cơ học kết cấu ra đối chiếu, áp dụng. Sau đó lại phải tiếp tục nghiên cứu tính toán dầm, sàn, cột gỗ, thép và bê tông…. Rồi phải biết sáng tạo, cạnh tranh….Dù có cố gắng mấy cũng không thể có những lỗi nhỏ trong thiết kế mà không ngờ tới. Nhiều khi Ngọ phải lặn lội trở lại trường để nhờ sự giúp đỡ của thầy, của bạn. Ngọ vừa làm vừa học thêm để lấy bằng thạc sĩ. Sáng kiến nâng chỉnh nhà nghiêng và xử lý chống lún của cô được Bộ Xây dựng cấp bằng chứng nhận và đó cũng là luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ. Được sự giúp đỡ và động viên của thầy Quang, sự tín nhiệm của nhà trường Ngọ được nhận về giảng dạy tại Trường Đại học Kiến trúc. Ngày về trường cô vui mừng như về lại chính ngôi nhà của mình và thầy Quang cũng là người vui không kém.
Rồi Ngọ lấy chồng. Người chồng của cô không ai khác là thầy Quang. Ngày còn đi học, thầy luôn săn sóc, giúp đỡ Ngọ tận tình chu đáo. Mấy đứa bạn bảo: “Tao thấy như thầy Quang phải lòng mày đấy!”. Mặc kệ! Ngọ không biết, cô mong sao chăm chỉ học hành sau này có việc làm cho mẹ đỡ khổ là điều cô mong đợi.
Đám cưới nếp sống mới không làm cỗ, chỉ có hoa quả, bánh ngọt…, chỉ có thanh niên đến dự. Quê Ngọ tuy nghèo nhưng cưới là phải có cỗ thì họ hàng mới đến dự. Hôm tổ chức hôn lễ, tiếng loa, tiếng nhạc, tiếng hát của các bạn trẻ đã làm vui nhộn cả một góc xóm. Một phần do hiếu kì, một phần thấy vui tai rồi lần lượt bà con cô bác …cũng đến chật cả rạp. Ai cũng muốn đăng ký tham gia văn nghệ, nhất là các chị, các bà lâu nay chưa từng được cầm micro để hát bao giờ. Thật vui. Rồi ai cũng bảo. Cưới “nếp sống văn hóa mới” cũng hay đáo để, khỏi phải tốn kém, khỏi phải còng lưng trả nợ. Con nhà bà Thanh giỏi, giỏi thật. Đúng là có học có khác. Bà Thanh nghe làng xóm khen mà sướng cái bụng.
Ngọ lên xe hoa về nhà chồng. Hoa phải vào cơ quan, cô đang nghiên cứu công trình “Phục hồi, tái tạo rạn san hô” phục vụ khách du lịch sinh thái biển Khánh Hòa. Quý cũng phải vào trường để đưa sinh viên đi thực tập. Vậy là chỉ còn lại bà Thanh ở nhà một mình. Buồn, mắt bà ươn ướt.
Mấy năm sau.
Bà Thanh ốm nặng. Hoa định đưa bà vào Nha Trang để có điều kiện chăm sóc vì khí hậu trong đó tốt cho sức khỏe. Bà không nghe. Giọng bà yếu ớt:
– Mẹ già rồi, cũng chẳng sống được bao lâu, có chết mẹ cũng chết nơi chôn nhau cắt rốn này!
Rồi ông trời cũng đưa bà về với tổ tiên.
Ngày tang lễ bà Thanh, một chiếc ô tô sang trọng đỗ xịch trước cổng. Bước xuống xe, đi đầu là một phụ nữ khuôn mặt trong còn trẻ, nhưng nếp nhăn ở đuôi mắt cũng cho biết chị khoảng chừng bốn lăm, bốn bảy tuổi. Đi sau là một người đàn ông tóc bạc trắng, nhưng khuôn mặt thì đang còn sung sức lắm. Bốn cô con gái tay xách túi lỉnh kỉnh theo sau. Cả đoàn người đi vội vàng vào nhà trong sự ngạc nhiên của bà con cô bác, họ hàng và chòm xóm. Người phụ nữ chạy ào vào trong nhà, nơi đang quàn chiếc quan tài vội khóc lớn lên:
– Mẹ ơi! Con đã về với mẹ đây! Con bất hiếu, con bất hiếu..! Xong, cô ra trước bàn thờ bà Thanh vái hai vái và quay lại với bà con:
– Con xin lỗi mẹ, xin lỗi bà con! Con là Hương đây! Đứa con bất hiếu đã về để tang cho mẹ đây!
Mọi người vây quanh Hương. Hoa, Quý, Ngọ sau phút ngỡ ngàng ôm chị khóc nức nở.
Xong tang mẹ, mấy chị em quây quần tâm sự sau những ngày chị em xa cách. Hương kể. Sau cơn ê chề do đứa con ông chủ tiệm cà phê đặt bẫy, cô đi lang thang khắp nơi. Rồi trên một chuyến xe cô ngủ quên, vô tình đưa cô đến Đắk Lắk. Hương vào một nhà hàng để nghỉ ngơi và ăn uống. Mấy tên giang hồ thấy cô có chút nhan sắc, có đồ trang sức nên đã lừa bắt đi. Chúng lấy hết đồ đạc và thay nhau hãm hiếp cho đến khi cô ngất xỉu chúng mới chịu buông. Khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong căn lều. Một người đàn ông mua cháo về cho cô. Hương nhận ra ông chủ tiệm cà phê mà trước đây đã ăn nằm với cô. Cô vùng dậy bỏ chạy ra đường, chiếc xe máy đang đà đâm sầm vào người. Bị tai nạn đi viện. Khi ra viện Hương mất trí nhớ và cũng không biết mình là ai. Ông chủ cà phê kể lại mọi chuyện cho cô nghe, nhưng cô không tin. Rồi để xua đi những éo le cuộc đời, những lo toan cuộc sống, hai người nên vợ chồng. Xin được một mảnh đất, hai người dựng nhà, tần tảo trồng cà phê, trồng sắn…sinh con đẻ cái. Với tài tháo vát, lanh lợi và kinh nghiệm làm ăn, hai người dần dần trở thành chủ trang trại trồng, thu mua chế biến cà phê. Trang trại ngày càng mở mang, phát triển doanh thu cũng khá. Bây giờ về già, cơ ngơi giao dần cho con quản lý. Bốn đứa con gái cũng ngoan, chăm chỉ, xinh đẹp. Hoa nói:
– Chúng em cứ tưởng sẽ không còn gặp lại chị nữa, thật đúng là quả đất tròn cho chị em mình đoàn tụ. Nhưng sao chị lại biết mẹ mất mà về. Mà chị phục hồi trí nhớ như thế nào?
– Chị được anh rể mua các loại thuốc tăng cường trí nhớ, bổ não. Một thời gian, trí nhớ chị phục hồi và anh rể đã giúp chị hình dung lại tất cả sự việc xảy ra. Chị không còn oán trách anh mà ngược lại cảm ơn rất nhiều. Trong lúc như cây bị khô, anh là người đã tưới dòng nước mát đầy năng lượng giúp cho cuộc đời của chị thăng hoa! Rồi con gái chị đọc trên “Pây” của dì út báo tin buồn, mới biết mẹ đã mất nên tức tốc rủ nhau về tang mẹ. Quý hồ hởi:
– Vậy là tốt rồi! Ông trời cũng có mắt. Chắc nơi suối vàng bố mẹ cũng vui lắm khi biết chị em mình có ngày hôm nay.
Sau ba ngày an táng mẹ, mấy chị em cùng bà con thân thích và thầy cúng ra mộ, cúng mở cửa mả, đắp thêm mộ bà cho được cao ráo đẹp đẽ. Đợi mọi người về hết mấy chị em nán lại bên phần mộ thắp nhang lần cuối. Ngồi quì bên mộ bố mẹ, Hương khấn vái và tỏ lời tâm sự:
– Bố mẹ ơi! Con là Hương đứa con đã bỏ nhà ra đi, giờ về với bố mẹ đây! Nén hương này thắp viếng, bố mẹ tha lỗi cho con. Bố mẹ ơi! Nhà mình toàn con gái, nhưng có sao đâu! Chúng con đều sống tốt cả đấy thôi! Phải không ạ? Rồi đây, chúng con sẽ xây lăng cho bố mẹ để chúng con còn có chỗ về thắp hương, con cháu có nơi đi về với ông bà, về với cội nguồn…!
Ngọn gió thu chiều muộn lay nhẹ, tiếng xạc xào của những lá bàng khô rơi nhè nhẹ như báo hiệu hoàng hôn đang xuống. Trong tiếng xạc xào, Ngọ nghe như có tiếng bố đang thì thầm: “Các con toàn là con gái, nhưng có sao đâu ! Con gái cũng làm được khối việc đấy thôi, miễn sống tốt là được!”
Nguyễn Đại Duẫn.
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-15-2020
|
#106
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Tủ sách Tuổi hoa "Còn dấu chân người" Cam Ly - Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Chương 5-6
Chương 05 Như chim nhỏ được thoát khỏi chiếc lồng, bé Nhu Mì chạy tung tăng trên đường đất. Trúc bước theo phía sau. Qua khoảng đất vuông vắn trồng rau cải, đến một ngôi nhà nhỏ, sơn màu trắng. Ngôi nhà có vẻ trang trọng nhất trong làng. Trúc biết ngay đó là nhà nguyện. Không, phải gọi đó là một giáo đường nho nhỏ, vì trên đỉnh của mái nhà có một cây Thánh giá.
Không có tiếng chuông. Không nghe lời cầu nguyện. Cát Tường vừa mới dẫn đàn trẻ về nhà ngủ. Cái không khí trầm lặng khiến Trúc cảm nhận một tâm trạng lạ lùng chưa từng có. Khi chân bước khó khăn qua những khoảng đất mềm lún, lên đến bậc thềm đầu tiên của giáo đường nhỏ bé, Trúc tưởng như chỉ có nơi đây, sự bình an là trọn vẹn. Bao năm gian nan chưa có lúc ngừng nghỉ, có phải bây giờ mới thực sự bắt đầu? Bắt đầu làm một người mới, bắt đầu sống, bắt đầu cảm nhận, và bắt đầu tất cả mọi ý nghĩ.
Nhu Mì dừng lại ở cửa chờ Trúc. Bàn tay nhỏ xíu đưa ra nắm lấy bàn tay rắn rỏi. Nhu Mì nhìn Trúc, chợt thấy Trúc nhăn mặt và sờ vào chân. Đôi mắt Nhu Mì mở lớn như có ý hỏi: “anh vẫn còn đau phải không?”. Trúc nhìn lại và cười:
- Đau quá! Đất mềm kéo chân anh lại, suýt nữa rơi đôi giày.
Nhu Mì cười thích thú, nhìn lại luống đất ướt nhẹp. Những dấu giày của Trúc lún rõ xuống đó. Bé lắc đầu như muốn nói “không sao đâu!” rồi se sẽ dắt tay Trúc bước vào nhà. Khung cảnh mờ tối vì ngoài trời không còn nắng. Mấy cánh cửa sổ lại đóng kín. Chẳng có ai trong nhà nguyện. Trúc nhìn thấy hai dãy ghế sắp xếp đều đặn, thẳng tắp, dẫn đến tượng Đức Chúa Giê-su phơi mình trên Thập giá. Chỉ có thế. Đó là ngôi giáo đường bé nhỏ ở đây.
Nhu Mì đưa tay làm dấu, rồi nhìn Trúc. Trúc bối rối, nhưng rồi cũng bắt chước theo. Lạy Chúa, nơi đây Chúa yêu thương tất cả, kể cả con chưa biết một câu kinh, chưa hề biết làm dấu Thánh giá. Nhu Mì chỉ cho Trúc ngồi xuống một chiếc ghế. Rồi bé cũng ngồi xuống cạnh bên. Trúc không biết nói gì với bé. Hai anh em yên lặng. Trúc nghe cả tiếng thở nhẹ của Nhu Mì. Đôi mắt tội nghiệp mở to, nhìn thẳng phía trước. Chắc bé đang nói bằng những lời câm nín. Trúc cũng nhìn thẳng phía trước. Không nhìn thấy rõ nét mặt của Chúa. Nhưng cái hình hài dán cứng trên cây Thập giá là cả một sự chịu đựng và hy sinh. Trúc cảm thấy lòng bình yên. Trước mặt Chúa, không còn nhớ quá khứ, không còn lo tương lai. Trước mặt Chúa, không ai là người già, cũng không ai là trẻ nhỏ. Trúc thấy mình nhỏ lại bằng bé Nhu Mì không nhớ gì về thời ấu thơ của chính bé.
Cha Đạo xuất hiện từ sau lưng Thập tự giá – và Trúc đoán ngay là ở đó có một căn phòng nhỏ. Cha đem theo một chút ánh sáng của ngọn bạch lạp cắm trên chân đèn bằng gỗ. Ngoài trời đã hết nắng. Trong này cha Đạo đang đặt ngọn đèn lên chiếc bàn nhỏ để ở góc nhà. Cha nhìn xuống dãy ghế, thấy Trúc và Nhu Mì ở đó. Trúc muốn đứng dậy, nhưng cha đang chậm chạp đi xuống. Bây giờ Trúc mới nhận thấy rõ dáng đi của Cha như có vẻ hơi khập khiễng. Vì Cha đã già chăng? Có lẽ đúng. Ngay lúc đầu gặp Cha, Trúc đã thấy mái tóc của Cha bạc hết phân nửa. Không biết cuộc đời đạo hạnh của Cha bắt đầu từ khi nào. Nhưng chắc chắn Cha sẽ tiếp tục cuộc đời ấy cho đến chết. Vì Cha đã chọn làm người cha chung cho một đàn con nhỏ nơi đây rồi.
- Con vào đây, Cha có cái này muốn tặng con.
Trúc đứng lên, ngạc nhiên:
- Thưa Cha, đi đâu ạ?
- Vào phòng của Cha. Cha muốn tặng con tượng Thánh giá, để con đeo vào cổ. Chúa sẽ bảo vệ con.
Cha Đạo đi trước. Trúc quay lại, nói với bé Nhu Mì:
- Ngồi đây nhé! Anh sẽ trở ra ngay. Anh em mình về lại nhà.
Nhu Mì gật đầu. Trúc bước theo cha Đạo. Bước chân cha Đạo khập khiễng. Chân Trúc cũng nhói đau. Qua khỏi chiếc bàn có để ngọn đèn bạch lạp, hai người vòng ra sau lưng Thập tự giá. Cha Đạo đang mở cửa một căn phòng nhỏ: phòng riêng của Cha.
**
Một mình Nhu Mì còn ngồi trên ghế, hai tay khoanh lại trước mặt. Tâm trí non dại như đặc tràn ý nghĩ. Đàng xa kia, ngọn đèn nến trắng như cũng lao chao. Bóng tối xung quanh nhiều hơn ánh sáng.
Nhu Mì nhướng mắt lên. Sau lưng dường như có ai bước vào. Chắc chị Cát Tường qua thăm chừng Cha, hay đón bé và anh Trúc? Ồ không! Tiếng chân của vài người chứ không phải một mình chị Cát Tường. Nhu Mì quay lại. Có hai người lạ đi với Cát Tường vào nhà nguyện. Hai người đàn ông! Nhu Mì đứng phắt dậy. Cát Tường bước nhanh đến, nắm chặt tay Nhu Mì. Bóng tối không che lấp vẻ sợ hãi trên gương mặt Cát Tường. Bóng tối cũng không làm mờ vẻ nóng nảy trên mắt hai người đàn ông. Nhu Mì ngạc nhiên nhìn, đôi mắt mở to như muốn hỏi “cái gì vậy?”. Cát Tường cố giữ nét bình tĩnh, ôm vai Nhu Mì, đứng yên.
Một người cúi xuống nhìn nền nhà, mắt sáng lên khi nhìn thấy dấu giày đinh in trên đó bằng những đất bùn màu nâu đỏ. Cát Tường mím chặt môi, siết chặt vai Nhu Mì bằng đôi tay run rẩy. Dấu giày!!! Trời ơi người đã mang dấu giày đó vào tận nhà nguyện! Ở ngoài kia, trên những luống đất ướt mềm, dấu giày đã in xuống thật rõ ràng. Dấu giày đã làm dấy lên sự nghi ngờ của hai người lạ, sau khi đã khám xét kỹ lưỡng từ phòng ngủ qua nhà cơm, vòng qua nhà bếp, ra đến tận chuồng gà mà không thấy gì hết. Nhưng dấu giày in trên đất nhão đã dẫn họ vào đây. Cát Tường không còn biết nói gì để ngăn cản họ nữa. Ở đây chỉ còn cha tôi – cha Đạo, các ông đã biết. Cha tôi đang cầu nguyện, đừng vào đó làm xao động người. Nhưng dấu giày! Chúa ơi, dấu giày của Trúc!...
- Cha Đạo đâu rồi?
Một trong hai người lạ hỏi to khiến bé Nhu Mì giật mình. Bé trố mắt nhìn Cát Tường, chừng như muốn hỏi thật nhiều về những sự việc xảy ra nãy giờ. Cát Tường nhìn quanh, rồi cố đáp to lên:
- Cha tôi chắc đã ngủ.
- Còn người lính?
- Dạ, người lính nào?
- Cô bé này giả dại, nhưng cô nên biết tụi tôi không phải là con nít.
Cát Tường run giọng:
- Tôi đã nói ở đây chỉ có Cha của chúng tôi.
- Biết rồi, nhưng còn một người nữa.
Hai người đàn ông đẩy Cát Tường và Nhu Mì ra, và xăm xăm đi lên phía tượng Thập tự giá. Bé Nhu Mì ú ớ những âm thanh kinh ngạc. Cát Tường cắn chặt môi đau nhói. Chúa đã bỏ loài người rồi ư?
Kìa, đôi giày đinh đang bước ra trước mặt hai người lạ bằng những bước khập khiễng! Hai người kia đứng khựng lại trước tượng Thập tự giá. Cát Tường nhắm mắt. Nhưng một giọng nói trầm tĩnh cất lên làm Cát Tường giật mình:
- Xin hai quý khách đứng lại cho.
Giọng của cha Đạo! Cát Tường định thần nhìn lại. Đôi giày kia, cha Đạo đang mang. Cha bước tới. Hai người lạ lui lại. Cha chỉ vào dãy ghế, nói thật điềm đạm:
- Mời hai quý khách ngồi ở đây. Quý khách cần tĩnh tâm?
Người này nhìn người nọ, lúng túng. Một người nói:
- Xin lỗi cha, chúng tôi vào có hơi đường đột. Nhưng chúng tôi muốn tìm chủ nhân của những dấu giày đinh kia.
- Chính là tôi.
Người nọ kêu lên:
- Cha nói vô lý! Cha là người tu hành, Cha mang giày đó làm gì?
Cát Tường nghe nát cả lòng. Cha ơi! Cha đã đến ngõ cụt. Anh Trúc ơi! Phép lạ không còn có ở đây nữa.
Cha Đạo không lộ vẻ nao núng, chỉ xuống đôi giày:
- Quý khách muốn biết lý do tôi mang đôi giày này à?
- Phải. Cha hãy nói mau đi.
- Quý khách đừng nóng. Quý khách biết tôi là ai chứ?
- Biết rồi. Cha là cha Đạo, cô bé kia đã khai hết trơn.
- Quý khách biết tôi ở đây chăn một bầy trẻ mồ côi chứ?
- Biết.
- Cha con chúng tôi tự làm vườn rẫy lấy để kiếm thức ăn…
Người kia ngắt lời:
- Cha lập lại lời cô bé kia vô ích. Chúng tôi chỉ muốn biết ai là chủ của đôi giày này.
Cha Đạo thong thả đáp:
- Đôi giày này là của con nuôi của tôi.
Người kia đứng bật dậy:
- Nó đâu?
- Nó chết cách nay bốn năm rồi
Người lạ trợn mắt chưa tin. Cha Đạo vẫn đều giọng:
- Con nuôi của tôi! Vâng, nó đi lính. Nó chết khi tôi mới đem các trẻ mồ côi về đây. Tôi còn giữ được của nó đôi giày này làm di vật.
- Cha cũng xem chúng tôi là con nít. Cha mang đôi giày này để nhớ con nuôi của Cha à?
- Không!
Hai người lạ chịu đựng hết nổi. Nhưng Cha Đạo đang cúi xuống, lặng lẽ mở dây giày. Bàn tay Cha luống cuống không quen. Trái tim Cát Tường thắt lại. Nhu Mì run lẩy bẩy như không đứng vững được. Cha Đạo từ tốn nói:
- Quý khách đã biết tôi là Cha Đạo, tôi ở đây chăn một bầy trẻ nhỏ và tự làm vườn, làm rẫy lấy mà sống. Quý khách phải biết thêm rằng các con tôi còn ngây thơ nhỏ dại, tôi không muốn cho chúng nó phải sợ sệt cái hình ảnh tàn tật này. Nhưng quý khách muốn biết đến tận cùng, thì tôi cũng chẳng giấu làm chi.
Chiếc giày rơi ra khỏi chân Cha Đạo. Cha thản nhiên kéo vạt áo đen lên tận đầu gối, để lộ cho hai người kia thấy chân trái của người là một khúc gỗ màu xám bệch, bắt đầu từ dưới đầu gối và tận cùng bằng một khối hình thuôn dài như một cái bàn chân.
- Đó là lý do thứ nhất để tôi mang đôi giày này. Lý do thứ hai là vì hàng ngày tôi phải ra làm vườn trên đất xốp. Còn mang giày để tưởng nhớ con nuôi tôi… chỉ là cái lý do phụ.
Cha Đạo ngồi xuống một cái ghế, nói một mình:
- Vả lại ở đây, chỉ có tôi và cái nhà thờ nhỏ xíu này. Không có hội thánh, không có con chiên. Tôi chẳng phải lệ thuộc vào một cách ăn mặc nào hết. Tôi chỉ biết có Chúa, và các con tôi.
Một người nói:
- Chúng tôi… xin lỗi Cha.
- Quý khách muốn viếng mộ con nuôi tôi không? Tôi xin dẫn ra vườn.
- Thôi, xin Cha cho chúng tôi kiếu.
Cha Đạo vẫn thản nhiên:
- Ủa! Quý khách chưa cầu nguyện…
Hai người lạ nhìn nhau bối rối. Cha Đạo tiếp:
- Quý khách hãy làm dấu đi.
- Cám ơn Cha. Tối rồi, Cha cho phép chúng tôi về.
Cha Đạo gọi:
- Cát Tường! Con đưa giùm hai ông ra.
**
Hai người đàn ông bước xuống thềm, nhìn lại. Ánh mắt vừa từ bi vừa lạnh lùng của người con gái làm họ chột dạ. Cát Tường đứng lại ở đó, nhìn hai cái bóng chìm vào đêm đen. Rồi quay vào, Cát Tường đóng kín cửa nhà nguyện. Bé Nhu Mì còn đứng im như chưa hết sửng sốt. Cát Tường dẫn bé bước đến gần cha Đạo. Cha đang cởi nốt chiếc giày còn lại. Cát Tường se sẽ quỳ xuống bên chiếc chân gỗ của Cha. Tự nhiên, nước mắt rơi xuống. Cát Tường khóc ngon lành…
Cha Đạo cất tiếng:
- Kìa ! Cát Tường, sao lại khóc, con? Khúc chân của Cha, con đã biết từ lâu rồi mà! Có gì đâu mà con khóc?
Cát Tường muốn nói: “Cha ơi, con thương Cha”, nhưng lời nói nghẹn lại ở cổ họng. Nước mắt chảy trên má, nóng như giọt lệ của bạch lạp. Chừng ngước lên, Cát Tường đã thấy Trúc đứng bên cạnh.
Cha Đạo nhìn Trúc, mỉm cười:
- Con hãy cám ơn Chúa. Chính người đã che chở cho con đó!
Chương 06 Khánh trở về lúc sáng sớm tinh mơ. Gặp Cát Tường, Khánh kể chuyện ngay:
- Chị biết đêm qua em ngủ ở đâu không? Ở trên cành cây. Em xin lỗi chị vì em đi mà không cho chị biết. Lúc hai ông đó từ nhà nguyện đi ra, thấy chẳng có gì lạ hết, em biết là anh Trúc đã thoát nạn. Nhưng em len lén đi theo hai người ấy ra tận gần đường lộ. Em nấp trong bụi cây giả tiếng cú kêu làm hai ông ta sợ hết hồn.
Cát Tường trố mắt:
- Rồi sao nữa?
- Em thấy hai người ra tới đường lớn, chạy nhanh băng qua đám bụi cây bên kia đường, biến mất luôn.
- Rồi tại sao em không về?
- Em nghi hai người này còn trở lại, nên em giăng sợi dây ngang giữa đường mòn, rồi lên cây rình. Cả đêm, em nửa thức nửa ngủ. Nhưng họ không trở lại nữa. Bây giờ chị em mình yên chí lớn.
Cát Tường thở ra. Khánh nhìn dáo dác xung quanh, hỏi:
- Anh Trúc đâu?
- Anh ấy đang viết gì đó ở trong phòng thuốc.
Cát Tường nói giọng bùi ngùi:
- Đêm hôm qua, nếu Cha không lanh trí, chắc anh Trúc không còn ở đây với tụi mình giờ này. Chúa quả thật đã thương xót chúng ta. Kể cả bộ đồ trận của anh ấy cũng không có ở trong phòng.
- Ủa, chứ ở đâu hở chị?
- Bé Hậu đã đem ngâm trong nước tro để hôm sau giặt. Vì vậy khi khám xét ở đàng sau họ tưởng đó là thau nước rửa khoai.
- Híc híc, bé Hậu lóc chóc vậy mà hay.
- Khánh nè, bây giờ phải làm sao biến anh Trúc thành người làng hoàn toàn đi! Tình trạng này chị thấy nguy lắm! Làm sao kiếm cho anh ấy một đôi dép như đôi của Cha.
Khánh chỉ xuống chân mình:
- Anh ấy mang đôi dép này được không?
- Sao được? Chân Khánh nhỏ hơn chân anh ấy! Chỉ cần một vật gì thay cho đôi giày đinh của anh ấy là được.
Khánh reo lên:
- Nếu vậy thì… dễ quá!
- Hả? Khánh nói sao?
- Sao mình không làm cho anh ấy một… đôi guốc, há chị? Có sẵn gỗ trong nhà, để em đẽo ngay một đôi guốc.
Cát Tường mở tròn đôi mắt, nhìn Khánh. Rồi như vui mừng quá, Cát Tường xoa đầu Khánh thật mạnh. Khánh kêu:
- Á! Chị làm gì vậy?
- Ngu quá! Chị ngu quá! Vậy mà nghĩ không ra. Khánh vào làm mau đi! Chị sẽ lấy miếng cao su trong nhà xe của ông Năm làm hai cái quai. Mau đi! Khánh! Quy-Li-Ve sắp có guốc mới để mang!
Bỏ Khánh đứng đó, Cát Tường chạy về phía phòng của Trúc. Cửa khép hờ. Cát Tường đứng khựng lại. Không nên cho Trúc biết trước mà phải dành làm một bất ngờ. Cát Tường nhè nhẹ mở cửa. Ở trên giường, Trúc đang ngồi thẳng, viết say sưa vào quyển sổ nhỏ của Trúc. Cát Tường mỉm cười một mình rồi quay ra. Người đang nghĩ gì vậy? về Cha Đạo, hay về mình? Về đêm hôm rồi thoát nạn? Cát Tường muốn để yên cho người với ý nghĩ đang liên tục. Lạ kỳ quá! Nhìn người viết, sao bỗng dưng hồi hộp? Không, đừng nghĩ gì hết, Cát Tường! Người còn phải nghĩ tới gia đình nữa chứ! Chắc người đang nhớ một người cha, một người mẹ, nhớ một đàn em… Ô hay, người còn có ai nữa không? Có còn ai ngoài gia đình và những bạn bè cùng chiến đấu? Cát Tường chớp mắt nhanh. Sao lại nghe buồn buồn trên mắt, như có khói bay ngang trời? Cát Tường ngồi xuống thềm đá, nhìn ra con dốc thoai thoải dẫn xuống rẫy khoai. Sương tan đã gần hết. Trời cũng lạnh như những buổi sáng trước. Chốc nữa đàn trẻ sẽ dẫn nhau đi xuống dưới rẫy. “Nào anh em, nào anh em…”, những lời hát sẽ cất lên. Sáng hôm nào trẻ nhỏ mang Quy-Li-Ve từ rừng sâu về làng. Cũng ở bậc thềm này ta thấy người lần đầu. Chúa đã mang người đến đây, phải không? Cuộc gặp gỡ bất ngờ và kỳ lạ quá! Chắc Chúa đã muốn vậy và sắp đặt như vậy. Nhưng nghĩ thế để làm gì? Sự hiện diện của anh nơi đây chỉ là tạm bợ. Mây rồi phải lên trời. Chim rồi phải cất cánh. Có khi nào biển chảy vào sông? Nghĩ thế để làm gì? Ta là chị của một bầy trẻ nhỏ, sống ở rừng rẫy bốn năm rồi, chưa có gì đặc biệt xảy ra. Đời hồn nhiên và thoải mái. Có gì để suy nghĩ? Có gì để phải thay đổi? Tự nhiên Cát Tường nghe se sắt lòng. Chỉ vì anh! Sự hiện diện làm Cát Tường suy tư nhiều hơn trước…
Trúc đứng ở ngưỡng cửa, định gọi Cát Tường, nhưng thôi. Vì Trúc bỗng dưng thấy ở Cát Tường một vẻ gì là lạ - chỉ qua mái tóc, chỉ ở vai áo, chỉ ở dáng ngồi cô quạnh nơi bậc thềm. Trúc đã thấy trong những ngày ở đây, một Cát Tường lanh lẹ, một Cát Tường vui tươi, một Cát Tường khéo léo, rất xứng đáng làm chị cả của một bầy nai non. Chưa thấy một Cát Tường trầm ngâm tư lự. Nhưng trước mắt Trúc bây giờ, người con gái ngồi thu mình, tay đặt trên chân, hướng mắt nhìn xuống đường đồi. Dáng ngồi cô đơn. Mái tóc cô đơn. Vai áo buồn buồn. Trong gió sớm mai không lạnh nhưng làm se sắt da, hình ảnh của Cát Tường làm Trúc thấy bồi hồi. Trúc bước xuống thềm. Tiếng giầy làm Cát Tường ngẩng lên. Đôi mắt không che giấu được rằng Cát Tường đang suy nghĩ. Trúc toan nói một câu, nhưng Cát Tường đã lên tiếng trước:
- Anh không ở trong ấy nghỉ? Ra ngoài này gió lạnh…
Trúc cười:
- Lạnh sao Cát Tường ngồi ở đây?
Cát Tường đứng lên, chớp mắt , nói:
- Em quen sáng nào cũng dậy sớm. Các bé vẫn còn ngủ.
- Tôi có cảm tưởng là ở đây, sáng hay trưa, hay chiều, không khí đều trong lành. Tôi cũng thích thức dậy sớm để ra ngoài trời như Cát Tường vậy.
- Nhưng anh chưa được khỏe.
- Không, hôm nay tôi không còn cảm thấy đau nhức gì nữa. Chính hôm qua Cát Tường cũng đã thấy vết thương của tôi rồi.
Cát Tường vui mừng:
- Anh nói thật không?
- Thật. Tôi đã khỏe hẳn.
- Em mừng lắm!
Cát Tường cười hân hoan, Trong đôi mắt như đã tan sương mù. Trúc nói:
- Chúa đã cứu giúp tôi. Cha Đạo, Cát Tường và các bé đã cho tôi những ngày sống thật không ngờ.
Cát Tường xúc động:
- Anh Trúc tin có Chúa?
- Tin chứ! Tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng tôn giáo là niềm hy vọng quý giá nhất của con người. Tôi không theo đạo, nhưng tôi tin có Chúa. Nhất là sau đêm hôm qua, tôi cảm thấy là có Chúa ở cạnh bên tôi, không riêng gì lúc tôi ở trong nhà nguyện, mà kể cả lúc này…
Rồi Trúc lôi sợi dây chuyền bạc trên cổ, chìa ra cho Cát Tường thấy, bên cạnh tấm thẻ bài, là tượng Thập tự giá bằng đồng.
- Cha Đạo đã cho tôi tượng này, tôi sẽ giữ mãi, từ bây giờ…
- Cho đến khi anh rời khỏi làng cô nhi…?
Trúc bâng khuâng:
- Và sau này….khi tôi tiếp tục đi chiến đấu…
- Nhưng trước hết, anh phải về với gia đình.
- Vâng, nghe đến hai chữ gia đình, tôi nao lòng quá. Nghĩ đến lúc tôi bước chân về nhà…
Cát Tường bỗng dưng nghe tim đập mạnh, cúi xuống để che giấu một sự hồi hộp vô cớ, nhưng vẫn chờ nghe. Trúc nói:
- Tôi còn may mắn hơn Cát Tường một chút. Tôi còn mẹ già và mấy đứa em nhỏ.
- Anh có em nhỏ nữa? Anh có mấy người em?
- À, để tôi đếm… Tôi thua Cát Tường một bậc rồi đấy nhé! Cát Tường nhớ rõ một đàn em đông, còn tôi có vài đứa em mà không biết là mấy. Để coi, Lệ, Hạnh, Trinh, Tuấn nè…..
- Vậy là bốn…
- Ấy vậy mà mỗi khi ai hỏi thì tôi lại phải giơ tay ra đếm.
- Các em của anh còn đi học?
- Lệ sắp làm cô Tú, còn bé nhất là Tuấn mới lên trung học.
- Các em của anh chắc ngoan lắm?
- Ngoan nhưng chắc là không ngoan bằng các em của Cát Tường đâu.
Cát Tường cười:
- Anh nói vậy chứ các bé sống ở đây tội nghiệp lắm. Nhất là… thiếu cha mẹ…
- Đã có Cát Tường. Cát Tường còn hơn cả một người mẹ.
- Anh nói vậy… làm em xấu hổ quá! Thôi, anh nói tiếp đi.
- Về chuyện gì? Về gia đình anh, về bạn bè anh, về những gì ở quê anh.
Đôi mắt của Trúc trở nên xa xăm:
- Những gì ở quê tôi…? Quê tôi ở ngoài Bắc lận cơ, mịt mờ lắm, tôi không còn nhớ rõ một điều gì ở đó. Quê hương thứ hai là Sài Gòn, nơi mà gia đình tôi hiện đang sống. Không biết những điều tôi muốn kể có gì đặc biệt chăng?
- Anh Trúc kể đi! Với em, cái gì cũng đặc biệt cả. Em chưa được biết Sài Gòn. Từ nhỏ đến lớn em chỉ mới biết tỉnh em và cái làng cô nhi này.
- Cát Tường ngược lại với Hồng Phước. Hồng Phước chỉ biết Sài Gòn và chưa đi ra khỏi Sài Gòn.
Cát Tường trố mắt:
- Hồng Phước là ai?
Trúc cười:
- À…à… là em nuôi của tôi.
- Anh Trúc có em nuôi nữa? Là con trai hay con gái?
- Là con gái. Hồng Phước bằng cỡ Cát Tường vậy, cũng cao bằng này, cũng mảnh mai như thế này.
- Hồng Phước… cũng mồ côi hở anh?
- Ồ không… Hồng Phước sống với cha mẹ.
- Nhưng sao anh nhận làm em nuôi?
Trúc nhíu mày, bối rối, rồi cười:
- Thì tại vì thế này… ủa, nhưng điều đó có đặc biệt không?
- Với em, cái gì cũng đặc biệt cả.
- À, tại vì… Hồng Phước dễ mến lắm, ngoan ngoãn lắm.
- Hồng Phước có hiền không?
- Có chứ! Nhưng chắc là về tài khéo léo thì thua Cát Tường. Hồng Phước không biết chỉ huy một đàn trẻ như Cát Tường đâu! Còn về băng bó thì chắc còn thua xa. Thế này nữa, bỏ Hồng Phước vào rừng, vào rẫy, chắc cô bé chỉ biết khóc nhè.
Cát Tường cười thích thú:
- Hồng Phước dễ thương quá! Anh nói về cô ấy nữa đi!
Trúc nhìn xuống đường đồi, mắt mơ màng, giọng nói trở nên xa xăm:
- Hồng Phước đi học cùng lớp với Lệ. Trường học của Hồng Phước cũng nho nhỏ, dễ thương như nhà nguyện ở đây vậy. Tóc cô bé dài và hay cột thành hai đuôi, thắt hai sợi nơ vàng. Ngoài giờ học, Hồng Phước cũng thích mặc áo dài vàng nữa. Đi đâu cô cũng mặc áo vàng. Vì thế mọi người gọi cô là “bé áo vàng”.
- Hay quá! “Bé áo vàng”. Anh kể nữa đi!
- Hồng Phước đi học bằng chiếc xe Cady màu vàng. Cây bút, quyển sổ cũng màu vàng.
Cát Tường chớp mắt:
- Như vậy Hồng Phước dễ thương quá! Em chưa gặp, nhưng cũng hình dung ra được rồi! Hồng Phước là… em nuôi của anh Trúc hở?
Trúc cười:
- Ừ.
- Sao… sao hay vậy?
- “Hay” là sao? À, là vì Hồng Phước là… bạn của Lệ.
- Chắc anh thương cô ấy lắm?
- Thương, …thì thương… như em nuôi vậy.
- Hồng Phước có nghe lời anh không?
- Có chứ!
- Có săn sóc anh không?
- Săn sóc? – Trúc ngẫm nghĩ – Hình như có. Nhưng chưa bằng Cát Tường. Phải nói, Cát Tường là ân nhân của tôi, là người đầu tiên băng bó cho tôi.
- Anh Trúc đừng xem em là ân nhân. Em chỉ làm theo lời Cha dạy.
Rồi Cát Tường yên lặng. Nắng như đã đến từ lâu, sao mình không hay biết? Dưới chân đồi, nắng lấp lánh cùng với lá, với cây, với đất. Phía nhà nguyện, nắng làm cây Thập tự trên nóc nhà nổi rõ. Cát Tường cúi xuống, dí mũi dép trên một viên sỏi nhỏ dưới chân. Tự nhiên hết lời để nói. Cát Tường vẫn còn muốn câu chuyện tiếp tục nữa. Nhưng nắng đã lên nhắc nhở rằng các bé đã thức dậy. Quả thật thế, có tiếng xôn xao từ trong nhà ngủ ra đến nhà bếp.
Trúc nói:
- Các bé đã dậy rồi.
- Dạ. Em phải vào để cho các bé đọc lời tâm niệm, rồi ăn cháo.
Khi Cát Tường vào phòng học, đã thấy trẻ nhỏ ngồi yên trên ghế. Những cánh tay vòng lại trước ngực, đặt ngay ngắn trên bàn. Cát Tường đứng yên, nhìn những đôi mắt ngó lên. Như nai đàn, như chim bầy… đợi chị cả gật đầu, những cái miệng mở ra, đọc lời tâm niệm:
- “Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc, rèn luyện thể chất chúng con, trau dồi tâm hồn chúng con, giúp chúng con yêu mến thiên nhiên và chịu đựng thử thách, để mai sau chúng con trở nên người hữu dụng. Amen”
- Nào! Bây giờ các em đi ăn sáng. Sáng nay, các bé gái phụ với chị chuyền nước từ hồ ra vườn rau để tưới rau cải và đổ đầy hai lu, một lu trước nhà nguyện và một lu trước phòng thuốc. Còn các em trai theo anh Khánh xuống rẫy khoai, đào khoai chở về nhà. Quên nữa, trưa nay chị sẽ làm thịt hai con gà để ăn mừng Quy-Li-Ve của chúng mình đã bình phục, …tức là hết đau ốm đó!
Đàn trẻ vỗ tay thích thú. Cát Tường nói thêm:
- Còn để dành hai con đến khi ông Năm về, kẻo không có trứng mà ăn.
Cát Tường nhìn ra cửa phòng học, thấy Trúc đứng đó từ bao giờ. Trúc mỉm cười nhìn lũ trẻ. Vài đứa quay ra. Những đôi môi nhỏ nhắn cười đáp lễ. Hôm nay Quy-Li-Ve hiện diện không cần có người dìu đỡ. Người mạnh khỏe, tươi tắn. Cát Tường nháy mắt với bầy trẻ, rồi mở đầu:
- “Mừng người đến đây…”
Những cái miệng cùng mở ra, trong đó có miệng của bé Nhu Mì, không nói được nhưng mở ra để cười. Và bài hát bắt đầu, thật dễ dàng như đã quen thuộc từ lâu:
- “Mừng người đến đây thăm chúng em
Tỏ tình thương
Người nào sá gian nan xa xôi
Vượt dặm đường
Người đã đến như Quy-Li-Ve
Giấc ngủ ngon
Người nào biết vây quanh vây quanh
Bầy tí hon”
Trúc sung sướng vỗ tay. Cát Tường vỗ tay. Rồi lũ trẻ vỗ tay theo. Sớm mai có nắng múa ngoài sân, có trẻ hát trong này. Bài hát mừng người khách, tập đã lâu nhưng chưa hát bao giờ, hôm nay được hát lên để mừng ngày Gulliver bình phục. Thân ái quá! Tuyệt vời quá! Trúc nhìn đàn trẻ, nhìn Cát Tường. Có phải con người này là cả một nguồn hạnh phúc cho những ai được ở gần? Cái hình ảnh một Cát Tường cô đơn, buồn bã, ngồi hiu quạnh trên bậc thềm đá, bỗng chốc mờ đi, Trúc lại thấy trước mắt là một Cát Tường hân hoan, bao dung, sống động giữa bầy trẻ nhỏ.
**
Sau khi ăn, Cát Tường dẫn lũ trẻ ra sân. Tự động, chúng chia làm hai cánh, một bên trai, một bên gái. Hiền và Lương chạy đi lấy chiếc xe đẩy lại, chiếc xe hôm nào chở “người khổng lồ” từ rừng về. Trúc ngạc nhiên:
- Ủa, Khánh đâu?
Cát Tường đáp:
- Khánh đang ở đàng sau, cậu ta đang… đang…
Trúc cười:
- Lại một điều gì mới mẻ nữa phải không?
- Dạ.
- Vậy thì cho tôi biết với. Tôi đang muốn đi làm rẫy với các em đây!
Cát Tường reo lên:
- Anh Trúc xuống rẫy?
- Chứ sao!
- Ngay bây giờ?
- Ừ, ngay bây giờ.
- Vậy em phải làm mau mới được.
Mặc cho Trúc ngơ ngác, Cát Tường chạy ra phía sau nhà bếp, vừa chạy vừa nói vói lại:
- Tìm cái miếng cao su của ông Năm làm cho anh hai quai guốc. Khánh ơi! Sáng nay anh Trúc xuống rẫy với chúng mình….
|
|
|
The Following 2 Users Say Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
06-16-2020
|
#107
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Thức tỉnh tâm hồn.
Thế nên, gặp chuyện gì cũng đừng quá kích động, hãy tỉnh táo suy nghĩ. Quên hận thù đi, quên hận thù chính là một loại giải thoát, chính là một niềm hạnh phúc.
Đi bộ dưới cơn mưa hồi lâu, Sơn đã có chút mệt mỏi. Hắn uống nốt mấy ngụm nước lọc, quẳng cái bình xuống đất, lấy chân đá văng nó đi. Hắn tìm gốc cây khô ráo để ngồi nghỉ thì bỗng thấy một làn khói bếp lượn lờ ngay sườn núi bên cạnh. Tinh thần đang mệt mỏi của hắn bỗng rung lên: Có khói bếp là có người, có người là ta có thể ra tay! Hắn sờ bên hông con dao còn nguyên vỏ, thầm hạ quyết tâm, dùng con dao này giết người!
Sơn muốn giết người! Hắn cho rằng việc quan trọng nhất bây giờ của hắn là giết người! Thế nên hắn bấp chấp mưa gió đi tới nơi vắng vẻ này.
Khói bếp chậm rãi tới gần, một gian nhà đơn sơ lúc ẩn lúc hiện, Sơn dùng sức nắm chặt chuôi đao, khóe miệng lướt qua một nụ cười độc ác. Đến gần nhà lá, con chó vàng cảnh giác "gâu gâu" kêu to. Chỉ chốc lát sau, một người mặc áo mưa đi ra, con chó ngoắt ngoắt cái đuôi chạy về chân chủ. Chủ nhà nhìn thấy một chàng trai trẻ đang ướt sũng dưới mưa vội vàng gọi : "Mau mau vào tránh mưa, đừng ngại."
Sơn đi vào nhà, căn nhà đơn sơ nhưng rất gọn gàng ngăn nắp. Chủ nhà cởi áo mưa, mái tóc thật dài cuộn lại trên đầu, thời gian điêu khắc hàng loạt nếp nhăn trên khuôn mặt, nhìn qua khoảng năm mươi tuổi. "Bác ở đây một mình à?"
"Ừm, chỉ có một mình bác. Ngồi xuống đi." Người phụ nữ chỉ vào chiếc giương đơn sơ.
Sơn ngồi xuống giường, thầm nghĩ: "Tốt lắm, tìm được mục tiêu rồi." Bỗng một tiếng "Hắt xì" thật to vang lên, Sơn đi lâu dưới mưa nên bị cảm lạnh. Con chó vàng đột nhiên đứng lên, hai con ngươi dữ tợn nhìn chằm chằm, miệng không ngớt gầm gừ đe dọa. Sơn không tự chủ được đưa bàn tay hướng về phía hông.
"Vàng! Nằm xuống" Người phụ nữ quát một tiếng, con chó chậm rãi ngồi xuống, nhưng mắt vẫn nhìn chằm chằm Sơn.
"Cháu cảm lạnh rồi, ở đây lại không có quần áo đàn ông, cháu mặc tạm cái áo khoác của bác cho đỡ lạnh."
"Thôi, không cần đâu, cháu nghỉ một chút rồi đi."
"Đói không, bác nấu cho bát mì, ăn đi rồi hãy về, xuống đường cái còn xa đấy. Đừng đi lên núi nữa, đến đây là hết đường rồi."
"Hết đường?" Sơn đang hỏi người phụ nữ, cũng là hỏi chính mình. Hắn tự nhủ : Giết người xong chắc chắn là phải quay về, nhưng bây giờ chưa phải cơ hội, mình vừa đói vừa mệt, lỡ như đâm không chết, bà ta sẽ chạy đi, hơn nữa con chó vẫn nhìn mình chằm chằm, không chừng mình thực sự hết đường.
"Hết đường thật rồi, bác ở đây cả chục năm rồi còn lần đầu thấy có người đi tận ra đây. Trời sắp tối rồi, ăn mì xong nhanh nhanh trở về, nếu không trời tối là không đi nổi đâu."
"Ừm, được rồi." Sơn đi bộ cả ngày nên thực sự cảm thấy rất đói.
"Thêm củi vào cho bác, để bác chuẩn bị mì."
"Ừm" Sơn chọn những thanh củi nhỏ, khô cho vào bếp.
"Sao cháu lại đi ra tận đây?" Người phụ nữ nhanh chóng chuẩn bị nấu mì, hỏi.
"Cháu. . . cháu. . ." Sơn ngập ngừng mãi không nói lên lời.
"Đừng lo, ở đây chỉ có mình bác, cứ yên tâm nói đi."
"Cháu. . . Cháu đi tìm mẹ." Sơn đương nhiên không thể nói mình đi giết người, đành bịa chuyện nói.
"Mẹ cháu đi đâu rồi?"
"Ừm, người ta bảo lúc cháu bảy tuổi, mẹ cháu bỏ nhà theo trai, nghe nói là trốn về hướng núi này."
"Aaa" Nghe Sơn kể, người phụ nữ giật mình, con dao không may cắt trúng tay.
"Bác, bác làm sao thế?" Sơn đứng lên hỏi.
"Không việc gì." Người phụ nữ lấy vải quấn qua loa một vòng, rồi hỏi : "Cháu tên gì?"
"Cháu tên Sơn."
Rất nhanh, nước sôi, bà cho mì vào nồi, dùng đũa quấy quấy, rồi đậy nồi lại. Bà mang chiếc áo khoác đầu giường đưa cho Sơn nói : "Cháu mặc tạm cái áo khoác này kẻo ốm."
Căn nhà lá đơn sơ không cản hết gió lạnh thổi đến khiến Sơn run lẩy bẩy. Hắn "Cảm ơn" rồi đứng dậy đưa lưng về phía bà rồi mới cởi áo ướt ra mặc lấy áo khoác. Hắn không muốn để cho bà nhìn thấy con dao bên hông.
Mì rất nhanh chín, Sơn ăn ngon lành, chỉ thoáng chốc đã hết cả nồi. Hắn lau miệng một cái, cười khen: "Mì ngon quá."
"Bác thấy cháu cảm rồi, cứ nằm trên giường nghỉ lúc đi, bác hong khô áo cho."
"Không sao đâu, cháu ngồi nghỉ tí là đi được mà." Sơn ngồi lên giường. Tuy hắn cảm thấy không khỏe nhưng sát cơ vẫn không giảm. Người phụ nữ đưa lưng về phía hắn, hiện tại ra tay liền dễ như trở bàn tay có thể kết liễu tính mạng của bà ta. Hắn nắm chặt cán dao, chuẩn bị tâm lý thật tốt trước khi ra tay.
Hai tay người phụ nữ đang giơ áo của Sơn trên bếp lửa, hoàn toàn không có chút đề phòng Sơn. Bà chỉ có một ý nghĩa trong đầu, giúp áo của Sơn nhanh chóng khô. Nhìn thấy ánh mắt chuyên chú của bà ta, Sơn đột nhiên sinh ra ý nghĩ thương hại, giết một người tốt như vậy, có phải là quá tàn nhẫn!
Không! Không! ! Vô độc bất trượng phu! ! !
Ai bảo ta gặp bà, mà bà lại ở một mình. Ngay cả bà ta cũng không giết được thì làm sao giết tên Vương kia! Nghĩ đến Vương, lửa giận trong lòng hắn cháy hừng hực. Hắn nhìn chằm chằm người phụ nữ, chậm rãi rút dao ra khỏi vỏ, lặng lẽ đứng lên, tay mặc dù có chút run rẩy, răng mặc dù có chút lạch cạch, nhưng ý đồ giết người cực kỳ kiên quyết. Hắn nhấc chân tiến tới, thừa dịp người phụ nữ không chuẩn bị, định chém một nhát gọn gàng kết thúc tính mạng bà ta.
Nhất cử nhất động của hắn bị con chó vàng trông thấy, hắn vừa nhấc chân phải lên con chó đã "Gâu" một tiếng, nhe hàm răng trắng bóng. Nó tựa hồ đã nhìn thấu dụng tâm hiểm ác của Sơn nên vô cùng cảnh giác. Bị con chó cảnh cáo, Sơn giật nảy mình, lập tức ngã ngồi xuống giường. Người phụ nữ nghe được âm thanh, quay đầu lại hỏi: "Sao thế?"
"Đầu cháu hơi choáng." Sơn tranh thủ thời gian dùng chiếc áo khoác che tầm mắt, nhét con dao về vỏ.
Người phụ nữ thêm củi vào trong lò, đứng dậy, đến bên giường sờ trán Sơn, kinh ngạc nói: "Cháu sốt cao quá. Thôi nằm xuống ngủ rồi mai hãy về." Nói xong, bà giúp Sơn chuẩn bị chăn màn. Dần dần, Sơn càng ngày càng thấy không ổn, toàn thân không tự chủ được phát run.
"Đừng sợ, bác làm cho ít nước gừng nóng uống vào là khỏe." Người phụ nữ xoay người cho thêm củi vào bếp, rồi đặt nước lên. Sau đó, bà đi ra vườn rau sau nhà đào lên một củ gừng, cạo sạch, thái mỏng bỏ vào trong nồi. Nước gừng rất nhanh nấu xong, bà ta rót ra bát cho Sơn uống. Chưa đi đến giường đã nghe tiếng Sơn nói mớ: "Thằng chó Vương, tao đâm chết mày!"
"Thằng bé này, mê sảng rồi?" Bà nhìn thấy Sơn bờ môi khô khốc, sắc mặt trắng bệch.
"Sơn, Sơn, Sơn ơi!" Gọi to mấy tiếng nhưng không thấy có phản ứng, bà đi tới lay động vai Sơn. Sơn giật mình tỉnh giấc, "A" một tiếng. Nhìn thấy bà, hắn ít nhiều có chút hoảng sợ, lại không biết nói gì.
"Nước gừng được rồi, uống ngay đi cho nóng, hết lạnh là đỡ ốm." Người phụ nữ đưa cho Sơn chén nước gừng.
"Cảm ơn bác." Sơn nhận bát nhấp một hớp nhỏ, nước gừng nóng tỏa ra khắp người, hắn an tâm thoải mái ùng ục uống một hơi hết sạch.
"Sơn à, Vương là ai?"
"Sao bác biết?"
"Bác nghe cháu nói mớ, cháu có mâu thuẫn gì với người ta?"
Sơn do dự một chút, kể cho một người xa lạ cừu oán của mình có vẻ không tốt lắm? Không quan trọng, dù sao bà ta rồi cũng sớm trở thành oan hồn dưới tay mình, nói ra cũng không sao.
"Không chỉ là mẫu thuẫn, ấy là không đội trời chung, người chết ta sống." Dưới ngọn đèn, trong ánh mắt quan tâm của người phụ nữ, Sơn chậm rãi kể ra mọi chuyện.
"Thằng Vương là công an xã, hắn chia rẽ tình yêu của cháu. Cháu và bạn gái rất yêu thương nhau. Từ khi mẹ cháu bỏ đi, cha cháu suốt ngày uống đến say khướt, uống say lại lôi cháu ra đánh mắng. Mỗi lần cháu bị đánh đều có cô ấy hết lòng chăm sóc, an ủi. Nhà cô ấy rất giàu nhưng cô ấy không bao giờ chê cháu nghèo mà luôn hết mực quan tâm cháu. Với một kẻ không có mẹ, không có một gia đình ấm áp như cháu thì cô ấy còn quan trọng hơn cả tính mạng cháu! Cháu đã thề, cả đời này sẽ không phụ cô ấy, cả đời này sẽ không để cô ấy bị tổn thương. Thế nhưng mà. . ." Sơn nói không được nữa, nước mắt chua xót rơi đầy mặt.
Người phụ nữ cũng thở dài than thở hỏi. "Thế bạn gái cháu giờ thế nào?"
"Cô ấy vẫn đang học lớp 12. Chúng cháu từng học cùng lớp với nhau từ lớp 6."
"Không học cùng nữa à?"
"Tháng trước, cháu bị đuổi học. Cháu học cũng được, nhưng mà bị kỷ luật buộc phải chuyển trường khác. Chuyện là trên lớp có một thằng béo nhà giàu phách lối thường xuyên cãi nhau với cháu. Nó cậy ngồi phía sau cháu nên nhân lúc cháu không chú ý viết chữ "ngu" lên áo cháu. Cháu chỉ có mỗi hai bộ áo trắng để đi học, thế mà nó lại viết lên áo để biến cháu thành trò cười. Cháu bắt nó đền mà nó còn cứng cổ thách thức. Cháu tức không chịu nổi đấm thật mạnh vào mũi nó, nghe đâu nó bị gãy mũi luôn" Sơn ngập ngừng dừng một chút rồi kể tiếp, "Cô chủ nhiệm biết chuyện chạy tới mới vừa thấy cháu đã mắng xối xả. Đã thế còn chia rẽ cháu và bạn gái là "yêu đương nhăng nhít" nên đòi bắt cháu chuyển lớp. Cháu tức điên xông lên bục giảng cãi nhau tay đôi. Ai dè cô ấy tuổi già, có bệnh cao huyết áp nên mới giằng cò một tí đã té xỉu trên bục giảng. Nhà trường phải gọi xe cứu thương, cháu cũng bị dọa đến mặt trắng bệch. Về sau gia đình thằng béo báo cảnh sát, muốn bắt cháu đi tù, thế là thằng Vương đến xử lý. Cháu không bị đi tù nhưng cũng bị đuổi học."
"Ài, thật đáng thương." Bà thở dài một tiếng ngao ngán.
"Thằng chó Vương kia sau khi biết cháu có bạn gái đã tìm mọi cách chia rẽ. Nó còn đến nhà bạn gái cháu bảo bố mẹ bạn ấy cấm không cho qua lại với cháu. Có lần cháu và bạn gái gặp nhau thì hắn trông thấy, xông tới dọa cháu. Sau đó hắn còn mách lẻo hại bạn gái cháu bị cấm cửa không được ra ngoài. Con chó, ỷ thế hiếp người. Cục tức này làm sao mà nuốt trôi được? Cháu và nó không đội trời chung!"
"Cái gì của mình thì sẽ là của mình. Cái không của mình thì cố cũng vô ích. Giờ việc quan trọng nhất của cháu là chuẩn bị thi đại học vì tương lai phía trước. Đừng vì một cô gái mà đi vào ngõ cụt."
"Không được, cháu đã thề với bạn gái, nhất ngôn cửu đỉnh, tứ mã nan truy, quyết không thể nuốt lời."
"Cháu đừng nghĩ nhiều như vậy. Đàn ông hẳn là phải sống có trách nhiệm, nhưng cũng phải xem là chuyện gì. Có rất nhiều chuyện không đáng để xốc nổi. Cháu còn trẻ, đường đời còn dài. Mà bây giờ đầu cháu còn đang nóng bừng kìa, nằm xuống đi. Ngủ một đêm, sáng mai sẽ khỏe hơn." Bà sờ lên trán Sơn, quan tâm khuyên bảo.
"Bác, cháu ngủ trên giường thì bác ngủ ở đâu?"
"Bác còn hong khô đồ của cháu đã, rồi dựa vào tường một tí là ngủ được, cháu cứ yên tâm ngủ đi cho khỏe." Bà kéo chăn chỉnh tề cho Sơn.
Nhìn bóng lưng người phụ nữ xa lạ ấy, Sơn bất tri bất giác tiến vào mộng đẹp.
Hôm sau tỉnh lại, trời đã sáng choang. Sơn lắc lắc đầu, cảm thấy người khỏe hơn hẳn, sờ bên hông, con dao vẫn còn đó. Người phụ nữ cùng con chó vàng không biết đã đi đâu. Sơn tự hỏi : Chẳng lẽ bà ta nghi ngờ hành vi của mình, sợ gặp bất trắc nên cố tình dậy sớm tránh né sao?
Sơn mặc chiếc áo khoác đã khô của mình, trông thấy trong bát còn ba củ khoai nướng, nhìn trên bếp vẫn còn nồi cháo đang nóng hôi hổi, hắn ăn hết sạch rồi đi ra ngôi nhà lá.
Sau cơn mưa trời lại sáng, trên núi cỏ cây tuôn tràn sức sống. Người phụ nữ đang ở sườn núi gần đó, giơ cuốc làm việc, tựa hồ đang đào khoai lang, đào mấy nhát lại cúi người xuống nhặt, con chó vàng không biết đã chạy đâu.
Cơ hội rốt cuộc đã đến, hắn vô ý thức sờ sờ bên hông con dao. Trong lòng hắn thầm nhủ, xin lỗi bác, trước khi giết chết thằng Vương, cháu nhất định phải tìm kẻ chết thay để luyện tập, rèn dũng khí, bác là lựa chọn tốt nhất. Bác yên tâm, nhớ bát mì của bác, nhớ bát canh gừng, nhớ ngủ trên giường của bác một đêm, nhớ tới khoai và cháo sáng nay, cháu sẽ không để bác phải phơi thây ngoài đường, cháu sẽ đem thi thể bác chôn dưới ngôi nhà lá. Thật xin lỗi!
Sơn bước dần tới gần người phụ nữ. Bà ta nghe tiếng quay lại thấy Sơn, bà hô: "Dậy rồi à, về nhà đi kẻo mọi người lo lắng đấy!"
"Bác, để cháu tới giúp bác một lúc!" Sơn lớn tiếng đáp. Có lẽ vì đi quá nhanh, có lẽ vì quá căng thẳng, Sơn không chú ý dưới chân mình. Hắn đột nhiên cảm thấy giống như giẫm phải một bãi bùn nhão, chợt cúi đầu nhìn xuống đã thấy một con rắn hổ mang to ưỡn mình lên cắn vào chân hắn. Cảm giác đau đớn tột cùng khiến hắn thét lên đau đớn rồi ngã lăn xuống đất.
"Sơn, sao thế?!" Bà nhìn thấy Sơn ngã xuống, vội vàng quẳng cuốc chạy tới.
Nhìn thấy Sơn hai tay ôm thật chặt cổ chân đang chảy máu, bà nhíu mày thật sâu hỏi: "Cháu bị rắn cắn rồi?"
"Aaaa, cháu bị rắn hổ mang cắn!" Sơn thở hổn hển đau đớn hô.
"Đừng sợ, có bác đây." Người phụ nữ từ vạt áo đã cũ kỹ của mình xé xuống miếng vải, nhanh nhẹn cột vào chân bị cắn của Sơn. Bà dùng miệng ra sức hút máu, vừa mới bắt đầu còn biết hút mấy cái lại nôn ra một cái, nhưng nghe được tiếng Sơn rên rỉ thống khổ, bà lo lắng Sơn bị nguy hiểm tới tính mạng, vậy mà sau đó quên nôn ra, cứ từng ngụm từng ngụm hút máu độc. Khoảng nửa tiếng sau, bà cảm thấy không còn tí sức lực nào, không thể hút nổi nữa. Bà nhìn thấy xung quanh vết cắn chỉ có một mảnh nhỏ bị tím đen mới miễn cưỡng cười nói: "Đừng lo, độc rắn bị bác hút hết rồi, không có gì nguy hiểm nữa đâu."
"Cảm ơn bác! Bác, cảm ơn người đã cho con sinh mệnh thứ hai!" Sơn cảm kích liên tiếp cảm ơn.
"Sống trên đời phải biết yêu thương giúp đỡ nhau. Sống phải có lòng lương thiện, phải có sự bao dung, không thể chuyện gì cũng tính toán so đo. Tựa như con rắn, nếu cháu không dẫm lên nó thì nó cũng sẽ không tổn thương cháu, nó cắn cháu là do bản năng. Nhưng con rắn không biết, vết cắn này có thể lấy đi tính mạng cháu. Sơn à, hãy quên đi hận thù, tương lai của cháu và người bạn gái kia còn dài. Cuộc sống còn có vô vàn điều tốt đẹp đang chờ."
"Bác, cảm ơn lòng tốt của bác. Bác không chỉ cứu mạng con, còn giáo dục con làm người. Bác là người tốt, nhưng con... nhưng con không phải là người! Con luôn có ý đồ độc ác với bác, vừa rồi, con còn nghĩ hạ độc thủ với bác. Con ... con thật xin bác, bác, bác hãy đánh con đi!" Sơn nắm bàn tay người phụ nữ quất mạnh mặt mình.
"Không cần như vậy đâu, cháu hiểu ra là bác mừng lắm rồi."
"Bác, mong bác tha thứ cho con! Bác! Sao môi bác tím bầm thế này?" Sơn phát hiện bà ta suy yếu vô cùng, vội vàng hỏi.
"Con à, nói thật cho con, vừa rồi bác lỡ nuốt vào quá nhiều độc rắn, mà từ nơi đây chạy ra trạm xá thì không kịp rồi." Người phụ nữ thều thào nói.
"Không, bác! Con sẽ cõng bác xuống núi, con sẽ cứu bác!" Sơn cắn răng, nhịn đau đứng lên, dùng sức nhấc bà lên lưng.
"Con à, đừng tốn công vô ích, không kịp nữa rồi, ngồi xuống nghe bác nói nốt. Bác lần đầu tiên thấy con đã nhìn ra gương mặt non nớt nhưng đằng đằng sát khí, còn dấu con dao bên hông, nhất định là đang nghĩ quẩn. Bác nghĩ con còn trẻ, còn có thể giáo dục, bác muốn dùng hành động của mình cảm hóa con. May là con rốt cục cũng đã hiểu ra, như thế dẫu ta có đi về thế giới bên kìa, ta ... ta cũng yên lòng."
"Bác, bác đừng nói nữa ! Giữ sức, người sẽ không chết, nhất định sẽ không chết! Con sẽ cứu người, dẫu còn một hơi thở con cũng sẽ cứu người!" Sơn nước mắt đầm đìa nói.
"Không cần, cảm ơn. . . cảm ơn... Trong túi áo của con có một phong thư của bác. Con của bác cũng lớn bằng con, dáng dấp cũng giống lắm, ta không có gì hy vọng xa vời, chỉ hy vọng trước khi đi có thể nghe được một tiếng ... một tiếng MẸ." Sắc mặt người phụ nữ đã tái xanh, khó nhọc nói hết câu.
"Mẹ" Sơn ôm bà vào lòng, khóc lớn gọi mẹ.
Người phụ nữ chậm rãi đình chỉ hô hấp, nhưng nước mắt của bà vẫn đang y nguyên chảy ra.
"Mẹ!" Sơn lau nước mắt cho bà, lần nữa kêu khóc gọi.
Tiếng la khóc của Sơn quanh quẩn trong khe núi lâu thật là lâu...
Không biết đã trôi qua bao lâu, Sơn một tay ôm người phụ nữ, một tay móc ra lá thư, chỉ thấy trong thư viết :
"Gửi đứa trẻ đáng thương,
Cả đêm nay bác không chợp mắt được. Bác cứ thẫn thờ ngồi đây nghĩ về quá khứ, rồi một lần lại một lần sờ trán của con, cho đến khi cơn sốt lui dần. Bác nướng cho con mấy củ khoai lang, nấu cho con ăn bát cháo. Mấy củ khoai lang con có thể mang theo khi về, phòng khi đói bụng.
Sơn à, vừa nhìn thấy mặt con đằng đằng sát khí, bác rất lo lắng con sẽ nhất thời xúc động đi vào ngõ cụt. Cừu hận là độc dược, tổn thương người khác, cũng tồn thương chính mình. Tuyệt đối không bao giờ vì hận thù mà làm những việc phải hối hận cả đời.
Con còn trẻ, nếu con yêu bạn gái mình thì lúc này càng phải cố gắng phấn đấu vì tương lai của hai đứa. Nếu con giết Vương, bạn gái của con sẽ vui sao? Nếu con giết cảnh sát, con sẽ phạm vào quốc pháp, cuộc đời của con sẽ ra sao? Con hãy thử suy nghĩ, nếu thực như con dự tính, con sẽ hạnh phúc sao?
Sơn à, nói thực, bác là kẻ giết người. Bác đã giết ### (chú thích: chữ này viết xong lại bị bôi đen). Vì sợ tội, hơn chục năm nay bác đã một mình lẻ loi trốn ở nơi rừng sâu núi thẳm, ngay cả một người để trò chuyện cũng không có. Cuộc sống vật chất và tinh thần đều vô cùng cằn cỗi. Ngày ngày, bác sống rất khổ sở và hối hận.
Thế nên, gặp chuyện gì cũng đừng quá kích động, hãy tỉnh táo suy nghĩ. Quên hận thù đi, quên hận thù chính là một loại giải thoát, chính là một niềm hạnh phúc. Sau khi trở về con hãy đối xử tốt với hết thảy mọi người, con đối xử tốt với người khác thì người khác nhất định sẽ đối xử tốt với con. Cha con thực ra là một người đáng thương, con nhất định phải đối xử tốt với ông ấy, dẫu sao ông ấy cũng đã nuôi nấng con thành người.
Có rất nhiều lời muốn nói với con, nhưng chỉ dặn dò con những điều quan trọng nhất này.
Chúc con cả đời bình an!
Một người mẹ."
"Mẹ " Sơn ức chế không nổi, tiếng khóc thét khàn khàn vang vọng khắp núi rừng . . .
Bùi Phương Linh.
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-16-2020
|
#108
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Đi tìm quán cà phê xưa nhất tại Sài Gòn
Cheo Leo là tên quán cà phê “xưa” nhất Sài Gòn, ở căn nhà số 109/36, đường Nguyễn Thiện Thuật, quận 3, khu vực này chi chít ngõ hẻm ngang dọc, nên từ lâu đã có tên gọi là khu Bàn Cờ.

Chúng tôi được biết quán Cheo Leo hình thành từ năm 1938, trước cả thời gian xảy ra Ðệ Nhị Thế Chiến, 1939-1945, tồn tại đến hôm nay, quán Cheo Leo đã hơn 75 năm tuổi; đặc biệt quán Cheo Leo vẫn pha cà phê bằng vợt, còn gọi là cà phê bít tất.
Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, khi còn là học sinh trường trung học Chu Văn An, tôi đã biết có quán cà phê Cheo Leo.
Bạn đồng lứa tuổi chúng tôi, học tại trường Chu Văn An và trường Pétrus Ký, cả hai trường đều không xa khu Bàn Cờ. Khi tập tành ngồi quán cà phê, nhiều bạn đã lui tới thường xuyên quán Cheo Leo.
Riêng tôi, theo đòi những “ông anh văn nghệ,” đã tìm tới quán có cà phê phin, để được làm dáng trầm tư, nhìn ngắm từng giọt đậm đen nhỏ từ cái phin xuống đáy ly cốc, thuở đó tuy pha cà phê bằng phin chưa phổ biến, nhưng ở khu vực Bàn Cờ đã có những quán pha cà phê bằng phin, nổi tiếng như các quán cà phê Phong, cà phê Năm Dưỡng…

Sau biến cố 30 tháng 4 1975, không còn thấy bóng dáng cà phê Phong nữa. Cà phê Năm Dưỡng còn tiếp tục, nhưng cách đây mấy năm đã trở thành nhà nghỉ khách sạn.
Hầu hết quán cà phê nổi tiếng của Sài Gòn mà chúng tôi biết từ thuở học trò, đã biến mất cả rồi. Duy nhất quán Cheo Leo vẫn ngày ngày mở cửa, với cà phê vợt của một truyền thống gần như tuyệt tích.
Vừa qua, gặp bạn xa Sài Gòn đã nhiều năm, muốn tìm lại hình bóng cũ hương vị xưa của Sài Gòn, chúng tôi tới quán Cheo Leo, thưởng thức ly cà phê pha bằng vợt, gặp chị Nguyễn Thị Sương, chúng tôi thăm hỏi về quán cà phê kỳ cựu này.
Chị Sương là con ông Vĩnh Ngô, người lập nên quán Cheo Leo cách đây 75 năm.
“Nghe cha tui nói, thuở đó vùng Bàn Cờ này còn hoang sơ heo hút lắm, không khác chốn đèo heo hút gió, nên khi mở quán cha tui đặt tên là quán Cheo Leo.
Từ đó khách uống cà phê gọi luôn tên cha tui là ông Cheo Leo…”
Một vị khách lão niên ngưng ngụm cà phê đá, nói với chúng tôi:
“Sanh thời ông Cheo Leo điệu nghệ lắm. Ổng luôn vận quần soọc, cỡi vespa đi chợ Bến Thành mua cà phê chánh hiệu Meilleur Gout, Jean Martin mang dìa pha vợt.
Tới khi Sài Gòn đã hiếm quán cà phê pha vợt, ổng cũng không chịu pha phin, biểu pha bằng cái phin thì cà phê cũng chẳng ngon hơn chút nào, mà nỡ bỏ đi cái cách cà phê pha vợt đã quá thân thương với người Sài Gòn. Tụi tui mến ổng là vậy.”
Ông Cheo Leo mất trong năm 1993, lúc vừa tròn 75 tuổi, ngang bằng tuổi quán Cheo Leo hôm nay.
Chị Sương dẫn chúng tôi vào nơi pha chế cà phê vợt, phía trong cùng của căn nhà chật hẹp.
Cái lò nung để ủ nóng cà phê ngẫu nhiên như một kiệt tác nghệ thuật, với những dòng chảy nâu quánh kết tinh của 75 năm, không khác những dòng thạch nhũ trong hang động.
“Thuở đó cha tui đã tự làm cái lò nung này, từ cái thùng phuy chèn thêm lớp gạch pha với đường cát vàng hạt lớn.
Chánh giữa lò nung để than lửa lên có ngọn đặng đun nước sôi. Nước sôi già mới đổ vào cái siêu, thứ siêu người ta thường đun thuốc Bắc.
Cái siêu này để tấm vải lược, tức cái vợt, bỏ cà phê xay thiệt nhuyễn trong đó. Ủ kín một lúc, khi cà phê đã ra hết thì chắt nước cà phê qua cái siêu khác, đặt bên rìa lò nung đặng giữ nóng lâu, hoặc chắt liền vào ly phục vụ khách vừa tới quán.”
Chị Sương mở nắp đậy cái vại sành, đặt nơi không xa lò nung. Chúng tôi nhìn vào khối nước trong trẻo, nghe chị nói:
“Nước phông tên phải để từ 3 ngày trở lên mới dùng đun sôi đặng pha cà phê.
Cha tui biểu hồi xưa dùng nước giếng thì khác, lấy nước lên xài được liền. Tới khi nơi này phát triển dân cư, san lấp hết giếng xây dựng nhà cửa, phải dùng nước phông tên có thuốc sát trùng, nên để lắng xuống ít nhứt 3 ngày mới dùng.”
Chúng tôi tỏ ý về sự chật hẹp của quán Cheo Leo, phục vụ cà phê một ngày không được nhiều khách.
Chị Sương mỉm cười, nhỏ giọng: “Ðắp đổi qua ngày là gia đình chúng tôi mừng rồi. Khách tới uống cà phê ở quán này là bà con lối xóm không hà, ít khi có khách từ xa tìm tới như mấy chú, chẳng thể so sánh với thuở trước, thời Việt Nam Cộng Hòa đó.
Cha tui biểu thời đó quán Cheo Leo để máy ca hát rộn rã, khách ra vào quán suốt ngày. Có thời gian quán Cheo Leo mở cửa đón khách từ 4 giờ sáng tới 10 giờ đêm mới hết khách, đông nhứt là giới sinh viên học sinh và dân chơi nhạc ,bây giờ tui còn gặp lại mấy người vào quán là khách từ thuở đó, khi là học sinh trường Pétrus Ký trường Chu Văn An, nay mấy người đó đều là những ông già trên dưới sáu bảy chục tuổi.”
Tới quán Cheo Leo, chúng tôi ngùi ngùi nhớ lại một thời đã qua. Người bạn đặc biệt nhắc nhớ Sài Gòn ngày xưa, các bác tài sáng sớm chở vợ con trên xe xích lô máy, tới quán tiệm hủ tíu và cà phê bình dân. Ăn uống xong xuôi chở vợ con về, các bác tài mới bắt đầu một ngày chạy xe chở khách.
Hầu hết quán tiệm bình dân Sài Gòn thuở ấy pha cà phê bằng vợt, như quán Cheo Leo còn tồn tại đến hôm nay, giống một loài sắp tuyệt chủng, quán Cheo Leo càng làm xao lòng những khách hoài xưa, giữa vô số quán tiệm cà phê đủ kiểu hiện đại, mọc lên như nấm sau cơn mưa ở Sài Gòn.
Trai già ST
Tình cờ đọc lại bài nầy là một kỷ niệm mà tưởng như quên mất rồi.Mình có tới quán nầy và uống 1 ly càphê đậm đà thơm ngon vào khoảng 1972 khi mình là trung úy đi tuần tra với quân cảnh theo lệnh của Quân vụ thị trấn thì phải.
|
|
|
The Following 5 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-17-2020
|
#109
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Quote:
Originally Posted by wonderful
Đi tìm quán cà phê xưa nhất tại Sài Gòn
Cheo Leo là tên quán cà phê “xưa” nhất Sài Gòn, ở căn nhà số 109/36, đường Nguyễn Thiện Thuật, quận 3, khu vực này chi chít ngõ hẻm ngang dọc, nên từ lâu đã có tên gọi là khu Bàn Cờ.

Chúng tôi được biết quán Cheo Leo hình thành từ năm 1938, trước cả thời gian xảy ra Ðệ Nhị Thế Chiến, 1939-1945, tồn tại đến hôm nay, quán Cheo Leo đã hơn 75 năm tuổi; đặc biệt quán Cheo Leo vẫn pha cà phê bằng vợt, còn gọi là cà phê bít tất.
Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, khi còn là học sinh trường trung học Chu Văn An, tôi đã biết có quán cà phê Cheo Leo.
Bạn đồng lứa tuổi chúng tôi, học tại trường Chu Văn An và trường Pétrus Ký, cả hai trường đều không xa khu Bàn Cờ. Khi tập tành ngồi quán cà phê, nhiều bạn đã lui tới thường xuyên quán Cheo Leo.
Riêng tôi, theo đòi những “ông anh văn nghệ,” đã tìm tới quán có cà phê phin, để được làm dáng trầm tư, nhìn ngắm từng giọt đậm đen nhỏ từ cái phin xuống đáy ly cốc, thuở đó tuy pha cà phê bằng phin chưa phổ biến, nhưng ở khu vực Bàn Cờ đã có những quán pha cà phê bằng phin, nổi tiếng như các quán cà phê Phong, cà phê Năm Dưỡng…

Sau biến cố 30 tháng 4 1975, không còn thấy bóng dáng cà phê Phong nữa. Cà phê Năm Dưỡng còn tiếp tục, nhưng cách đây mấy năm đã trở thành nhà nghỉ khách sạn.
Hầu hết quán cà phê nổi tiếng của Sài Gòn mà chúng tôi biết từ thuở học trò, đã biến mất cả rồi. Duy nhất quán Cheo Leo vẫn ngày ngày mở cửa, với cà phê vợt của một truyền thống gần như tuyệt tích.
Vừa qua, gặp bạn xa Sài Gòn đã nhiều năm, muốn tìm lại hình bóng cũ hương vị xưa của Sài Gòn, chúng tôi tới quán Cheo Leo, thưởng thức ly cà phê pha bằng vợt, gặp chị Nguyễn Thị Sương, chúng tôi thăm hỏi về quán cà phê kỳ cựu này.
Chị Sương là con ông Vĩnh Ngô, người lập nên quán Cheo Leo cách đây 75 năm.
“Nghe cha tui nói, thuở đó vùng Bàn Cờ này còn hoang sơ heo hút lắm, không khác chốn đèo heo hút gió, nên khi mở quán cha tui đặt tên là quán Cheo Leo.
Từ đó khách uống cà phê gọi luôn tên cha tui là ông Cheo Leo…”
Một vị khách lão niên ngưng ngụm cà phê đá, nói với chúng tôi:
“Sanh thời ông Cheo Leo điệu nghệ lắm. Ổng luôn vận quần soọc, cỡi vespa đi chợ Bến Thành mua cà phê chánh hiệu Meilleur Gout, Jean Martin mang dìa pha vợt.
Tới khi Sài Gòn đã hiếm quán cà phê pha vợt, ổng cũng không chịu pha phin, biểu pha bằng cái phin thì cà phê cũng chẳng ngon hơn chút nào, mà nỡ bỏ đi cái cách cà phê pha vợt đã quá thân thương với người Sài Gòn. Tụi tui mến ổng là vậy.”
Ông Cheo Leo mất trong năm 1993, lúc vừa tròn 75 tuổi, ngang bằng tuổi quán Cheo Leo hôm nay.
Chị Sương dẫn chúng tôi vào nơi pha chế cà phê vợt, phía trong cùng của căn nhà chật hẹp.
Cái lò nung để ủ nóng cà phê ngẫu nhiên như một kiệt tác nghệ thuật, với những dòng chảy nâu quánh kết tinh của 75 năm, không khác những dòng thạch nhũ trong hang động.
“Thuở đó cha tui đã tự làm cái lò nung này, từ cái thùng phuy chèn thêm lớp gạch pha với đường cát vàng hạt lớn.
Chánh giữa lò nung để than lửa lên có ngọn đặng đun nước sôi. Nước sôi già mới đổ vào cái siêu, thứ siêu người ta thường đun thuốc Bắc.
Cái siêu này để tấm vải lược, tức cái vợt, bỏ cà phê xay thiệt nhuyễn trong đó. Ủ kín một lúc, khi cà phê đã ra hết thì chắt nước cà phê qua cái siêu khác, đặt bên rìa lò nung đặng giữ nóng lâu, hoặc chắt liền vào ly phục vụ khách vừa tới quán.”
Chị Sương mở nắp đậy cái vại sành, đặt nơi không xa lò nung. Chúng tôi nhìn vào khối nước trong trẻo, nghe chị nói:
“Nước phông tên phải để từ 3 ngày trở lên mới dùng đun sôi đặng pha cà phê.
Cha tui biểu hồi xưa dùng nước giếng thì khác, lấy nước lên xài được liền. Tới khi nơi này phát triển dân cư, san lấp hết giếng xây dựng nhà cửa, phải dùng nước phông tên có thuốc sát trùng, nên để lắng xuống ít nhứt 3 ngày mới dùng.”
Chúng tôi tỏ ý về sự chật hẹp của quán Cheo Leo, phục vụ cà phê một ngày không được nhiều khách.
Chị Sương mỉm cười, nhỏ giọng: “Ðắp đổi qua ngày là gia đình chúng tôi mừng rồi. Khách tới uống cà phê ở quán này là bà con lối xóm không hà, ít khi có khách từ xa tìm tới như mấy chú, chẳng thể so sánh với thuở trước, thời Việt Nam Cộng Hòa đó.
Cha tui biểu thời đó quán Cheo Leo để máy ca hát rộn rã, khách ra vào quán suốt ngày. Có thời gian quán Cheo Leo mở cửa đón khách từ 4 giờ sáng tới 10 giờ đêm mới hết khách, đông nhứt là giới sinh viên học sinh và dân chơi nhạc ,bây giờ tui còn gặp lại mấy người vào quán là khách từ thuở đó, khi là học sinh trường Pétrus Ký trường Chu Văn An, nay mấy người đó đều là những ông già trên dưới sáu bảy chục tuổi.”
Tới quán Cheo Leo, chúng tôi ngùi ngùi nhớ lại một thời đã qua. Người bạn đặc biệt nhắc nhớ Sài Gòn ngày xưa, các bác tài sáng sớm chở vợ con trên xe xích lô máy, tới quán tiệm hủ tíu và cà phê bình dân. Ăn uống xong xuôi chở vợ con về, các bác tài mới bắt đầu một ngày chạy xe chở khách.
Hầu hết quán tiệm bình dân Sài Gòn thuở ấy pha cà phê bằng vợt, như quán Cheo Leo còn tồn tại đến hôm nay, giống một loài sắp tuyệt chủng, quán Cheo Leo càng làm xao lòng những khách hoài xưa, giữa vô số quán tiệm cà phê đủ kiểu hiện đại, mọc lên như nấm sau cơn mưa ở Sài Gòn.
Trai già ST
Tình cờ đọc lại bài nầy là một kỷ niệm mà tưởng như quên mất rồi.Mình có tới quán nầy và uống 1 ly càphê đậm đà thơm ngon vào khoảng 1972 khi mình là trung úy đi tuần tra với quân cảnh theo lệnh của Quân vụ thị trấn thì phải.
|
 :handshake : 
Bài hay quá gợi nhớ Sài gòn một thuở...ly cà phe xây chừng
|
|
|
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
06-17-2020
|
#110
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Chồng Già Vợ Trẻ
Tôi vừa bước chân vào nhà, chồng tôi đã gọi:
– Em ơi, cạo gíó cho anh…
– Lại cảm rồi hả? Gớm, gió đầu Đông cảm, gíó cuối Đông cũng cảm. Mà lại cảm ngay vào ngày Valentine, ngày mùa tình yêu, người ta tưng bừng hẹn hò hay đi chơi, còn anh thì ngồi đây ăn vạ.
– Đầu hay cuối gì cũng là gió lạnh cả.
Tôi ngao ngán:
– Anh thì dị ứng với cả bốn mùa, giữa mùa hè trời bỗng dưng đổ cơn mưa anh cũng ngây ngây người khó chịu, mùa Xuân anh không chịu nổi phấn hoa tha hồ sổ mũi hắt hơi, còn mùa Thu gió chuyển mùa hiu hiu, trong khi em muốn được đi theo gío đến tận chân mây cuối trời thì anh đã cảm vì lạnh, phải uống vài viên thuốc Tylenol và nằm nhà đắp chăn để ngủ, mặc cho mùa Thu mơ màng ngoài khung cửa.
– Thì anh khác, em khác. Anh đã 60 tuổi rồi còn gì! Mà em thì mới 40, cái tuổi nồng nàn và rực rỡ.
– Em muốn lấy chồng lớn tuổi để nép bóng tùng quân, để mãi mãi là người tình bé bỏng được nuông chiều, hóa ra em lại là người phải chiều anh và hầu anh đủ thứ.
Tôi nhìn anh đang ngồi trong ghế như đã chờ đợi tôi từ nãy giờ, mặc áo len dày, chân đi vớ, đầu còn đội cả mũ len nữa. Càng thêm ngao ngán:
– Trông anh lù đù như ông già trong nursing home ấy, trong nhà chứ có phải ngoài sân hay ngoài cánh đồng lộng gió đâu mà anh trang bị quần áo, mũ và vớ kỹ thế?
– Biết thế, nhưng thà thừa hơi ấm còn hơn là một chút lạnh vào người.
Tôi ra lệnh:
– Thôi đủ rồi, anh chuẩn bị cởi đống quần áo len, áo khóac tổng cộng mười mấy pound của anh ra để em cạo gió. Từ ngày lấy anh em bỗng trở thành người đàn bà cạo gió thành thạo, tay nghề cao dần theo năm tháng.
Ông chồng tôi lê dép đứng lên đi lấy chai dầu gió xanh và dụng cụ cạo gió. Kể cũng lạ, mỗi lần cảm lạnh hay nhức mỏi hai vai và lưng, chỉ cần cạo gió cho người nóng ran lên anh thấy đỡ ngay.
Vừa ngửi mùi dầu xanh vừa cạo gió trên tấm lưng gầy của chồng, trong căn phòng này dường như chỉ là tuổi già và đau ốm.
Trong khi cuộc sống bên ngoài luôn sống động xôn xao, lúc nãy tôi có ghé vào chợ đã thấy cửa hàng bán hoa tấp nập khách mua.
Tôi đã dừng chân ngắm nhìn cái điều có lẽ chẳng còn đến với tôi nữa trong ngày Valentine, những bó hoa, những bình hoa đủ loại, đủ màu, bên cạnh những qủa bóng hình trái tim cột dây bay lơ lửng đang chờ được mua và trao tặng.
Ngày tôi 20 tuổi, đời tôi là cả một rừng hoa mênh mông chứ chẳng phải một chợ hoa hạn hẹp. Tâm hồn tôi là cả triệu quả bóng bay lơ lửng giữa trời xanh, chứ chẳng phải chỉ vài qủa bóng kia.
Còn anh, là một người đàn ông từng trải vừa đúng 40, khỏe mạnh, đẹp trai, và tình tứ, anh làm con bé tôi chết mê chết mệt, yêu anh chớp nhoáng và lấy anh vội vàng.
Mỗi mùa Valentine anh đều âu yếm mua hoa về tặng vợ, mối tình nồng ấm kéo dài được vài năm thì dấu hiệu tuổi gìa của anh xuất hiện, 45 tuổi tóc anh đã bạc khá nhiều, anh phải nhuộm cho khỏi chênh lệch với cô vợ trẻ, đến nay thì đầu anh đã hói, chỉ còn một nhúm tóc lưa thưa như rừng chưa thay lá.
Không biết có phải vì tuổi già làm anh mệt mỏi hết hứng thú yêu đời hay vì cuộc sống vợ chồng lâu ngày thành cũ, nên anh “cúp” luôn chuyện mua hoa tặng vợ ngày Lễ Tình Yêu, mà tôi cũng chẳng náo nức chờ mong như ngày xưa nữa.
Tôi đang say sưa cạo gió, bỗng anh rướn người lên và kêu thống thiết:
– Trời ơi, em cạo kiểu gì mà đau quá vậy?
– Hình như… em quên chưa bôi dầu xanh chỗ này…
Anh hỏi tội tôi:
– Em chưa già mà lơ đãng và xớn xác thế! Chưa bôi dầu mà cạo thì ai chịu nổi!
Tôi chanh chua:
– Em già trước tuổi để bằng anh, tuổi già của anh như một loại vi khuẩn lây lan sang cả đời em. Anh biết chưa?
Anh nhăn mặt:
– Sao em lắm lời thế? Ngày xưa em ngây thơ hiền dịu bao nhiêu bây giờ em chanh chua đỏng đảnh bấy nhiêu. Nếu như được làm lại từ đầu thì…
Tôi gắt gỏng:
– Thì anh sẽ làm gì? Anh chê tôi chanh chua, anh sẽ không cưới tôi chứ gì?
– Thì… anh vẫn yêu em và cưới em, xưa yêu em hiền dịu, nay yêu em cả những chanh chua, cả khi đỏng đảnh.
– Thôi đừng có nịnh nọt. Còn anh, chàng hào hoa ngày xưa của em đã thay thế bằng một ông già dở hơi rồi đấy.
Không dám than đau nữa, anh hỏi sang chuyện khác:
– Nãy em đi đâu mà lâu thế?
– Đi đủ thứ, nhà băng này, ghé chợ này, và… nhân thể em ghé vào văn phòng bác sĩ thẩm mỹ hỏi thăm để cắt mí mắt, vì mắt em hơi bị sụp mí rồi.
Tấm lưng anh lại rướn lên, lần này để phản kháng:
– Thôi em ạ, vốn dĩ em đã trẻ hơn anh nhiều, mà lại sửa sắc đẹp thì càng trẻ hơn nữa, coi sao được?
– Biết làm sao bây giờ? chuyện em sửa sắc đẹp chẳng vì anh bao nhiêu tuổi cả, mà vì em thích.
Tôi than thở:
– Nếu anh không qúa già, hay nói một cách khác nếu anh còn trẻ độ tuổi như em, thì giờ này anh không thể nằm đây bắt em cạo gió, mà đã ra tiệm chọn hoa tặng em và chiều nay sẽ mời em đi nhà hàng để làm ấm lại tình vợ chồng đã nhạt phai vì thời gian, vì bận rộn của cuộc đời.
Em có bao nhiêu quần aó, giày dép thời trang để diện, có son phấn để điểm trang mà mấy khi dùng đến?
– Tình yêu là ở trong lòng, cái màn tặng hoa, tặng qùa Valentine chỉ là hình thức phù phiếm, làm lợi cho giới kinh doanh.
Năm nay kinh tế khó khăn, thất nghiệp lan tràn, càng giản tiện, tiết kiệm càng tốt, ở California có ông bị thất nghiệp đã giết chết vợ con và tự tử theo.
Tình yêu đã cũ, hâm đi hâm lại như nồi nước phở cũng chẳng làm ngon thêm tí nào.
– Còn hơn là không hâm sẽ bị… thiu, sẽ tệ hại hơn nữa.
Anh vừa nói vừa thở vì vẫn còn đau mỗi khi tôi mạnh tay:
– Anh có muốn thế này đâu. Thật dại khờ khi người ta lấy nhau bất kể tuổi tác. Mà tại sao ngày ấy em cứ xông vào đời anh, đòi lấy anh trước khi anh ngỏ lời cưới em?
– Đấy là lãng mạn một cách bốc đồng. Tại cuốn truyện “Tình Nghĩa Vợ Chồng” của Leon Tolstoi do Bảo Sơn dịch, cô Mai tuổi mới lớn đã yêu chú Sách, người đàn ông hơn cô rất nhiều tuổi và là bạn của cha cô, và chú Sách thì tử tế bao dung tuyệt vời làm ảnh hưởng đến em.
Lại thêm bản nhạc nào đó của ông Y Vân với những câu “Năm anh 20 em mới sinh ra đời, năm anh 40 em mới vừa 20…” thật sống động và lãng mạn.
Cả hai thứ cộng lại làm hồi đó em chỉ mơ lấy một anh chồng già, đến nỗi mấy thằng cùng trang lứa tán em, em coi chúng như hàng ranh con không hề đếm xỉa đến.
– Còn anh háo thắng một cách bốc đồng! Vì anh không mãi mãi là thằng đàn ông 40 sung sức để yêu em, để mỗi lần em giận dỗi anh làm huề bế xốc em lên và ôm gọn trong vòng tay mình, ngược lại bây giờ một cú vung tay vùng vằng hờn dỗi của em cũng làm anh loạng quạng suýt ngã.
Thà anh lấy một người vợ ngang vai phải lứa, cả hai cùng già, cùng nay ốm mai đau, cuộc sống thoải mái biết bao! Bà ấy cạo gió cho anh, anh cạo gió cho bà ấy, chẳng có gì để phàn nàn cả.
– Nhưng sao anh già nhanh thế? người ta 70 còn cưới vợ, mà anh thì mới 60 đã ốm yếu ho hen thế này?
– Thì sức khỏe mỗi người mỗi khác. Mẹ anh kể ngày còn bé anh đau ốm quặt quẹo, vừa chữa bệnh bằng Tây y lẫn Đông y vừa cúng bái chùa chiền tứ phương anh mới lớn nổi.
Tôi lên giọng kể lể:
– Tuy nhỏ tuổi hơn anh mà đôi lúc em như bà chị hai của anh, hay như một người mẹ chăm sóc đứa con thơ ấy.
– Phải nói rõ ra là như một bà chị hắc ám hay người mẹ… ghẻ em nhé, vì em hay gắt gỏng, mắng mỏ và hà hiếp anh lắm đấy.
– Vì anh lẩm cẩm quá ai mà chịu nổi? Lúc nào cũng than đau mình nhức mẩy và đòi cạo gió. Thôi xong rồi, anh nằm nghỉ đi cho khỏe để em đi nấu cơm.
Tôi kê gối, đắp chăn cho anh nằm êm ấm xong thì có tiếng chuông cửa reo. Người ta đến giao phát một bình hoa tươi làm tôi ngỡ ngàng cứ tưởng có sự lầm lẫn gì chăng?
Nhưng đúng địa chỉ nhà này và tên người nhận là… con gái tôi, chứ không phải tôi. Con gái đã 19 tuổi rồi, vậy mà dưới mắt tôi nó vẫn chỉ là một đứa trẻ con. Thì ra đã có anh chàng nào để ý đến nó rồi.
Tôi thận trọng mang bình hoa để lên bàn và ngắm nghía, bình hoa bằng thủy tinh trong suốt, thắt nơ bằng sợi dây màu hồng, trong cắm đầy hoa Hồng, điểm tô bằng những cánh hoa cúc trắng nhỏ lấm tấm với những cành lá dương xỉ xanh tươi..
Lòng tôi bỗng rộn ràng ấm áp, sống lại những phút giây xa xưa.
Chồng tôi cũng tò mò từ trong phòng bước ra:
– Hoa của ai đấy em?
Tôi ra khỏi giấc mơ:
– Còn ai vào đâu nữa, ngoài con gái mình? Không lẽ ai đó tặng hoa cho em, một mụ đàn bà 40 có chồng lù lù bên cạnh?
– Nhưng sao mặt em bâng khuâng thế kia?
– Em chạnh lòng nhớ thuở mới yêu anh, nhưng phút giây ngắn ngủi ấy qua rồi.
Thực tế, em đang bực mình đây, con gái mình không thể quan hệ tình cảm yêu đương làm ảnh hưởng đến việc học hành của nó trong lúc này.
Chồng tôi bênh con gái:
– Em chỉ hơn nó 1 tuổi mà ngày xưa đã yêu anh thế nào? Lãng mạn đến thế nào?
Em đã nói rằng nếu không lấy được anh thì tất cả đàn ông trên cõi đời này đều vô duyên, đều là những tượng đá không linh hồn.
– Thì đã nói ngày ấy em bốc đồng mà, nên phải rút kinh nghiệm cho con mình.
– Trái lại, em không bốc đồng mà còn tỉnh táo và thông minh để chép những bài thơ tình rất hay trên báo tặng cho anh. Em đã từng bỏ học để đi chơi với anh. Còn con mình vẫn đi học nghiêm chỉnh và tử tế hơn em nhiều.
Tôi vùng vằng:
– Anh đánh gía tình yêu của em xuống cấp như thời buổi kinh tế khó khăn mọi thứ đều hạ giá hả?
Con gái chúng tôi về đến, chấm dứt sự cãi cọ thường ngày như cơm bữa của cha mẹ:
– Bình hoa này là quà tặng Valentine của con, một người bạn trai yêu con và con cũng yêu anh ấy. Chiều nay chúng con có hẹn.
Tôi lo xa:
– Chúng con yêu nhau thì được, nhưng chớ có đòi cưới nhau sớm nhé? Phải lo học hành thành tài đã.
– Chuyện cưới nhau còn lâu mẹ ạ, phải tìm hiểu tính tình nhau nữa chứ. Ngày xưa bố mẹ có tìm hiểu nhau trước khi cưới không?
– Không! Chồng tôi đáp.
Tôi khẳng định thêm:
– Mẹ cũng không! Trăm lần không, ngàn lần không!
– Hèn gì bố mẹ xung khắc nhau, hay cãi cọ quá, vậy mà bố mẹ nói lấy nhau vì tình yêu.
– Đúng là vì tình yêu con ạ, một tình yêu chớp nhoáng như một tia sấm sét lóe lên ngắn ngủi trong một đêm mưa gió u mê.
Con tôi an ủi:
– Nhưng tình yêu nào chẳng phai nhạt theo thời gian, lâu hay mau mà thôi, có lẽ chúng ta phải biết chấp nhận điều đó.
Chuyện tình Romeo và Juliet cũng thế, cả hai đều chết sớm, nếu lấy nhau thì chắc gì có thiên tình sử cho chúng ta đọc.
Con gái chúng tôi ở lứa tuổi đôi mươi là hình ảnh tôi ngày xưa, nhưng suy luận chín chắn hơn tôi nhiều.
Tôi nói với chồng trước khi lăn vào bếp để nấu nướng:
– Anh nằm yên đừng kêu réo gì em để em yên trí làm món thịt bò steak nhé. Thay vì mình đi nhà hàng như người ta trong ngày Lễ Tình Yêu thì ăn tại nhà vậy.
Chồng tôi kêu lên:
– Thôi, thôi, anh mệt lắm, sức đâu mà nuốt món bò steak của em, chắc sẽ dai như đỉa đói hay dai dẳng như những lần em cãi nhau với anh và không chịu ngừng nghỉ.
– Anh đừng bi quan hóa vấn đề sẽ làm anh nhanh suy sụp và già thêm đấy. Em sẽ nấu theo sách vở, sẽ ngon lành…
– Hai mươi năm qua không lẽ hôm nay em sẽ giỏi nấu nướng bất ngờ?
– Cứ coi như thế đi, cũng phải cho em cơ hội chứ. Hai chúng mình sẽ ăn bữa chiều nay với món bò steak và uống chút rượu cho ấm lòng và ấm tình anh nhé.
Anh vẫn cương quyết chối từ:
– Thú thật anh chỉ thèm… một tô cháo trắng nóng hổi ăn với thịt chà bông, có lẽ sẽ nhẹ nhàng và khỏe người hơn, và cũng dễ nấu cho em hơn là món bò steak.
Tôi thất vọng thở dài:
– Muốn ăn với anh một bữa chiều ấm cúng cũng không được, con gái thì hẹn hò đi ăn ngoài, chỉ còn hai vợ chồng mà hai khung trời khác biệt, chẳng lẽ anh ngồi húp cháo mà em ăn steak thì vui với ai?
– Thì em cùng ăn cháo với anh cho vui, nhân thể diệt luôn.
Tôi chán nản dẹp bỏ bịch thịt bò trở vào ngăn tủ lạnh. Vừa lúc đó con gái tôi đã trang điểm xong đi ra ngoài, con tôi thật đẹp với đôi mắt long lanh, nụ cười rạng rỡ và mái tóc mượt mà đong đưa.
– Mẹ ơi, con đi đây … Chúc bố mẹ ở nhà bình thường, đừng cãi nhau nữa nhé.
Ngày Lễ Tình Yêu, mùa của những tình yêu đã cũ, đã phai nhạt, trong đó có vợ chồng tôi.
Nhưng vẫn là mùa tình yêu bắt đầu, mới tinh khôi cho bao nhiêu người khác, ở mọi lứa tuổi, đến với nhau bằng nhịp đập của con tim, trong đó có con gái tôi.
Tôi thẫn thờ nhìn con gái đi ra cửa, chợt tôi vội gọi lại, hoảng hốt lo âu:
– Con ơi, con sẽ đi hẹn với người yêu của con, mối tình đầu của con, phải không?
– Vâng, con đã vừa nói với mẹ rồi, chúng con sẽ hoàn toàn trong sáng và nghiêm chỉnh.
– Mẹ biết điều ấy rồi, vấn đề mẹ chưa biết và muốn hỏi con bây giờ là người yêu của con bao nhiêu tuổi?? Bao nhiêu tuổi? Bao nhiêu tuổi??
– Sao mẹ hỏi dồn dập và kinh hoàng thế? Anh ấy hơn con 3 tuổi.
Tôi thở phào nhẹ nhỏm:
– May quá, mẹ chỉ sợ con cũng lãng mạn như mẹ ngày xưa mà yêu và lấy chồng già thì khổ vào thân.
Thôi con đi chơi vui vẻ nhé, còn mẹ đi nấu nồi cháo trắng và ăn với bố con cho hết buổi chiều nay.
Nguyễn Thị Thanh Dương
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-18-2020
|
#111
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Nhớ lại Saigon Xưa.
Ở Thủ Đô Sài Gòn chúng ta trước 1975, truyện ngắn, truyện dài thường có thể đọc trên báo hàng ngày (nhật trình) hay đến tiệm sách dù đọc chùa, đi mướn hay mua về, phần đông là những chuyện dài tình cảm, lâm ly bi đát của các bà Tùng Long, Lan Phương...
Vài nhà văn mà đương sự còn nhớ là Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Hồ Trường An, Bình Nguyên Lộc, Chu Tử, Hoàng Hải Thủy...
Vài tác giả chuyên sáng tác chuyện miền Tây như An Khê, Lê Xuyên qua các tác phẩm Gừng Cay Muối Mặn, Loan Máu Biển Hồ, Vợ Thày Hương..
Giới trẻ thời đó rất thích đọc chuyện tình yêu của Dung Saigon và Võ Hà Anh. Đối với các em thiếu nhi thì ngoài loạt truyện khá nhảm nhí từ các truyện của Tàu, của Hồng Kông như truyện Chú Thoòng... còn có nhiều truyện Tuổi Hoa.
Có thể nói ngày nay lớo độc giả miền Nam chúng ta yêu thích tủ sách này, nay đã bước sang tuổi 50, 60 và 70 nhưng vẫn còn nhớ những cái tựa gợi cảm, mang đầy âm hưởng gây háo hức.
Đó là Mật lệnh U đỏ, Chiếc lá thuộc bài, Khúc Nam Ai, Thiên Hương, Lữ quán giết người... và tên những tác giả Hoàng Đăng Cấp, Minh Quân, Bích Thủy, Kim Hài, Thùy An, Nguyễn Thái Hải... Khi tình cờ thấy lại được một cuốn sách cũ của tủ sách này, tất cả kỷ niệm đẹp đẽ như ùa về, cái thuở trong sáng đầy mơ ước hướng thiện.
Nhà xuất bản Tuổi Hoa với tủ sách Tuổi Hoa, chủ biên là ông Nguyễn Trường Sơn khai sinh, nuôi dưỡng và phát triển tủ sách này. Bước ban đầu, tủ sách này in vài quyển, “hình thức cố cho sạch sẽ, nội dung là để giải trí lành mạnh, các em tuổi 14 đến 16” (trả lời phỏng vấn của báo Bách Khoa).
Lúc đầu là sách của nhà văn Nguyễn Trường Sơn, cuốn Con tàu bí mật và sách của vài người bạn thân. Sau khi in được tám quyển đầu, tủ sách nhận được nhiều thư của các bậc phụ huynh khích lệ và được các độc giả nhỏ tuổi rất thích. Đến năm 1962, bán nguyệt san Tuổi Hoa được phép phát hành và sau đó Tủ sách Tuổi Hoa ra đời, tuy nhiên, lúc đầu tủ sách chỉ đủ sức cho ra rải rác một số quyển.
Theo nhà văn Nguyễn Trường Sơn trả lời trên báo Bách Khoa, đến năm 1966 - 1967, được sự hỗ trợ và khuyến khích của nhà văn Minh Quân, tủ sách ra sách đều đặn hơn, trung bình mỗi tháng một cuốn. Lúc đầu, mỗi cuốn in 3.000 bản bán không hết, sau in tới 5.000 bản/cuốn và bán ngon lành. Giá bán từ 30 đồng, cao nhất là 60 đồng. Nhiều người lấy làm lạ vì số trang nhiều, in đẹp, bìa offsette tươi rói mà sao bán giá rẻ vậy. Tuy vậy, người hưởng lợi nhiều nhất là nhà phát hành hưởng chiết khấu tới 45%, không khác chi hiện nay.
Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Hoa Đỏ là loại sách trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình cảm giữa nam nữ một cách trong sáng dành cho tuổi từ 16 đến 18. Biểu trưng của tủ sách là bông hoa tám cánh do họa sĩ Vi Vi vẽ.
Nhà văn Nguyễn Trường Sơn tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương, nên rất chú ý đến tính mỹ thuật của các ấn bản. Với “bút lực” của họa sĩ Vi Vi ngày càng phát triển, bìa các cuốn sách Tuổi Hoa ngày càng đẹp rực rỡ. Về nội dung, có sự hỗ trợ rất lớn của nhà văn Minh Quân từ việc quan trọng nhất là khai thác bản thảo, như giới thiệu nhà văn Nguyễn Hiến Lê viết cho tủ sách này (cuốn Bí mật dầu lửa) và mời một nhà phê bình kiếm hiệp viết truyện kiếm hiệp để “đả” loại kiếm hiệp hoang đường đang hoành hành lúc đó.
Lúc đầu, Tủ sách Tuổi Hoa có một số cuốn được viết theo dạng “phóng tác”, tức là dựa vào một cuốn tiểu thuyết nước ngoài và Việt hóa từ nhân vật cho đến bối cảnh trong truyện (Phải chăng đó là cách thức để hình thành những bản thảo khi đội ngũ viết cho tủ sách ban đầu hầu như không phải là nhà văn chuyên nghiệp?).
Ví dụ như truyện Thiên Hương phỏng theo truyện Tombée du Ciel của Henry Winterfell, truyện Pho tượng rồng vàng phóng tác theo một truyện trinh thám của nước ngoài.
Xin hết.
Thằng con trai 2020.
|
|
|
The Following 6 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-18-2020
|
#112
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Tủ sách Tuổi hoa "Còn dấu chân người" Chương 7-8
Chương 07
Cát Tường bước lên thềm nhà nguyện, đứng ở đó một tí. Trời nắng gắt. Buổi trưa êm ả như muốn bảo mọi vật ngủ đi. Nắng giữa trưa đứng bóng. Cát Tường bâng khuâng nhìn cái bóng nhỏ xíu của mình in trên nền gạch đã loang lở. Không một ý nghĩ nào được bắt đầu. Mà chỉ thấy trong trí một sự trống rỗng – một sự trống rỗng lạ kỳ.
Cát Tường ngồi xuống đó. Tự nhiên nhìn xuống tay, nhìn xuống chân. Bàn tay làm việc với vườn rẫy qua nhiều tháng nhiều năm, dù chưa khô cứng nhưng có nhiều vết buồn bã. Bàn chân chưa quen bước lên xe, đã quên đường đến trường, trông tội nghiệp làm sao! Và áo quần màu nâu, màu đen, màu xám! Ta chưa có vải hoa. Các bé chưa có vải hoa… Ở đây sáng sớm thấy mặt trời lên từ nóc nhà nguyện, chiều thấy bóng tối tràn đến từ rừng xa. Chưa có gì khuấy động, và cũng chẳng có gì để làm náo nhiệt hơn.
Tự nhiên ký ức bùng dậy. Mới đầu, như một tiếng thở dài của người vừa bừng tỉnh giấc ngủ. Rồi cuồn cuộn dâng lên, nức nở như tiếng than van. Chiều nào đó trên sân nhà vắng bóng, ta khóc như chưa hề được khóc. Sáng nào đó trong sân viện cô nhi đông đảo những khuôn mặt nhỏ bé tội nghiệp, ta mở miệng cười như cười nụ đầu tiên. Cười vì xung quanh mình là nai, là chim, mà mình thì lớn quá! Tất cả gọi mình bằng chị. Chị cả! Chị dạy chúng em hát đi! Anh Khánh chẳng biết hát gì hết trơn, có mỗi bài “Em có nuôi một con chó” hát hoài. Mà Cha đâu có nuôi chó. Chúng em ăn cơm còn chưa đủ nữa là! Ha ha, hi hi… Nai với chim cười đùa thật tẻ nhạt, cười đùa như cho quên thân phận. Không được, các em! Đứng thành vòng tròn xung quanh chị đi! Nắm tay nhau, như chim giăng cánh che hết trời. Chị dạy cho mà hát. Không hát bài con chó, con mèo nữa. Nhạc đó không dành cho chúng ta. Lời hát không chép trên giấy. Bài hát chưa có nốt nhạc. Chị nghĩ bằng trí tưởng tượng. Chị viết từ con tim. Nào hát nhé! “Em thương cha em lắm, người cha tóc trắng. Cha em như ánh nắng chiếu ấm đời em. Cha mặc áo màu đen, nhưng tim cha sáng như ánh đèn…”. Mấy chục cái miệng mở ra, mà lời hát như bắt đầu từ trong phổi, trong tim. Cha Đạo đứng trên thềm, bước xuống, vuốt tóc Cát Tường. Đôi mắt Cha xúc động. Con giỏi lắm! Con hiền ngoan lắm! Con có muốn ở lại đây không? Cha chưa bao giờ nhận trẻ lớn như con, vì Cha sợ không đủ phương tiện dạy dỗ. Nhưng con là trường hợp đặc biệt. Con sẽ giúp Cha chăn dắt đàn trẻ này nhé! Con tên gì? Dạ, Cát Tường. Con ở lại đây nhé! Không trả lời được, nước mắt ứa ra. Ta xấu hổ với đàn bé, mà cũng thương cho chính ta nữa. Mấy mươi đôi mắt khờ dại nhìn ta. Chị ở đây đi! Dạy cho em học, dạy cho em hát, nhé chị!...
Cha Đạo đứng trên thềm, bước xuống. Nhưng Cha không vuốt tóc Cát Tường như năm xưa. Cha ngạc nhiên khi thấy đứa con cả của Cha ngồi một mình, để nắng chiếu đầy tóc, đầy lưng.
- Kìa, Cát Tường! Con qua tìm Cha à?
Cát Tường giật mình quay lại, rồi đứng dậy, nói:
- Thưa Cha, không… Nhưng…
- Không, sao con ngồi đây?
Cát Tường ấp úng:
- Nhưng…, thưa Cha, anh Trúc…
- Có chuyện gì vậy con?
- Dạ… sáng nay anh Trúc bảo là anh ấy muốn ra đường lớn một mình.
- Để làm gì?
- Thưa Cha, anh ấy muốn ra đón xe để lên tỉnh trình diện vì quá mười lăm ngày thì đơn vị sẽ thông báo là anh ấy mất tích. Như thế ở Sài Gòn gia đình anh ấy sẽ lo lắng, anh ấy không muốn thế.
Đôi mày trắng của Cha Đạo nhíu lại. Cha nói:
- Ồ! Nhưng Cha ngại quá! Đường sá hình như bị chận ở khúc nào đó, thì làm gì có xe cho Trúc đi. Con thấy không, cả ông Năm cũng chưa về nữa mà!
- Con có nói với anh Trúc như vậy, nhưng anh ấy không yên, cứ lo lắng hoài.
- Vả lại, Trúc đã lưu lạc đến đây, cha con ta đã săn sóc cho Trúc lành lặn, bây giờ để anh ta đi một mình sao đành? Mà chúng ta thì đâu có ai rời khỏi làng được. Con cứ nói với Trúc là hãy đợi vài hôm nữa, ông Năm thế nào cũng về. Cha sẽ nhờ ông Năm đưa Trúc ra tỉnh ngay.
- Dạ.
- Đêm nào Cha cũng nghe tiếng súng, ở xa xa đâu đó. Cha đoán là phía cầu. Chắc vì thế mà cầu bị chận, ông Năm về không được.
Cát Tường nhè nhẹ thở dài. Sự lo sợ đã bắt đầu từ hôm có hai người đàn ông lạ vào nhà nguyện, từ hôm có tiếng súng vang vọng giữa đêm. Nếu vì có giao tranh trên đường đi , hoặc vì sập cầu, hoặc vì một lý do nào khác mà ông Năm không về được, thì chỉ một tuần nữa thôi, Cha Đạo và các con của Cha sẽ phải nhịn cơm. Gạo đã sắp hết. Không những chỉ một vấn đề đó, mà còn nhiều chuyện nữa. Thuốc men cũng thiếu thốn. Hôm nào đưa Trúc về làng, Cát Tường đã phải hy sinh miếng vải mịn định may khăn tay để thay bông gòn rửa vết thương cho Trúc. Các bé nhỏ lại đang chờ có vải hoa để may áo đẹp. Cát Tường cũng chờ có thêm nhiều sách truyện để kể cho các bé nghe. Quá nhiều việc chờ ông Năm về giải quyết, kể cả việc đưa Trúc ra tỉnh để chờ về đơn vị nữa. Nhưng lại cũng điều ấy làm Cát Tường thấy nao nao, bồi hồi kỳ lạ. Mai mốt ông Năm về, chở anh Trúc đi xa, đi luôn. Làm sao biết có ngày gặp lại? Vì mây bao giờ cũng ở trên trời, nếu có rơi xuống thì đã là mưa lũ. Mà anh Trúc là mây. Cát Tường nghĩ quanh quẩn như thế rồi lấy làm buồn bã lắm, nên dù lo lắng sao ông Năm chưa về nhưng cứ như là mong ông Năm khoan về. Cầu hãy bị chận thêm vài ngày. Đường hãy bị kẹt thêm vài ngày.Để anh ấy còn trú ngụ ở đây, sáng xuống rẫy cùng đào khoai, trồng củ mì; trưa thăm luống cải đã che xanh cả khoảng đất; chiều thơ thẩn trước nhà nguyện hay vào đó tĩnh tâm trước mặt Chúa; tối sang phòng học cùng Cát Tường dạy cho các bé. Ở đâu có dấu chân của Trúc, ở đó Cát Tường thấy có sự vui tươi. Cái bóng dáng của Trúc là biểu hiệu cho sự an ổn , vững mạnh. Tại sao người đến, rồi chờ ngày ra đi? Sao người không là mưa mà lại làm mây? Người có biết, ngoài những lúc cùng sinh hoạt vui vẻ, còn lại là những giờ phút dành cho Cát Tường nghĩ ngợi, khắc khoải? Một thứ lo âu nào thật mơ hồ. Một thứ buồn bã nào vồ chụp lấy Cát Tường, mỗi đêm, khiến đôi mắt Cát Tường mỗi sáng soi gương thấy có vết thâm quầng.
- Cát Tường, con có điều gì buồn chăng?
Cha Đạo hỏi làm Cát Tường ngỡ ngàng, vội nói để Cha đừng nghi ngờ:
- Thưa Cha không. Con chỉ qua đây … muốn để thưa với Cha việc đó.
- Cha thấy con có vẻ khác lạ. Có việc gì làm con khó nghĩ không?
- Dạ không thưa Cha. Con vẫn như thường.
Nhưng Cha Đạo vẫn áy náy:
- Nếu con có mệt mỏi, con hãy nghỉ ngơi đi, giao cho Khánh làm bớt. Cha thấy lúc này con làm việc nhiều lắm đó!
- Thưa Cha, con đâu có làm gì nhiều.
Cha Đạo cười:
- Mọi khi con chỉ lo việc ở nhà, bây giờ Cha thấy con còn lo dưới rẫy. Bọn con trai khỏe, chứ con là con gái, đừng ra dang nắng nhiều.
Cát Tường cảm động, muốn nói gì với Cha Đạo, nhưng thôi. Cũng phải công nhận là mình có xuống rẫy hơi nhiều. Nhưng tại vì… à, tại vì có Trúc. Có đôi guốc của Trúc dẫm trên đá, có tiếng cuốc của Trúc đào vỡ đất, có tiếng cười của Trúc vang động giữa trời xanh, là như có sự sống linh hoạt và bền bỉ. Như thế ai mà không náo nức, ai mà đứng yên được ở trên đỉnh đồi?
Cát Tường nói như để Cha Đạo yên lòng:
- Dạ, con sẽ bớt làm việc lại, thưa Cha.
- Công việc mà Cha muốn con đừng xao lãng là dạy các em con học. Còn những công việc khác, con hãy để Khánh lo.
- Dạ.
- Ít nhất, Cha muốn các em con sẽ học bằng với sức học của con ngày trước. Tới chừng đó, Cha sẽ gửi chúng đi học thêm ở các Cha trên tỉnh. Con cũng vậy. Bây giờ thời cuộc chưa yên, mình chấp nhận thế này. Sau này, có điều kiện, con cũng phải tiến lên – Cha Đạo thở dài – Nhưng có lẽ việc ấy hãy còn xa. Hiện giờ Cha vẫn thấy sống gần thiên nhiên, các con phát triển nhiều hơn khi sống chật chội ở thành phố. Sao? Đến nay bé Nhu Mì đã làm được toán nhân chưa?
- Thưa Cha, Nhu Mì học giỏi lắm ạ. Nhờ có anh Trúc thúc đẩy, bé đã làm được cả bốn phép toán. Các em khác cũng học chăm lắm. Chỉ trừ Hậu…
- Hậu làm sao?
- Thưa Cha, Hậu chỉ thích chơi những trò chơi ngoài trời, nó có tính tháo vát nên thích hoạt động tay chân, ít chịu học. Đến nay Hậu vẫn chưa đánh vần trôi chảy.
- Vậy sao? Để Cha rầy nó.
- Con nghĩ chắc không phải bé Hậu tối dạ, mà vì nó thích những việc linh động hơn.
Cha Đạo có vẻ suy nghĩ:
- Như vậy, sau này Cha sẽ cho nó học nghề. Chắc thằng bé đã thích vậy… Nhưng con cũng rán dạy cho nó đọc, viết cho được nhé!
- Dạ.
- Thôi, con trở về nhà đi. Đứng ở đây nắng quá. Chiều Cha sẽ qua gặp Trúc. Giờ này Trúc đang làm gì bên đó?
- Thưa Cha, chắc anh ấy nghỉ.
- Thế à? Thôi con về đi.
- Vâng, thưa Cha con về.
Ở trên trời, có một vầng mây xám mỏng bỗng dưng che ánh nắng. Lúc Cát Tường quay lưng đi, Cha Đạo chợt nhận thấy một điều gì không được vui lắm. Cha định gọi Cát Tường lại, nhưng thôi. Cha tự nghĩ có lẽ cuộc sống bình lặng quá đôi lúc cũng làm con người mất vẻ vui nhộn. Cha đứng trên thềm, nhìn theo cái bóng của Cát Tường xa dần về phía dãy nhà bên kia vườn rau. Ở đó gần, nhưng thấy có vẻ ngăn cách quá! Chợt Cha đưa bàn tay lên, tính nhẩm. Rồi đôi mày cau lại, Cha lẩm bẩm:
- Ủa, sáu năm rồi sao?...
**
Trưa yên vắng làm bước chân Cát Tường chậm lại. Đến trước cửa phòng thuốc – nơi mà hơn một tuần nay dành làm phòng của Trúc – Cát Tường nhẹ đặt tay lên chốt cửa. Chắc Trúc đang thức? Cát Tường gọi khẽ:
- Anh Trúc!
Chưa nghe tiếng trả lời, nhưng cánh cửa đã tự động mở ra vì bên trong không cài móc lại. Căn phòng vắng lặng. Cát Tường ngạc nhiên quá, chạy qua phòng học. Chỉ có bé Nhu Mì đang ngồi vẽ. Cát Tường tìm khắp nơi, vẫn không thấy Trúc đâu. Các bé thì đang ngủ trưa. Khắp sân trước vườn sau, chẳng hề thấy bóng Trúc. Trúc ở đâu? Cát Tường giật mình khi tìm được câu trả lời. Trúc đã ra đường lớn một mình? Trúc đã đi lúc trời trưa vắng vẻ để đừng ai hay biết? Trúc chờ một chiếc xe lam chạy ngang, Trúc vẫy, và xe đưa Trúc về thành phố? Trúc bỏ mọi người nơi đây. Không có gì để tiếc rẻ, để lưu luyến cả, phải không? Cát Tường ngồi xuống bậc thềm đã trở thành của riêng Trúc, ôm mặt khóc. Ô hay! Ta khóc được dễ dàng như thế này ư? Vì sao vậy? Vì thương người quá? Vì bóng dáng người làm không gian rạng rỡ, vì tiếng nói của người làm tỏa ngát niềm vui, vì dấu chân của người làm cảm tình in đậm…
- Cát Tường!
Ai gọi? Đúng rồi, tiếng của người chào ta ngày đầu tiên đến đây bằng chiếc xe chở củi. Tôi là Trúc – Thưa anh Trúc!... Còn cô? Em tên Cát Tường – Cô Cát Tường!... Chỉ có thế, nhưng là lời chào nhau rất đậm đà.
- Cát Tường!
Đúng rồi! Tiếng của người lo âu, sợ nơi đây từ chối sự có mặt của người. Cô Cát Tường! Dạ? Cha cô sẽ cho tôi ở lại đây? Vâng, anh sẽ ở đây đến khi lành hẳn. Cả cô cũng bằng lòng chứ? Không những em, mà cả làng sẽ rất vui… Cô làm tôi cảm động quá!..
- Cát Tường! Sao Cát Tường khóc?
Đúng rồi, giọng của Trúc thật mà! Cát Tường bàng hoàng ngước lên. Trúc đứng trước mặt, rõ ràng như vậy. Đâu phải lời chào hỏi, đâu phải lời lo âu. Mà thật đó, Trúc còn ở đây, Trúc hỏi sao Cát Tường khóc. Tự nhiên điều gì làm Cát Tường ngượng ngùng quá! Anh có thấy rõ những ý nghĩ của mình không?
- Anh Trúc… vẫn còn ở đây hở?
Trúc ngơ ngác:
- Chứ tôi đã đi đâu! Tôi ra lối đường mòn…
- Anh ra đó… để đón xe về hở?
Trúc cuời:
- Không, tôi theo đường Khánh chỉ, để xem cho biết.
Cát Tường tấm tức:
- Anh nói gạt.
- Thật mà! Ủa, nhưng sao Cát Tường khóc? Có ai làm Cát Tường buồn không?
- Dạ…
- Tôi nghĩ, ngoài tôi ra, không ai làm buồn lòng Cát Tường được hết.
- Không, đâu có…
- Tôi là người làm phiền Cát Tường nhiều nhất. Mà lúc nãy tôi lại đi vắng. Vậy thì ai?
Cát Tường xấu hổ đáp:
- Không ai hết. Tại vì… tại vì buồn quá!
Trúc cười lớn:
- Lần đầu tiên nghe Cát Tường nói buồn. Nhưng nè, Cát Tường, nghe tôi nói chuyện này, hết buồn ngay.
Cát Tường lau nước mắt, chờ đợi. Trúc vui vẻ ngồi xuống, cầm một nhánh cây khô vẽ lên đất, nói:
- Này nhé Cát Tường, trưa nay ngủ không được tôi ra đường mòn, đi lần lần tới đường lớn. Nhưng tôi không đón xe đâu. Vả lại, chẳng có một bóng xe nào chạy qua cả. Tôi trở lại, và phát bớt cây cỏ hai bên đường để lối đi sáng sủa hơn. Con đường vào làng thật ra đâu phải là đường mòn.
- Dạ, nhưng tại vì cây cỏ mọc lấn ra đó anh. Xe ông Năm vẫn ra vào được mà!
- Làm rộng con đường ra rồi, tôi nghĩ ra một điều, là làng ta chưa có cổng.
- Hồi trước có, nhưng mưa gió làm mục gãy, Cha bỏ đi đó anh!
- Bây giờ tôi muốn dựng một cái cổng ở chỗ cũ. Hai bên đã có hai cây to. Mình chỉ việc hè nhau lấy gỗ và tre đóng thành cánh cổng gắn vào đó.
- Có sẵn đinh, dây thép ở nhà bếp…
- Chưa hết, có một cái chuông, tôi vừa mới tìm được sau chỗ chất củi.
Cát Tường reo lên:
- Cái chuông gọi ăn cơm của chúng em, lạc mất đã lâu.
- Đúng rồi. Tôi sẽ nối một sợi dây vào chuông, rồi cột nơi cánh cổng. Tiếng chuông vẫn còn dòn dã lắm. Có ai mở cổng, ta ở trong này sẽ nghe chuông “leng keng, leng keng”.
Cát Tường thích thú cười:
- Hay quá! Có cái chuông đó, người lạ có đến, mình sẽ biết trước mà tránh.
- Như hai cái ông hôm nọ?
- Dạ.
Cả hai không hẹn mà cùng im lặng. Rồi chợt Trúc đưa một ngón trỏ lên trước mặt, cười hóm hỉnh:
- Thấy chưa? Tôi đã bảo nghe chuyện làm cổng với lại làm dây chuông là Cát Tường sẽ vui ngay.
Cát Tường bẽn lẽn:
- Sao anh biết?
- Thì tại vì Cát Tường là chị cả. Chị cả của một cái làng thì luôn luôn muốn cho các em mình được yên ổn.
- Anh Trúc nói sai rồi!
Cát Tường cúi xuống, xấu hổ. Nếu mà Trúc biết được rằng chỉ cần sự có mặt của Trúc thôi, Cát Tường sẽ vui lại ngay. Nhưng xấu quá, thẹn quá! Cát Tường muốn trốn ánh mắt của Trúc, cái ánh mắt lạ lùng quá, thu hút quá!
Trúc hỏi:
- Tôi nói sai chỗ nào?
- Em là chị cả của các bé, chứ đâu phải là chị cả của…
Trúc bật cười:
- …của tôi, phải không?
- Dạ.
Rồi lại im lặng. Nhưng Cát Tường muốn nói với Trúc rằng: trước khi anh hiện diện nơi đây, Cát Tường thấy mình là chị cả thật; rồi sau ngày đón nhận người làm người khách bất ngờ, Cát Tường đã dần dần cảm thấy mình nhỏ nhoi, bé mọn, và cần một sự che chở yêu thương nào đó… Không biết!!!
Chương 08
Biết rồi! Cát Tường đã biết rồi! Biết là mình bé mọn, nhỏ nhoi. Biết mình là một đứa con gái chưa một lần sống với tình cảm mới. Nên cần che chở. Nên cần yêu thương. Nhưng không phải sự che chở của Chúa, không phải sự yêu thương của Cha. Mà của anh Trúc. Phải là anh không? Sự gặp gỡ kỳ lạ và huyền diệu. Một bông hoa hồng nở trong khúc đời xanh ngát. Cát Tường đã biết rồi! Cát Tường cần có anh như một an ủi tuyệt vời. Biết như thế, sao không vui mà lại buồn? Sao không cười mà lại khóc?
Trưa hôm nay chỉ một mình trong phòng học, trước chiếc gương nhỏ, Cát Tường khóc như thể bây giờ mới là lần đầu được khóc. Khóc vì thấy tóc, thấy mắt, thấy gương mặt của chính mình. Cát Tường ơi, sao mi lại như thế? Nếu mi còn cha, còn mẹ, còn cắp sách đến trường, biết đâu chừng đã được bạn bè gọi là “cô bé áo xanh, áo hồng, hay áo trắng”… Sao Cát Tường lại ở đây? Một diễm phúc hay một đọa đày?
Kìa, tóc đó cũng mượt lắm, đen lắm! Mắt đó cũng sáng lắm, to lắm! Da kia cũng trắng lắm! Môi kia cũng hồng lắm! Cát Tường, mi là con gái hay là nữ tu? Mi có cần yêu thương, che chở? Hay mi muốn làm chim đại bàng giăng cánh bảo vệ lũ chim non? Điều gì trái ngược quá! Điều mà trước kia mình không bao giờ nghĩ tới, bây giờ lại đâm xoáy vào tim. Tại sao lại có anh, hở Trúc? Anh hiện diện như Gulliver lạc vào nước tí hon. Ở đây chúng em không giam cầm anh, không tước đoạt vật dụng của anh. Mà trái lại, chúng em còn may cho anh quần áo, đẽo cho anh đôi guốc. Anh vui vẻ, anh hiền lành vô hạn. Nhưng có mỗi con tim của Cát Tường, chính anh đã giam cầm mất rồi!
Anh biết gì không? Người thanh niên đang vui cười dưới rẫy khoai ngập nắng kia, biết gì không? Mai mốt cánh chim sẽ bay lên trời, có đem theo gì không? Một chút nhớ, một chút buồn? Rồi thì cuộc đời sẽ tiếp tục như sông, như biển. Cát Tường đã biết việc gì sẽ đến. Sông sẽ cuốn trôi hết những muộn phiền. Biển sẽ hòa tan tất cả nỗi nhớ. Anh sẽ sống đời anh.Cuộc sống tiếp diễn như người ta lật những trang sách. Những trang sắp tới, Cát Tường vẫn ở đây, giữa bầy trẻ nhỏ, bên người Cha chung. Đợi cho trẻ nhỏ chóng lớn. Cầu cho Cha chung lâu già. Còn Cát Tường thì sao? Có tiếp tục hồn nhiên, vui tươi? Hay Cát Tường sẽ là cái bóng cằn cỗi, khắc khoải và ưu phiền? Ôi, tóc đó, mắt đó, mai mốt sẽ là tóc trắng, mắt sâu. Cát Tường ơi! Sao biết mình yêu quý người mà lại khóc? Sao biết mình cần người mà chẳng vui? Nước mắt lăn xuống má, nhỏ giọt trên tay. Lòng cũng như thế mà se thắt.
Đêm hôm qua Cát Tường mơ thấy mình được về thành phố - một thành phố nào thật xa, thật lạ, và là nơi trú ngụ của Trúc. Có mẹ Trúc, có em Trúc: Lệ, Hạnh, Trinh, Tuấn. Có cô bé áo vàng Hồng Phước. Ai cũng mến Cát Tường và muốn Cát Tường ở lại đó. Trúc cũng năn nỉ Cát Tường ở lại đó. Cát Tường gọi mẹ Trúc bằng mẹ, gọi những người kia là em. Cát Tường được đi học, mặc áo dài trắng. Trúc khen Cát Tường đẹp, nhất là khi mặc áo dài trắng. Cát Tường cài hoa trắng trên đầu. Rồi mùa xuân cũng đến. Trúc tặng cho Cát Tường thật nhiều hoa trắng. Hoa ngợp cả người, cả mặt. Cát Tường chới với như đang bước giữa chân không. Cát Tường ngỡ mình sắp chết, khóc òa trong hoa. Nhưng có Trúc bên cạnh, Trúc an ủi ngọt ngào. Trúc biến những giọt lệ thành những hạt sương, cho rơi xuống những cánh hoa. Âm thanh vỡ ra thành tiếng đàn. Không phải tiếng thánh nhạc đều đặn ở giáo đường, mà là tiếng hân hoan rung lên từ những tâm hồn trẻ trung. Là tình ca. Là tiếng ru cho lòng người náo nức. Rồi Trúc hát, và Cát Tường cũng hát. Không phải bài kéo củi, mà là khúc hát ngọt ngào giúp Cát Tường quên đi nỗi thê lương của một thời thơ ấu.
Giấc mơ chỉ có thế.
Trúc hiện ra ở cửa sổ ngoài phòng học. Trúc ngạc nhiên vô cùng, vì lần thứ hai Trúc trông thấy nước mắt Cát Tường. Gương mặt can đảm, từ bi đang nhòa nhạt lệ. Và cô gái đó, trước mắt Trúc bây giờ, đang trở thành một cọng cỏ yếu đuối, mảnh mai. Trúc bồi hồi, gọi khẽ:
- Cát Tường, có chuyện gì thế?
Cát Tường quay mặt đi. Không che giấu được người, nhưng biết trả lời làm sao? Trúc vòng lại phía cửa lớn, bước vào phòng học. Mấy dãy ghế vắng ngắt, vì đám học trò tất cả đều ra rẫy. Chỉ có mỗi cô giáo đang tấm tức một mình.
Tiếng chân Trúc đến gần, đàng sau lưng, làm Cát Tường bỗng dưng run rẩy. Không phải vì tiếng chân vang động như chân của người khổng lồ. Mà vì Cát Tường đã nhìn Trúc bằng một nhãn quan khác, nên tiếng chân quen thuộc đã biến thành tiếng của hạnh phúc, của nỗi khổ, của một tình cảm nào đó rất thênh thang. Một sự gì khó định nghĩa lắm! Trúc đứng trước mặt. Nụ cười trở nên ái ngại. Trúc hỏi:
- Có chuyện gì vậy, Cát Tường?
Cát Tường lắc đầu,nước mắt lại ứa ra, không cầm giữ được. Trúc hỏi tiếp:
- Bộ Cát Tường phiền tôi chuyện gì?
- Dạ không...
- Hay là tại vì ở đây buồn quá?
- Không...
Cát Tường im bặt. Sao người lại biết rằng ở đây buồn quá? Cát Tường nghĩ như thế rồi nhớ ngay là có lần mình đã nói như vậy. Ở đây buồn quá! Sáng xuống rẫy, chiều trở về, chẳng có gì đáng nói. Mai mốt người ra đi, chắc cũng không luyến tiếc những bữa cơm trộn khoai nuốt nghẹn cổ, nhức óc...
- Cát Tường, lau nước mắt đi, nói cho tôi nghe sao đến nỗi Cát Tường phải khóc.
- Không , không có gì cả. Thỉnh thoảng vẫn vậy. Mỗi khi nhớ ba mẹ, em khóc. Khóc rồi thì thôi, không có gì cả.
- Có thật không? Hay có điều gì Cát Tường muốn giấu?
Chợt nhìn thấy chiếc gương nhỏ đặt trên bàn, Trúc phì cười:
- A! Cát Tường khóc... mà soi gương!...
Cát Tường mắc cỡ chết thôi! Không biết phải giải thích thế nào. Chắc dưới mắt Trúc, ta đang trở thành một cô Mán rừng đáng thương lắm. Trúc cười nhẹ nhàng, nhưng giọng cười khiến Cát Tường lúng túng.
- Anh Trúc đừng nhạo nữa. Cát Tường khóc vì ... vì Cát Tường xấu xí quá!...
Trúc mở to đôi mắt:
- Ai nói vậy?
- Không ai nói, nhưng em biết.
- Tầm bậy nào! Cát Tường đâu có xấu xí.
- Anh nói gạt.
Trúc cười:
- Tôi nói thật. Cát Tường quá bi quan đó. Cát Tường dịu dàng, đáng mến lắm. Cát Tường có nét đẹp quen quen, mà mới lúc ban đầu, tôi cứ tưởng là tôi đã gặp trong một bức tranh nào.
Cát Tường lập lại bằng giọng ngạc nhiên:
- Trong một bức tranh nào...?
Trúc gật đầu:
- Nhưng tôi nhớ ra rồi, không phải trong tranh bình thường, mà Cát Tường biết ở đâu không?
- Ở đâu hở anh?
- Trong hình tượng Đức Mẹ.
Cát Tường kêu lên:
- Chết! Sao lại như thế được?
- Thật mà Cát Tường. Cát Tường có nét đẹp từ bi, giống như Mẹ Maria, mà tôi chưa hề gặp ở một người con gái nào khác. Cát Tường lại có nhiều đức tính quá, nếu các em gái của tôi được ở gần Cát Tường, tôi sẽ khuyên chúng nó tập lấy giống như Cát Tường.
- Anh Trúc nói, làm em “dị” quá!
Trúc nhìn thẳng vào đôi mắt Cát Tường, nói rất êm đềm:
- Nếu Cát Tường không ngại, thì cho tôi được xem Cát Tường như một người em gái, được không?
- Dạ? Anh Trúc nói gì?
- Tôi mong nhận Cát Tường làm em gái.
Giọng Trúc nghe thiết tha quá! Cát Tường chớp mắt:
- Anh... nhận em làm em gái?
- Vâng.
- Em gái... là thế nào?
Hỏi xong, Cát Tường thấy mình ngớ ngẩn, và xấu hổ vô cùng. Trúc cười:
- Thì hai ta xem nhau như anh em một nhà.
Cát Tường bâng khuâng:
- Ở đây... đã là một nhà rồi!
- Cát Tường không chịu hả?
- Đâu có! Chịu chứ! Từ lâu... em đã xem anh Trúc như... một người anh.
- Cám ơn Cát Tường. Riêng tôi, vì cách xưng hô khiến tôi cảm thấy xa cách. Tôi vẫn thấy Cát Tường xứng đáng là chị cả của các bé nhỏ. Tôi chưa hề có ý nghĩ coi Cát Tường ở vai thấp hơn tôi – giọng Trúc trầm xuống – Nhưng trưa nay, lúc đang cuốc đất dưới rẫy, tôi có một ý nghĩ khác. Ở đây đã có một cái gì làm tôi thương mến lắm. Không biết tôi còn được ở lại đây bao lâu nữa? Nhưng chắc khi xa sẽ nhớ lắm. Nhất là Cát Tường... Sao tôi lại không thể thân mật hơn với Cát Tường, mà tôi lại cứ xem Cát Tường như một người rất xa cách?
- Em... có gì đáng để xa cách đâu!
- Không, chỉ vì Cát Tường quá bao dung, khéo léo, làm tôi kính phục.
Giọng Cát Tường ướt sũng:
- Nhưng em không phải là một người cứng rắn. Có lúc em cũng nhận thấy mình yếu ớt. Ở đây, nhiều khi... cũng buồn lắm. Không có ai chia xẻ với em. Em thèm sống trong một mái gia đình. Em thèm có cha, mẹ, có anh chị. Em muốn được nghe những lời an ủi, lo lắng. Sáu năm rồi, em sống không có tình gia đình. Bốn năm nay, em nhận nơi này làm mái nhà lớn. Em thương Cha lắm, thương các bé lắm. Nhưng có nhiều lúc, em thương thân em quá!
- Cát Tường! Anh hiểu...
Giọng của Trúc êm như gió chiều. Nước mắt lại được dịp rơi. Cát Tường cũng không hiểu tại sao mình lại có can đảm khóc sụt sùi trước mặt Trúc. Không còn xấu, không còn thẹn. Tưởng như chỉ có Trúc là người chia xẻ được nỗi buồn.
Giọng Trúc vỗ về, an ủi:
- Vì hiểu thế, nên anh muốn Cát Tường xem anh như người anh của Cát Tường. Anh muốn mỗi khi Cát Tường có điều gì suy nghĩ, bận trí, Cát Tường nói cho anh nghe với.
- Cho đến khi nào? Cho đến khi ông Năm về, hở anh?
Trúc im lặng. Ngoài sân vắng có tiếng chim gọi nhau nghe thật rõ. Trúc sực nhớ rằng dưới rẫy có lũ trẻ nhỏ đang chờ mình.
- Cát Tường! Đừng buồn nữa, xuống rẫy chơi đi!
- Em sắp phải nấu cơm.
- Xuống chơi một lát đi! Ngồi một mình, lại suy nghĩ vẩn vơ.
- Nhưng... mới khóc xong, xấu lắm, “dị” lắm!
Trúc cười:
- Không “dị” đâu! Lau nước mắt đi, để các bé thấy tưởng là chị cả nhớ nhà, các bé bắt chước thì khổ đó!
- Anh Trúc chế nhạo mãi, em cứ tưởng như mình xấu xí lắm.
- Không, trái lại nữa là khác. Anh nghĩ... nếu mà Cát Tường mặc một chiếc áo dài trắng, ôm một chiếc cặp, chắc sẽ đẹp và ngoan như một cô bé học trò.
Cát Tường mỉm cười. Lời nói như một sự khích động lớn lao. Ở trong giấc mơ, Trúc cũng khen Cát Tường đẹp khi mặc áo dài trắng. Tự nhiên Cát Tường nghe dâng lên một niềm ao ước. Ao ước một cuộc sống giản dị và bình thường – sớm có áo trắng tung tăng, chiều có nghe lời mẹ gọi - nhưng thần tiên lắm, ngọt ngào lắm, tưởng như rất khó xảy ra, hay nói đúng hơn là chẳng bao giờ xảy ra nữa.
Tiếng chân trẻ nhỏ dừng lại trước hiên nhà. Tiếng ríu rít trao đổi với nhau khiến Cát Tường đoán là có độ ba, bốn đứa đang ở ngoài cửa. Cát Tường lau vội cho khô những dấu nước mắt, rồi nhón gót nhìn ra thềm. Hiền, Lương và Hậu, ba đứa con trai nhỏ đang ló đầu vào cửa sổ phòng học. Hiền nói:
- Anh Trúc ơi! Sao lâu vậy?
Trúc đáp:
- Thì tại vì anh chờ chị Cát Tường đây này! Chị ấy đang bận… vá chiếc áo…
Hậu hỏi:
- Áo nào hở chị?
Trúc cười:
- Xong rồi, chị ấy cất rồi. Bây giờ thì chị Cát Tường sẽ xuống chơi với các em.
- Cả anh nữa chứ?
- Ừ, thì có anh nữa.
Trúc quay lại nói với Cát Tường:
- Không biết có trò chơi gì đây mà các bé bắt anh phải làm “vai chính”.
Cát Tường ngơ ngác:
- Cái gì vậy?
Hậu đáp nhanh nhẩu:
- Chị cứ xuống rẫy coi thì rõ. Cả đám chờ ở dưới ấy.
Cát Tường nhẹ cốc đầu thằng bé, mắng yêu:
- Bé Hậu này, được cái chơi đùa thì thích nhé, chứ động đến sách vở thì sợ lắm.
- Cho em chơi đi, ngày mai em học bù.
- Ngày mai… ngày mai chẳng bao giờ đến cả.
Hậu cười lấp, nắm tay Cát Tường lôi đi. Cát Tường vừa cười vừa nói:
- Chẳng hiểu gì hết. Các bé làm gì đây?
Trúc đi theo sau với Hiền, Lương. Năm người xuống đường dốc thấp, tới đám rẫy trồng khoai sắn. Đi từ trên, đã thấy ở bên dưới, lũ trẻ nhỏ đứng thành một đoàn. Chúng reo hò khi thấy Trúc và Cát Tường. Khánh chạy đến, nói ngay:
- Rồi, đã đông đủ tất cả, chúng ta bắt đầu chơi.
Cát Tường hỏi:
- Bé Nhu Mì đâu?
Từ đám đông, bé Nhu Mì chạy ra, giơ một tay lên khỏi đầu. Đôi môi mọng đỏ tươi tắn hơn mọi ngày, đang mấp máy như muốn nói: “Em đây!” Lần đầu tiên bé xuống rẫy vui cùng các bạn. Vì ai thế? Vì một trò chơi nào sắp bày ra đây làm nôn nao lòng bé?
Trúc đứng thẳng người, nói:
- Bây giờ Khánh cho biết trò chơi đi!
- Trò chơi rất giản dị: em muốn anh Trúc làm ông Quy-Li-Ve. Ông Quy-Li-Ve là thuyền trưởng của một chiếc chiến hạm.
Hiền la lên:
- Không phải! Ông ấy là một tên cướp biển.
Cát Tường nói:
- Các em quên rồi à? Quy-Li-Ve là một y sĩ làm việc trên các tàu biển.
Khánh cười:
- A đúng rồi. Quy-Li-Ve là y sĩ. Ông ta bị đắm tàu và trôi dạt trên biển. Ông ngất đi. Đến lúc tỉnh dậy ông thấy mình bị trói chân tay, và vây quanh ông là những người nhỏ tí xíu. Đó là người của nước tí hon “Chim Chích”.
Trúc ngơ ngác:
- Nhưng trò chơi gì đây?
- Khoan. Để em thuật chuyện cho có đầu có đuôi. Mấy người dân của nước “Chim Chích” sợ ông Quy-Li-Ve lắm, giống như mình sợ người khổng lồ vậy, nên họ trói ông ấy thật chặt. Họ còn bắn những mũi tên tí hon vô người ông ấy nữa.
Hậu tiếp lời:
- Nhưng đến khi Quy-Li-Ve tỉnh dậy, người tí hon thấy ông ấy hiền lành, nên vác những thúng thịt cừu tới cho ông ăn, đem rượu vang cho ông uống, rồi… rồi….
Khánh:
- Rồi họ đóng một cái xe vừa với thân hình của Quy-Li-Ve để chở ông ấy về kinh thành.
Đám trẻ đồng loạt vỗ tay. Trúc đứng lặng người, nửa bàng hoàng nửa sung sướng. Chừng như câu chuyện Gulliver đều được những đứa trẻ ở đây thuộc lòng. Cái câu chuyện được viết ra bởi một nhà văn người Ái Nhĩ Lan mà thuở nhỏ Trúc đọc không mấy thích, giờ trở nên sống động dạt dào. Vì nhân vật đó bây giờ là Trúc. Từ một tai nạn, Trúc đã làm một kẻ lạc loài. Giữa cánh rừng thưa nghe tiếng trẻ ríu rít, nghe tiếng xe cót két đẩy tới, đưa mình về làng nhỏ. Có những điều mình cho là chỉ có trong trí tưởng tượng, lại xảy đến cho chính mình. Và cái làng cô nhi “Chim sâu nhỏ” này, là một sự thật trên đất nước của mình.
Trúc nói, với giọng xúc động, khi tiếng vỗ tay đã dứt:
- Anh hiểu rồi! Bây giờ anh sẵn sàng làm theo ý muốn của các em. Trò chơi gì đây?
Khánh nói:
- Gần nửa tháng nay anh Trúc sống ở xứ tí hon, đến một hôm dân chúng muốn mở tiệc đãi anh. Nhưng đặc biệt, dân chúng chỉ đem đến cho anh những gì mà anh yêu cầu. Trò chơi là như vậy. Bây giờ, Quy-Li-Ve đứng giữa, chúng em chia làm hai nhóm. Hễ Quy-Li-Ve bảo thích thứ gì, mọi người sẽ thi nhau đi tìm cho anh thứ nấy. Bên nào đếm được nhiều món hơn, sẽ được bên bị thua cõng đi một vòng.
Đám trẻ vỗ tay thích thú. Khánh nói tiếp:
- Em dẫn đầu một phe, chị Cát Tường một phe.
Lũ trẻ nhỏ giành nhau chia phe. Nhu Mì chạy lại với Cát Tường. Trúc đứng một mình ở giữa. Xong xuôi. Khánh nói lớn:
- Chuẩn bị nhé! Anh Trúc, ủa quên, Quy-Li-Ve cứ truyền lệnh, chúng em đã sửa soạn đủ. Nhưng anh không được đòi hỏi những thứ mà nước tí hon không thể có nghen!
Trúc đồng ý, suy nghĩ và nói:
- Bây giờ Quy-Li-Ve đang đói. Anh muốn có một củ khoai mới luộc.
Lũ trẻ tranh nhau đem khoai tới. Phe của Khánh đến trước. Trúc nhận củ khoai, rồi nói:
- Ăn no rồi, anh muốn có… nước uống.
Chỉ có một bình nước của phe Cát Tường đem lại. Trúc dốc ngược cái bình : không có một giọt nước. Phe của Khánh la hò phản đối. Trúc cười:
- Nhưng có cái bình tượng trưng là được rồi. Bây giờ… Quy-Li-Ve muốn có một cái mũ con trai.
Cái mũ của bé Hảo được lấy xuống. Lũ trẻ lại reo hò cổ võ. Trúc nói ngay:
- Một cái áo con trai.
Khánh cởi áo của mình vứt nhanh cho Trúc.
- Một cái kẹp tóc.
Mấy đứa bé gái vội vã gỡ kẹp xuống. Trúc nhận chiếc kẹp của Diệu rồi nói tiếp:
- Một chiếc dép… đứt quai.
Thế là có một màn tìm kiếm dưới chân của nhau. Rốt cuộc chỉ có Lương đem đến cho Trúc chiếc dép xơ xác của cậu bé. Cát Tường và Khánh cùng la lớn thúc giục phe của mình:
- Cố lên!
- Cố lên!
- Phải lẹ tay mới được nghen các em!
Trúc đứng yên suy nghĩ. Hết nghĩ ra được thứ gì để đòi hỏi. Ở hai bên, đám trẻ cứ chờ đợi, hồi hộp. Sau nửa phút, Trúc hô to:
- Quy-Li-Ve… muốn có một bông hoa.
Đám trẻ hơi lúng túng vì cứ chuẩn bị những thứ trên người mình, bây giờ phải chạy ra đi tìm bông hoa. Những hoa dại bị hái và đem tới cho Trúc. Trúc nói tiếp:
- Một cây củi.
Lũ trẻ hè nhau chạy tới cuối rẫy. Khi cây củi nhanh nhẹn nhất được trao cho Trúc, Trúc nói ngay:
- Một xe chở củi.
Lũ trẻ lại xô đẩy nhau chạy lên dốc. Trúc cười vang theo với chúng, và nhìn theo những bước chân chạy vội vàng. Phía đó, Trúc đã thấy, chiếc áo đen của Cha Đạo hiện rõ trên nền trắng của trời chiều. Cha đang mỉm cười nhìn bọn trẻ chơi đùa như chưa bao giờ được vui vẻ như vậy.
Chiếc xe được lũ trẻ đẩy chạy xuống dốc. Khi đến nơi, chúng giành nhau phần thắng. Trúc phải giảng hòa:
- Món này xem như huề đi, vì cả hai phe đều có công. Bây giờ…
Lũ trẻ sắp xếp lại hàng ngũ, chờ đợi. Trúc vỗ trán suy nghĩ, rồi:
- Một sợi tóc thật dài.
Cát Tường bứt nhanh một sợi tóc của mình, chạy đến đưa cho Trúc. Lũ trẻ reo hò ầm ĩ. Trúc cầm lấy sợi tóc rồi la lớn:
- Thôi! Quy-Li-Ve xin cám ơn dân chúng xứ tí hon. Ở đây cái gì cũng có, thật là sung sướng. Nếu mà anh đòi hỏi thêm nữa thì tội lắm. Bây giờ để anh đếm nhé! Chiếc xe kể như của chung rồi, không kể. Còn lại… xem nào, phe của Khánh thắng rồi!
Tiếng trẻ nhỏ xôn xao:
- Phe chị Cát Tường phải cõng.
- Không! Không! Bên này nhiều con gái, ít con trai, làm sao cõng nổi bên đó?
- Rán chịu, phải cõng! Phải cõng!...
- Không chịu! Chiếc xe là của phe này lấy trước.
Cát Tường can:
- Đừng cãi vã, các bé! Hồi nãy bé nào chạm tay vào xe củi trước nhất?
- Chị Thương.
- Vậy là phe ta có công trước. Xem như huề.
Khánh la lên:
- Không chịu. Nếu vậy anh Trúc muốn một thứ nữa đi!
Trúc cười:
- Anh hết ý rồi! Bây giờ… để coi, anh cần… à, để anh cần người nhé! Anh cần một người… một người…
Một giọng nói tinh nghịch con trai cất lên:
- Một người… vợ!
Lũ trẻ ré lên cười. Nhưng bé Nhu Mì đã bất thình lình nắm tay Cát Tường kéo chạy đến phía Trúc. Trúc còn đứng ngơ ngác, trong khi lũ trẻ vỗ tay reo cười vang dội, mà Cát Tường thì xấu hổ nóng bừng cả mặt. Cát Tường giật tay ra khỏi tay bé Nhu Mì chạy băng lên dốc. Ở đàng sau, tiếng gọi của đám trẻ nghe xôn xao như tiếng rượt đuổi. Ở phía trước, bóng áo của Cha Đạo như cũng tươi tắn lên với nụ cười của Cha. Xung quanh ai cũng cười vui. Cát Tường thì muốn trốn cho biến mất. Nỗi gì kỳ lạ quá, lâng lâng quá! Cát Tường chạy đến nhà, ngồi xuống bậc thềm, và kìa, Trúc đang dẫn đàn trẻ đi lên dốc. Những tiếng cười cứ chạy ùa đến hồ như làn gió. Lẫn trong tiếng cười, có những âm thanh nào là lạ. Cát Tường lắng tai nghe. Âm thanh nghe xa xa, nhưng dồn dập lắm, tựa như tiếng thúc giục trước đây mỗi khi ăn cơm. Leng keng… leng keng… leng keng… Cát Tường đứng bật dậy. Tiếng chuông rõ dần. Tiếng chuông từ ngoài cổng. Ai đã đến?
Cha Đạo cũng đã nghe. Trúc và đàn trẻ vừa lên đến nơi cũng đã nghe. Không ai bảo ai, tất cả đều ùa ra phía cổng rào mới được Trúc dựng xong. Và đồng loạt, những đứa trẻ reo lên:
- Ông Năm về! Ông Năm về!
|
|
|
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
06-18-2020
|
#113
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Ký ức về Đà Lạt, 60 năm sau: Vũ Giản (Hồi ký).
Dù chỉ ở Dalat trong 3 năm, khi tôi cùng gia đình di cư (1954) từ Hà nôi vào cái thành phố ”Paris nhỏ” này. Nhưng khi rời Dalat năm 1957 xuống Sài gòn học tiếp 2 năm ở trường Chu văn An để thi tú tài, thì tôi mới thấy thấm thía, khi đọc 2 câu thơ của Chế Lan Viên:
“Khi ta ở, chỉ là đất ở
Lúc ta đi, đất đã biến thành hồn”
Sau này, vào đầu những năm 60, khi được gia đình cho đi du học ở thành phố Paris ”lớn”, thì tôi lại không thấy ”thấm thía” như vậy! Có lẽ vì Paris thật quá lớn, so với Đà Lạt khi ấy chăng? Đà lạt 1954 chỉ giống như 1 tỉnh nhỏ vùng núi Alpes của Pháp (hay của Thụy Sĩ), xây trong thung lũng, nhìn lên ngọn núi Langbian có hình giáng 1 phụ nữ nằm ngửa nhìn lên trời,và kiến trúc sư Pháp đã phân khu cho dân Pháp ở trung tâm, và dân bản xứ ở bên ngoài. Trung tâm thương mại, vòng quanh rạp hát Hòa Bình (là chợ cũ), có hiệu thuốc Tây, tiệm cắt tóc, hiệu kem Việt Hưng (của cụ Khắc, Trưởng Hứơng Đạo VN đầu tiên), các tiệm “chạp pô” Tầu, bán cả đồ ăn Tây (như Pa-Tê, rượu vang Pháp...),và tiệm Café Tùng (nổi tiếng cho đến ngày nay),mà giới trẻ và các lưu học sinh trường Lycée Pháp Yersin diện bộ ”complet” đi dạo phố vào uống café, nghe nhạc, ngắm các cô học sinh trường ”đầm” đi chợ, hoặc các cô lưu học sinh trường nữ trung học Công giáo « Couvent des oiseaux » mặc đồng phục, được xe nhà trường trở ra trung tâm, để đi « shopping », vào ngày thứ bẩy.
Khi ấy, ngoài 2 trường trung học Pháp kể trên, còn có trường trung học VN được thành lập (theo yêu cầu của phụ huynh học sinh muốn con học trường Việt) trước cuộc di cư của 1 triệu người từ Bắc vào miền nam VN, mà lúc đầu được đặt tên công chúa Phương Mai (vì Đà Lạt là ”Hoàng triều cương thổ”), rồi đổi thành trường trung học Quang Trung là nơi tôi theo học trong 3 năm (đệ ngũ, đệ tứ, đệ tam), rồi phải xuống Sài gòn học tiếp 2 năm, để thi Tú Tài, rồi đi du học ở Pháp.
Mới đầu, trường QT chỉ có 1 khu gồm 4 lớp học (kể cả lớp đệ thất), ngoài văn phòng Hiệu trưởng và giáo sư và trước mặt, thì có khu” ra chơi”, cũng dùng làm nơi biểu diễn văn nghệ của học sinh. Bên cạnh là sân Vận động, thể thao. Xa hơn, vẫn cạnh trường, có cư xá giáo sư, là nơi tôi ở, vì Ba tôi cũng dậy ở trường này, sau khi tốt nghiệp trường Bưởi (Hà Nội), khóa 1928, rồi dậy tại các trường Lê-quý- Đôn (Thái Bình), Nguyễn Trãi (Hà Nội), và Quang Trung (Đà Lạt), sau xuống Sài gòn, làm ở Bộ Giáo Dục, trước khi nghỉ hưu.
Ở Đà Lạt, tôi có mấy người em họ học trường Yersin (vì vào Đà Lạt đầu những năm 1950), khiến tôi cũng quen biết các học sinh trường Pháp, và tham dự các hoạt động thể thao cùng với họ, như học nhu đạo ở Judo Club của người Pháp (làm ở Viện Địa dư, còn của Pháp khi ấy), chơi bóng rổ (có khi giúp trọng tài điều khiển trân đấu giữa nữ sinh trường Yersin, và trường ”Couvent des oiseaux”.Cũng nhờ vậy (ngoài dịp đi Hội trợ Giáng Sinh hàng năm, của Couvent des oiseaux), mà tôi quen biết các nữ sinh của 2 trường này, và về sau tôi gặp lại một cô « yến quý » cũng du học ở Paris (như ông anh của cô, mà tôi quen, là con cả « sinh đôi »trong 1 gia đình kim hoàn có Đức âm, và dương ).thì nghiệm thấy đúng là «Hồng nhan, đa chuân», dù mệnh không yểu, mà yến!
Ở trường Quang Trung, tôi cũng hoạt động thể thao, và văn nghệ (mỗi năm, vào dịp Tết,lễ ?), mà học sinh lớp tôi đã được hân hạnh biểu diễn múa « Châu Pha rừng » (?) của đồng bào «Thượng » để đón tiếp Tổng Thống Ngô đình Diệm lên Đà Lạt nhận lời thề «Trung thành » của Ngự Lâm quân. Vào dịp này, tôi cũng tham dự biểu diễn nhu đạo, cùng với Câu lạc bộ Nhu đạo của gia đình anh Bính (có cô em Dung, nổi tiếng « quật ngã » cao-bồi Saigon lên Đà Lạt quấy nhiễu!). Ngoài ra trường cũng tổ chức đi cắm trại cho cả trường, và có lần thầy Trọng (là giáo sư được tuyển từ Hà nội, vào Đà Lạt trước 1954) đã tổ chức cho cả trường đi Nha Trang tắm biển trong cả tuần, mà khi thiếu tiền chi, trả (mặc dầu mỗi học sinh đều đóng tiền), thầy bảo tôi, và cô học trò Hà (cùng lớp tôi) tháp tùng thầy,đi quyên tiền trợ giúp của 1 xí nghiệp ở Nha Trang. Sau 1975, thầy di tản qua Oklahoma (Mỹ), nhưng có khi đi hội họp ở California với các học trò cũ, và nghe nói là thầy đã « tái giá »với một cô học trò! Thật đúng là:« Muốn con hay chữ,phải yêu lấy thầy »!
Thuở ấy,tôi thích nhất là khi xếp hàng vào lớp mỗi ngày,được ngắm mấy cô học sinh các lớp dưới, đang ở tuổi «dậy thì» (như Thu,Hiếu….), mà sau này gặp lại ở Mỹ,thì thấy các cô lên chức « Bà » nội, ngoại, nhưng vẫn còn dáng đẹp thuở xưa. Trong lớp tôi có cô Phương Thu (con”Trưởng” Khắc) học giỏi nhất lớp, sau này trở lại Đà Lạt làm Hiệu trưởng trường cũ (Quang Trung đổi tên thành) Bùi thị Xuân. Ngoài những chuyện học trò ”gán ghép” đôi lứa để trêu chọc lẫn nhau), thì cũng có chuyện tình rung động, như bạn Bích đã thử tự tử ”hụt”, vì yêu cô bạn Thoa (học cùng lớp). Sau này, nghe nói Bích trở thành sĩ quan chỉ huy 1 tiểu đoàn ”nhẩy dù” nổi tiếng, mỗi khi kéo quân về ”dưỡng binh” tại 1 ”đặc khu” phố của tiểu đoàn này,ở Sài gòn ? Và có lần tôi gặp lại Thoa (di tản chậm qua Mỹ, cùng chồng con) ở Cali, thì Thoa thổ lộ là thời ấy, đã khuyên Bích là phải học thành tài đã (?!). Còn một chuyện (tình?) nổi tiếng nữa,là chuyện một giáo sư Anh văn trẻ (sau khi du học vớ học bổng Colombo ở Úc về, thì được lên Đà lạt dậy lớp chúng tôi), và cô học trò Tường Quy (mà ông bố là Thiếu tá, Phó chỉ huy trường Võ Bị Quốc gia, và Trung Tá Nguyển văn Thiệu là Chỉ huy trưởng, trước khi trở thành Tổng Thống VNCH nhiều năm sau). Cô ”rùa” người Huế này đẹp nhất lớp, khiến thầy giáo ham mê kể chuyện du học Úc châu cho lũ học trò chúng tôi nghe, nhất là khi ấy có phim tình cảm “Pinic” (quay tại Úc?) do Kim Novak đóng. Mặc dầu ít ai biết nếu có chuyện gì xẩy ra sau ”hậu trường ”, nhưng ít lâu sau, thấy bà vợ giáo sư từ bỏ chức giám thị trường Trưng Vương ở Sài gòn, để lên Đà Lạt đoàn tụ với chồng! Như vậy có lẽ chưa chắc vị giáo sư đã tất thắng ?!
Đây chỉ là mấy kỷ niệm vui, buồn trong ký ức về Đà Lạt của tôi, trong một thời gian ngắn (3 năm) của cuộc đời. Nhưng « Nếu tôi sống lại một ngày » trong ký ức này (như bài hát Pháp : « Si je pouvais revivre un jour de ma vie »), để kéo dài hơn 3 năm
Genève, Thụy Sĩ,đầu năm Canh Tý 2020
Vủ Giản.
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-21-2020
|
#114
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Tủ sách Tuổi hoa "Còn dấu chân người" Chương 9-10
Chương 09
Đôi mắt của bé Hậu như ríu lại, nhưng hai ngón tay giả vờ chống lên trán mở hai mí cho khỏi sụp xuống. Cát Tường vừa ngao ngán vừa muốn phì cười vì vẻ mặt tội nghiệp của cậu bé.
- Bé Hậu! Hễ chơi thì thích lắm, mà học thì gục lên gục xuống. Mới ăn cơm xong mà em tưởng đã khuya lắm rồi à?
Cậu bé gắng đè nén cơn buồn ngủ, lắc đầu:
- Dạ đâu có! Em…
- Em lười biếng phải không? Nhìn Nhu Mì kìa. Nó đã biết đọc trước cả em nữa. Mai mốt Nhu Mì lớn, nó viết văn. Còn em, em làm gì?
Hậu cúi đầu nhìn vào trang vở. Cát Tường nói như giận:
- Nếu em cứ lười biếng, Cha sẽ gửi em lên tỉnh cho em học nghề đó.
Câu nói làm Hậu tỉnh hẳn cơn buồn ngủ. Cậu bé tỏ vẻ hoảng hốt, đôi mắt long lanh:
- Em không đi đâu!
- Sao vậy?
- Em muốn sống ở đây.
- Vậy thì em gắng học nhé!
- Dạ.
Cát Tường viết một chữ vào trang vở trắng tinh, nói như nói cho mình nghe:
- Em ngoan lắm! Mai mốt em biết đọc trôi chảy rồi, chị dạy em viết thành câu, dạy em làm toán nữa. Chị dạy đến khi nào chị hết biết dạy gì. Lúc đó có thể Cha dẫn chị em mình lên tỉnh. Còn nhớ nơi ấy không? Chắc quên rồi hở? Ở tỉnh vui lắm. Chừng đó các bé đã lớn hết. Cha dẫn chị em mình đi Sài Gòn. Chị cũng thích đi học thêm nữa. Chị thích mặc áo dài trắng, không phải áo này…
Nhìn thấy Hậu đang chờ đợi, Cát Tường chỉ vào chữ của mình, nói:
- Chữ này là chữ “truyền”, không phải chữ “thuyền”, Hậu đừng đọc lộn nữa nhé! Bây giờ em hãy viết cho chị một hàng chữ “truyền”.
Muốn cho thằng bé biết áp dụng, Cát Tường tìm một chữ có phụ âm tương tự để viết vào. Cát Tường mỉm cười, nắn nót viết chữ “Trúc” ở hàng kế tiếp.
- Chị đi ra ngoài một tí. Em ở đây viết nhé, xong rồi thì đi ngủ.
Hậu cầm cây bút lên, lẩm nhẩm đọc:
- “Tê- e- rờ- u- tru… truyền” ! Biết rồi! “truyền”, không phải “thuyền”. Còn chữ này ngắn hơn, chắc dễ hơn, nhưng… đọc làm sao đây? Nhu Mì, chữ gì đây?
Nhu Mì đang vẽ, ngừng tay nhìn qua. Hậu hỏi:
- “Tê- e- rờ- u- tru…” rồi “xê” gì? Đọc làm sao?
Nhu Mì lắc đầu, cầm viết, viết lên một tờ giấy, chữ “Trúc”, tưởng như mình đang đọc ra tiếng cho Hậu nghe. Cậu bé nhăn nhó:
- Nè! Nhu Mì! Sao mà học khó quá đi! Hậu tập đọc hoài chẳng nên thân.
Nhu Mì cười, lật vở của mình ra, chỉ vào những bài toán, như khoe. Hậu trầm trồ:
- Nhu Mì giỏi quá! Mai mốt Hậu cũng làm toán giỏi như Nhu Mì vậy. A, Nhu Mì nhái Hậu phải không? Tại vì… Hậu buồn ngủ quá đi chứ bộ. Mà Nhu Mì buồn ngủ chưa? Sao không theo mấy người kia đi ngủ đi?
Nhu Mì lắc đầu, chỉ vào hình vẽ của mình. Hậu nói:
- Thích vẽ lắm hở? Hậu cũng vậy…. Nhưng Hậu thích trồng cây hơn. Ở dưới rẫy, Hậu có gieo một cây cam, ở một chỗ bí mật, không cho ai biết đâu! Không biết chừng nào nó sẽ lớn hở? Chắc chắn có trái mà! Chừng đó Hậu sẽ cho Nhu Mì ăn cam nghen!
Cậu bé quên mất công việc phải làm.
**
Ở phòng thuốc, Cát Tường gặp ông Năm. Ông đang soạn chiếc va-li lớn, lấy ra một xấp vải hoa:
- Của bé Nhu Mì phải không ông Năm?
- Không. Của cháu đó!
- Của cháu?
Cát Tường ướm ngay vào người. Đủ may một chiếc áo dài. Nhưng mình đâu có biết may áo dài! Cát Tường ngơ ngẩn… Ông Năm đem ra một lô vải khác, nói:
- Cái này mới là của các cháu gái. Còn mấy xấp này là của con trai.
- A! Thích quá! Các bé sẽ mừng lắm. Cháu cứ hứa hoài mà chẳng có gì cho các bé. Tại vì đợi ông Năm đó! Ông Năm đi lâu quá chừng!
- Thì đó, cháu đã nghe ông Năm kể rồi. Cầu bị phá, trên tỉnh thì đánh nhau. Ở trên đó ông Năm ăn ngủ không yên. Ông Năm cứ sợ là ở đây cũng lộn xộn như vậy.
Cát Tường nói rất hồn nhiên:
- Chúa che chở tất cả mà ông Năm.
Nói xong, Cát Tường lại tung xấp vải hoa quàng lên người, hỏi:
- Ông Năm, đẹp không?
- Xinh lắm! Ông Năm biết thế nào cháu cũng sẽ thích.
- Cám ơn ông Năm nhiều. Ủa, còn sách truyện cổ tích đâu ông Năm?
- Ông Năm không kịp mua.
- Sao vậy?
- Ông Năm nghe yên yên một cái là ông Năm lật đật đi mua mấy thứ thiết yếu rồi về ngay, không kịp mua sách truyện. Còn vải vóc này là ông Năm mua trước.
- Vậy là cháu cứ phải bịa chuyện mà kể nữa.
Ông Năm cười:
- Ai chứ Cát Tường thì đâu có lo. Cháu có tài kể chuyện, đặt bài hát, không ai bằng. Ông Năm nhớ nhất là chuyện Quy-Li-Ve nè.
- Chuyện đó của người khác viết ra mà ông Năm, không phải Cát Tường đặt.
Rồi Cát Tường lại liên tưởng đến Trúc. Giờ này Trúc còn ở bên nhà nguyện, chắc đang hàn huyên với Cha Đạo về chuyến đi sắp tới. Một chuyến đi như mọi chuyến giã từ của anh, giã từ một nơi nào đó mà anh đã đi qua. Cát Tường xếp tấm vải hoa lại, nhè nhẹ thở dài. Anh có bao nhiêu chuyến đi như vậy trong cuộc đời rồi. Dù là một quận nhỏ, một buôn nghèo hẻo lánh, hay một làng cô nhi nhỏ như ở đây, cũng thế thôi. Tất cả chỉ là nơi tạm trú cho bước chân bận rộn. Những cuộc giã từ sẽ giống như nhau, dù cuộc giã từ đó bắt đầu bằng lúc anh lên một chiếc quân xa, một chiếc phi cơ hay chiếc xe già lão của ông Năm, cũng vậy thôi. Những cảm nghĩ của anh, nếu có, cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Một chút luyến tiếc, một chút nhớ, rồi chắc cũng qua…. Nhưng đã có nơi nào anh dừng chân lại, có một Cát Tường như ở đây? Có nơi nào vương vấn theo anh một mối thương mến dạt dào như nơi đây? Chắc cũng có, nhưng chắc cũng không. Đâu có nghe anh nhắc gì đến một cô gái ở quận nhỏ, một cô gái ở buôn nghèo. Vậy thì tên Cát Tường, mai mốt cũng bị quên như người ta quên tựa một bài hát cũ. Ô, lại một điều làm tim nhói đau, làm mắt buồn buồn. Nhưng có trách anh được không, khi mà anh vẫn còn mang nhiều món nợ? Mai mốt tấm thân đó lại dấn vào gió bụi, vào nắng mưa, với mảnh thẻ bài kim khí còn đeo trên cổ…
- Cát Tường à!
- Dạ ông Năm kêu cháu?
- Nghĩ gì mà thừ người ra đó? Kỳ này ông Năm có mua nhiều thịt, vậy ngày mai cháu có quyền làm thịt hai con gà còn lại nghen!
- Dạ, ngày mai cháu sẽ đãi ông Năm ăn ngon, tại vì ông Năm còn phải đi lên tỉnh nữa.
- Ông Năm sẽ về ngay, sau khi đưa cậu Trúc tới trình diện đơn vị.
Cát Tường chớp mắt, nói:
- Ông Năm, nhớ mua truyện.
- Ừ, ông Năm không quên nữa đâu. Mà này, sao cháu buồn vậy, Cát Tường?
- Dạ, đâu có gì buồn, ông Năm!
Nói thế rồi Cát Tường quay mặt đi, như sợ một giọt nước rơi vào làm tràn ly nước đầy. Đừng ai hỏi han gì về nỗi buồn, vì sẽ làm nước mắt chảy ra đấy! Cát Tường uể oải đứng lên. Chưa bao giờ thấy mình rời rạc như thế này. Vì ngọn gió độc của mùa màng? Vì sự chờ đợi một cuộc chia tay chắc chắn phải đến?
- Cháu về phòng nghen ông Năm! Đêm nay ông Năm ngủ với anh Trúc ha! Để cháu sửa giường lại.
Cát Tường trải chiếc chiếu thẳng ra, và đặt chiếc gối lên đó. Chiếc gối của ông Năm, bây giờ phải trả về cho ông Năm. Còn Trúc… Cát Tường cau mày, ngẫm nghĩ… Không lẽ bắt Khánh phải nhường gối cho Trúc? Hay là… thôi, ta lại đem chiếc gối của mình sang đây cho Trúc vậy. Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa, người đã xa lìa nơi đây rồi.
- Thưa ông Năm cháu về.
- Ừ cháu về ngủ đi! Ông Năm cũng ngủ sớm. Mệt quá! Cháu cứ khép cửa lại. Ông Năm chờ cậu Trúc.
Cát Tường bước ra, khép cửa hờ. Ánh sáng bị ngăn lại sau cánh cửa. Bước xuống thềm, Cát Tường nghe gió lành lạnh – gió của những ngày cuối năm. Gió thổi không biết từ đâu, phía đường cái, dưới rừng rẫy hay từ nhà nguyện? Nhưng một nỗi gì vây quanh nghe lạnh quá! Cát Tường nhìn qua phòng học. Ánh đèn đã tắt tự bao giờ. Có lẽ Hậu và Nhu Mì cũng đã thôi không học nữa. Cảnh vắng lặng khiến Cát Tường rùng mình. Kỳ lạ quá! Một nơi từ bao lâu hằng yên ổn, thế mà hôm nay mình lại thấy sợ. Cát Tường bước nhanh về phía nhà nguyện. Ở đó còn thấy ánh đèn.
**
- Ai đó?
Tiếng Cha Đạo hỏi vọng ra khi bước chân của Cát Tường dừng lại trên thềm. Cha đã già nhưng quả thật tai Cha rất thính. Cát Tường lên tiếng:
- Thưa Cha, Cát Tường đây ạ!
- Vô đi con!
Cánh cửa mở ra. Cát Tường bước vào nhà nguyện. Ánh sáng lung linh của bạch lạp đủ cho thấy Cha Đạo và Trúc ngồi ở hai chiếc ghế ngay trước tượng Thập tự giá. Cát Tường rón rén đi tới.
- Con chưa ngủ à?
- Thưa Cha, chưa ạ.
- Còn ông Năm?
- Dạ ông Năm đã ngủ. Con sắp chỗ cho ông Năm rồi.
Cha Đạo chỉ một chiếc ghế, bảo:
- Cát Tường, con ngồi ở đây đi!
- Thưa Cha, Cha đang nói chuyện với anh Trúc, cho con ngồi ở dưới kia.
Trúc nói:
- Không, Cát Tường cứ ngồi đây. Cha và anh muốn nói với Cát Tường một chuyện.
Cát Tường ngồi xuống. Yên lặng một lúc, rồi Cha Đạo mở lời:
- Cha và anh Trúc vừa mới nói về chuyện anh Trúc sắp lên tỉnh với ông Năm. Ngày mai thì gấp quá, ông Năm còn phải nghỉ ngơi nữa. Vì vậy anh Trúc định là ngày mốt.
- Dạ.
Cát Tường dạ, rồi cúi mặt. Ngày mốt! Chỉ hai chữ mà làm se thắt lòng. Việc gì đến sẽ đến, mà sao vẫn thấy mắt cay cay? Cát Tường muốn giấu mặt đi như ban chiều muốn biến mất trên đỉnh đồi.
- Cát Tường, con sao vậy?
Không nghe trả lời, Cha Đạo lại hỏi:
- Con khóc à?
- Thưa Cha… không…
Nhưng lời nói nghẹn ngào chẳng che giấu được. Cha Đạo vẫn ôn tồn:
- Con nghe nè, Cát Tường! Ngày mốt anh Trúc đi, anh ấy vừa mới đề nghị với Cha một chuyện. Nhưng Cha bảo rằng việc này phải tùy ở con quyết định.
Cát Tường không nghĩ đến việc che giấu mấy giọt nước mắt vừa mới tuôn ra, ngước mặt lên, ngạc nhiên:
- Thưa Cha, việc gì ạ?
- Trúc đề nghị Cha cho con lên Sài Gòn.
Cát Tường mở lớn đôi mắt nhìn Cha Đạo, rồi nhìn Trúc, tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, âm thanh còn in lại trong óc rõ ràng lắm.
- Cha biết việc này khá đột ngột đối với con. Với Cha cũng vậy. Nhưng nghĩ cho cùng thì không có gì lạ lùng cả. Cha để tùy ý con.
Cát Tường ngỡ ngàng nhìn Trúc. Trúc nói:
- Anh mới thưa với Cha là anh muốn nhận Cát Tường làm em nuôi thật sự của gia đình anh. Cha đã bằng lòng. Nếu Cát Tường cũng chịu, thì ngày mốt, Cát Tường sẽ theo ông Năm và anh lên tỉnh.
Cát Tường bàng hoàng:
- Ngày mốt? Ngày mốt sao?
Cha Đạo nói:
- Cha định thế này: ông Năm chở hai con lên tỉnh. Trúc thì trình diện ở đơn vị, còn Cát Tường theo ông Năm đến nhà dòng, các Cha sẽ lo cho con một nơi ở tại nhà của người quen. Khi nào Trúc có thể về Sài Gòn được, con sẽ được các Cha đưa về Sài Gòn, đến tận nhà của Trúc. Nếu một khi con yên nơi yên chỗ rồi, các Cha sẽ trở về.
Cát Tường xúc động:
- Cha… lo cho con nhiều quá! Nhưng con biết làm gì khi lên Sài Gòn?
- Con sẽ đi học. Cha viết thư gửi gắm con cho nhà dòng.
Trúc tiếp lời:
- Khi Cát Tường đã vào ở nhà anh rồi, anh sẽ lo cho Cát Tường tất cả. Mẹ anh thương anh lắm. Mẹ và các em anh chắc chắn sẽ yêu mến Cát Tường
Cha Đạo hỏi:
- Đó là phần Cha và anh Trúc lo, mới bàn với nhau thôi. Còn ý kiến của con ra sao, con hãy nói cho Cha nghe.
- Thưa Cha…
Cát Tường muốn khóc quá! Giờ phút này không biết là mình sung sướng hay buồn khổ. Mình sắp lìa xa nơi này sao? Mình sắp tham dự vào một cuộc sống mới mẻ sao? Mình sẽ được hưởng những hạnh phúc đơn giản mà tưởng khó xảy ra với mình – sớm có áo trắng tung tăng, chiều có nghe lời mẹ gọi. Nhưng còn một điều nữa, to lớn hơn, hạnh phúc hơn, đó là được gần con người mà mình yêu thương. Có ai không mơ ước một điều như thế? Có ai nỡ khước từ một dịp như thế? Cát Tường ngỡ như đang nhìn thấy qua làn nước che mờ đôi mắt, một cảnh sống rộn ràng vui tươi ở thành phố xinh đẹp của Trúc, mà một cô gái như mình chưa hề đặt chân đến, cũng chưa dám mơ tưởng đến.
- Cát Tường, con nghĩ thế nào?
- Thưa Cha, con … con rất… mừng…
Cha Đạo và Trúc nhìn nhau cười. Cát Tường rưng rưng:
- Nhưng… xa các em…
- Cha biết, con sẽ nhớ, sẽ buồn. Nhưng nghe lời Cha đi, rồi con sẽ quen với đời sống mới. Con dù sao cũng đã lớn. Cha muốn con được sống bình thường như những người con gái khác. Hiểu Cha không?
- Dạ, con hiểu. Nhưng ai sẽ săn sóc các em?
- Đã có Khánh. Còn Diệu và Thương nữa, chúng nó cũng đều lớn cả. Con đi trước, khi nào tình hình sáng sủa hơn, Cha sẽ đem các em về thành thị.
Cát Tường nhìn Cha Đạo, muốn nói một lời nào đó. Nhưng bóng tối làm cạn khô ý nghĩ, sự vắng yên làm ngưng đọng cảm giác. Trong đôi mắt của Cha Đạo, đêm xuống đã vô cùng.
Chương 10
- Khi đến Sài Gòn chị sẽ tìm mua ngay một thứ rất đặc biệt của xứ đó, chị gửi cho ông Năm để ông Năm đem về cho bé. Chị sẽ mua nhiều sách truyện nữa chứ! Anh Khánh sẽ kể cho các bé nghe. Chị Diệu kể cũng hay nữa. Bé thích nghe ai? Hay là chị Thương? Chị sẽ viết thư cho bé, gửi cho nhà dòng, rồi khi nào ông Năm lên tỉnh mua sắm hàng tháng, ông Năm đem về, bé chịu không? Chịu đi nhé!
Cát Tường cầm bàn tay của Nhu Mì áp vào má mình. Nhu Mì vẫn nhìn không chớp trang giấy đang vẽ dở dang một ngọn đèn cầy. Đôi mi mắt như ẩn giấu một nỗi buồn, nhưng chiếc miệng đang cố gắng cười một nụ. Cát Tường thì thầm như nói cho chính mình nghe:
- Chị đi với ông Năm, với anh Trúc. Ông Năm đưa anh Trúc tới chỗ có đơn vị của anh ấy rồi đưa chị đến nhà dòng. Nhớ không, nơi mà Cha có một lần cho tụi mình đến thăm đó! Chắc bé không nhớ đâu, lúc đó bé mới ba tuổi, nhỏ xíu hà. Không hiểu gì hết hở? Chị nói chuyện khác nhé! Anh Trúc thương chị lắm, muốn chị về ở trong gia đình anh ấy. Sao kỳ vậy hở? Chị cũng không biết nữa. Chị thương anh ấy…
Đôi mi ngây thơ tự dưng chớp nhanh, Nhu Mì vẽ lên trang giấy một giọt nến chảy xuống. Một sự việc không liên quan gì đến thực tế nhưng cũng làm Cát Tường nghe nao nao trong lòng. Cát Tường càng nói khẽ hơn:
- Chị thương anh ấy, Nhu Mì ạ! Thương… không giống như thương bé Nhu Mì đâu! Bé hiểu không? Khác nhau thế này nè: thương bé, hay thương các bé, hay thương Cha, mỗi khi nhìn thấy người đó mình muốn đến nói chuyện thật nhiều, hỏi han thật nhiều. Còn… thương anh Trúc, mỗi khi thấy anh ấy… mình lại muốn bỏ chạy. A, mà chỉ cần nghĩ đến thôi, mình cũng đã thấy kỳ lạ trong lòng. Bé hiểu gì không? Khó hiểu quá hở? Khó cắt nghĩa quá! Thôi, bỏ chuyện ấy đi. Bé hãy vẽ cho xong.
Giọt nến đã chảy đến tận chân đèn, không lan ra, mà đứng yên ở đó. Hai con mắt bé Nhu Mì trở thành hai vũng nến lạnh. Tờ giấy bị gấp lại làm đôi. Bé Nhu Mì buồn bã đứng dậy, rời bàn học đi ra ngoài. Cát Tường bước theo. Ở ngưỡng cửa, hai chị em đứng lại. Không biết lời gì để nói. Cát Tường biết là sẽ buồn như thế này. Nhưng có làm gì hơn? Vì ngày mai, không còn thấy các bé, không còn thấy cha Đạo. Ngày mai bước chân đi, như bước chân ra đời. Lâu nay Cát Tường sống như nhà tu. Mặc dù chưa thuộc làu kinh sách, chưa phải khoác áo đen, nhưng tình cảm khô gọn có khác gì nhà tu. Ngày mai bước chân ra đời! Một điều thật nôn nao mà cũng thật buồn bã, vì biết khi đó không còn thấy lại các em thơ. Nhưng ta đã đến lúc được lựa chọn. Giữa một cuộc sống vốn đã bình lặng và một món quà mới lạ, ta phải lựa chọn. Chúa đã cho mình cái quyền được quyết định cho cuộc đời mình. Và cũng chính vì Chúa đã đem đến cho con – người ấy – món quà đầy tình thân. Chúa đã sắp đặt mà! Nếu không, sao lại cho người sống sót, sao lại khiến đàn trẻ đem người về, sao lại cho người thoát hiểm trong một đêm tối, sao lại cho người muốn nhận con vào gia đình người? Cám ơn rừng xanh. Cám ơn chiếc xe chở củi và đàn em nhỏ. Cám ơn Cha Đạo. Cám ơn Trời Đất huyền vi. Con đã thấy, trên mặt đất này, chẳng một ai bị bỏ rơi, dầu kẻ đó là con, sống ẩn giấu sau chiếc màn bằng cây lá.
Chiều đổ xuống từ phía rẫy khoai. Nắng vương vãi trên từng cọng cỏ. Không gian đang giành giật giữa màu vàng với màu xám. Lúc này Cát Tường mới nhận thấy một điều, là cảnh vật lúc nào cũng vui vẻ. Vui vẻ cả những lúc bóng tối đã bao phủ cả làng cô nhi. Thật thế, phải nhớ rằng xung quanh làng cô nhi - hay cái xóm cô nhi bé nhỏ này - còn có nhà cửa, có dân cư, dù chẳng thấy nhau nhưng mà có đó. Cũng như đêm đến là để chờ một sáng. Vì vậy, có phải đời lặng yên bao lâu nay là sửa soạn cho một chuyến đi ngày mai? Ôi! Chuyến đi! Vô vàn niềm cảm xúc chan hòa trong tim... Đêm hãy xuống mau, chờ mai sáng lên đường.
Khánh đến từ nhà cơm, nói:
- Chị Cát Tường, các bé đã tụ tập đủ. Chị với bé Nhu Mì qua ăn cơm luôn. Anh Trúc có ăn không?
- Anh Trúc còn ở bên nhà nguyện. Các em ăn trước với chị.
Quay sang Nhu Mì, Cát Tường nói:
- Đi, bé!
Nhận thấy vẻ ủ dột trên mặt Nhu Mì, Cát Tường ái ngại hỏi:
- Sao vậy? Không muốn đi với chị hả? Giận chị chuyện gì đây?
Nhu Mì lấy ngón trỏ phải vẽ lên lòng bàn tay trái. Cát Tường hỏi:
- Bé muốn vẽ nữa? Hay muốn viết. Đi ăn cái đã. Tối nay chị sẽ thức nhiều với bé. Còn bây giờ, chị muốn bé ăn món cơm thịt gà chị nấu chiều nay. Ngon lắm.
Ba chị em vào nhà cơm. Đàn trẻ đã ngồi yên trên ghế. Bước vào phòng, gặp ngay đôi mắt của Hậu nhìn Cát Tường không chớp. Một sự gì là lạ trong cái nhìn ấy. Cát Tường tự hỏi như thế rồi giải thích được ngay. Bởi vì những đôi mắt của Hiền, của Lương, của Ngoan, của Diệu, của tất cả… đều có vẻ là lạ. Nghĩ thế rồi Cát Tường tự cười mình. Chắc tại chính mình đã thấy lạ nên cái gì xung quanh cũng mang vẻ khác thường. Chờ cho Nhu Mì vào chỗ, Cát Tường nói lớn:
- Chiều nay các bé ăn món cơm gà của chị nấu. Sáng mai chị đi lên tỉnh, không còn ở đây nữa, các bé đã biết rồi. Vậy các bé ăn cơm đi, rồi chị em mình chơi trò chơi với nhau.
Trẻ nhỏ xôn xao hỏi:
- Anh Trúc đâu, chị? Quy-Li-Ve đâu?
- Anh ấy ở bên nhà nguyện, nói chuyện với Cha.
- Ông Năm đâu?
- Ông Năm chưa ăn bây giờ. Ông còn đang sửa xe để sáng mai đi. Các bé hãy ăn với chị.
Những đôi mắt nhìn nhau, rồi nhìn lên Cát Tường. Những hòn bi phản chiếu một sự chờ đợi. Rồi không thấy Cát Tường nói gì cả, những cái miệng tự động mở ra, hát:
- “Là nai đàn nên nhường nhau miếng cơm
Là chim bầy nên chia nhau miếng khoai
Giờ cơm đến rồi
Giờ cơm đến rồi….”
Lời hát ngân ra làm Cát Tường ngơ ngẩn: mình đã quên không bắt giọng và bắt nhịp cho các bé hát, nên chúng phải tự động cất tiếng. Những lời hát hỗn độn, không hòa hợp. Rồi sau đó, những mái đầu cúi xuống trên bát cơm nóng.
Bữa ăn qua nhanh, rồi nai đàn tụ tập trước sân, đứng thành hàng đôi. Cát Tường muốn nghĩ ra một trò chơi mới để vui với đàn trẻ. Nhưng cũng những đôi mắt là lạ ấy khiến Cát Tường bâng khuâng. Muốn biết các bé nghĩ gì từ lúc nghe Cát Tường sẽ đi. Tin loan ra vào bữa ăn trưa, do Cha Đạo nói. Trước mặt Cha khi đó, những gương mặt không dám biểu lộ gì. Nhưng buổi chiều nay, có một nỗi gì đè nặng không khí của bữa cơm. Chính Khánh, người ăn khỏe nhất, hôm nay cũng chỉ ăn có một chén. Có một sự ngầm đồng ý với nhau, là không nói gì hết - ở những đôi mắt kia, Cát Tường đã đọc được. Nhưng tại sao phải như thế? Nói đi các bé! Nói một điều gì đi, tỉ như: chị hãy mua truyện cổ tích gửi về cho anh Khánh kể… Sao những gương mặt linh hoạt kia đang trở thành nghiêm nghị, xa lạ với nhau? Ôi, một sự thay đổi lạ lùng quá! Chị không muốn thế.
- Các bé hãy nghe này! Chị dặn một chuyện: Chiều nay, tối nay, chị em mình chơi với nhau. Các bé muốn chơi trò gì chị cũng chìu hết. Mai sáng chị đi sớm lắm. Các bé cứ ngủ nhé, đừng thức dậy Cha rầy.
Cát Tường dừng lại, nhìn một loạt bầy trẻ. Cũng một sự im lặng kỳ lạ trải ra khiến không khí có vẻ căng thẳng.
- Chị sẽ về thăm các bé khi bãi trường. Chị sẽ tìm mua nhiều sách truyện gửi về cho Khánh, Diệu và Thương kể cho các em nghe. Chị sẽ…
Cát Tường im bặt. Sự im lặng của các bé đồng nghĩa với sự buồn bã. Nắng tắt hết trên ngàn cây lá. Một bầy chim lả tả bay về phía bên kia nóc nhà nguyện. Vài đứa trẻ ngơ ngẩn nhìn theo…
- Chị muốn chiều hôm nay, các bé hát cùng với chị tất cả những bài hát mà chị đã dạy. Nhớ không? Đầu tiên là bài “Cha em”, các bé hát nào, “Em thương Cha em lắm, người cha tóc trắng…”
Hai mươi hai cái miệng, hai mươi hai giọng hát cất lên. “Cha em như ánh nắng, chiếu ấm đời em. Cha mặc áo màu đen, nhưng tim Cha sáng hơn ánh đèn…” Cát Tường nhắm mắt lại, hồ như trong bóng tối thấy rõ được thời ấu thơ. Thời yên ấm đó chấm dứt khi con tim biết khóc gào những lời nức nở. Rồi Cha đến. Trên sân vuông vắn của viện cô nhi nhỏ bé, Cha hỏi: “Con muốn ở lại đây không?”…. Sáu năm trôi qua, đời sống là một trang giấy viết đều đặn như nét chữ của Nhu Mì. Rồi Cha hỏi: “Hiểu Cha không? Cha muốn con được sống bình thường như những người con gái khác”.
- Nhớ gì không các em? Sáng sáng anh Khánh dẫn các em đi lượm củi. Có bài hát gì nào? “Nào anh em kéo củi về làng….”
“Nào anh em, nào anh em….” Tiếng hát ở trên sân, mà như vang đến từ cuối rẫy. Mãi mãi không quên nghen các em! “Mặt trời lên lung linh ánh vàng. Dưới mặt trời , ta sẽ thấy đời bằng an”. Vì hôm đó, người đã đến – Quy-Li-Ve của chúng ta. Người mạnh mẽ, người khoan hòa và dịu ngọt lắm. Hát mừng người nhé! “Người đã đến như Quy-Li-Ve, giấc ngủ ngon. Người nào biết vây quanh, vây quanh, bầy tí hon…” Biết gì không? Từ lúc có người, bao nhiêu sự đổi khác đã xảy ra trong lòng chị. Cái dáng người ngồi, dáng người đi, dáng người cúi mình trên luống đất, dáng người cuốc xới dưới rẫy khoai, dáng người trầm mặc trong nhà nguyện… tất cả đều gây động như hình ảnh người mệt lả nằm trên chiếc xe chở củi. Biết gì không? Đó là hình ảnh của một người rất thân mến, tự thuở nào, hay chỉ bắt đầu hôm đó? Lẩm cẩm quá! Xa vời quá! Ngày mai chị bước chân ra đời, thật thế. Chị sẽ đơn độc lắm, nhưng chỉ một thời gian thôi, rồi sẽ mãi mãi bên người… Tiếng hát chấm dứt rồi nhưng tâm trí Cát Tường còn lâng lâng.
- Các bé nghe này! Từ ngày mai, các bé phải nghe lời anh Khánh như nghe lời chị vậy nhé! Buổi sáng khi anh Khánh dẫn các em trai xuống rẫy, các em gái phụ chị Diệu tưới rau, hay giúp chị Thương nấu cơm. Mỗi bữa phải nhớ mang cơm qua cho Cha trước, ông Năm cũng vậy. Ba ngày phải lau chùi nhà nguyện một lần. Phòng ngủ, phòng học, nhà cơm phải thường xuyên quét dọn sạch sẽ. Cần thưa việc gì cứ đến với Cha, nhưng tránh đừng xáo trộn giờ Cha tĩnh tâm. Phải khuyên nhủ nhau, đừng gây gỗ xích mích...
- Dạ.
Lũ trẻ thật ngoan! Cát Tường nghĩ thế, rồi tiếp:
- Xem nào… À, sáng thức dậy nhớ đọc lời tâm niệm trước khi ăn điểm tâm. Tối phải ngủ sớm. Chị giao tủ thuốc cho Thương. Bé nào bệnh phải nói ngay. Trợt té hay đứt tay phải nhớ xức thuốc.
- Dạ! Dạ!
Cát Tường ngẫm nghĩ… Những điều căn dặn đã quá tỉ mỉ, chắc như vậy cũng đủ rồi. Chỉ còn thiếu những điều như… ăn phải nhai, ngủ phải nhắm mắt nữa thôi.
- Bây giờ, các bé nghe nè! Chị em mình chơi một trò chơi. Các bé muốn chơi gì?
- Mèo bắt chuột.
- Chuyền vòng.
- Bỏ khăn.
- …
Chờ cho trẻ bớt xôn xao, Cát Tường nói:
- Ta chơi bỏ khăn vậy. Đợi chị một lát, chị vào phòng thuốc lấy cái khăn.
- Nhanh lên nghen chị. Bỏ khăn khăn bỏ khăn chuyền, ba cô bốn cậu đi tìm cái khăn.
Để lũ trẻ nhỏ đứng đó, Cát Tường chạy nhanh đi. Ở trong phòng thuốc, lúc một mình lui cui tìm mảnh giẻ làm khăn, Cát Tường nghe tiếng động sau lưng. Bé Hậu rụt rè đến bên cạnh. Cát Tường hỏi:
- Chi đó Hậu?
- Dạ… chị ơi….
- Em cần gì không?
Và nhìn lại, Cát Tường bắt gặp ánh mắt là lạ của thằng bé Hậu giống như lúc ở nhà cơm.
- Có chuyện gì đó Hậu? Em cứ nói đi!
- Chị…
- Sao em?
- Em nói… chị đừng rầy em nghen!
- Hả?.... Ừ, chị không rầy đâu. Nhưng có chuyện gì?
- Em… em muốn nhờ chị đưa giùm cho anh Trúc cái này. Chị nói với anh ấy là không phải em cố ý lấy cất giữ, mà tại vì… em không biết đọc chữ…
Cát Tường không hiểu:
- Mà cái gì vậy?
Bé Hậu ấp úng:
- Cái hộp…, em lượm được ở bìa rừng, chỗ anh Trúc nằm ngất đi. Hôm ấy, các anh kéo anh Trúc đi trước, em theo sau, lượm được cái hộp này. Em thấy nó đẹp, nhưng em không biết là của anh ấy, nên em cất đi.
- Rồi tại sao bây giờ…
- Chị ơi, hôm qua chị dạy em, em đánh vần được chữ “Trúc”, em mới biết. Trên hộp này có tên anh ấy. Chị đừng la em nghen! Tại … em dốt…
Cát Tường bật cười:
- A, chị hiểu rồi. Đó, chị khuyên em hoài, phải học đi, chứ có chữ “truyền” đọc cũng không ra, chữ “trúc” đọc cũng không ra. Đâu, đưa chị xem, cái hộp gì vậy?
Bé Hậu lấy một vật nhỏ trong túi áo ra, nhưng chưa chịu đưa, nói:
- Chị nhớ nói anh ấy đừng giận em nghen!
- Anh ấy không giận đâu. Đưa cho chị đi.
Hậu đưa cho Cát Tường một cái hộp nhỏ hình trái tim, rồi chạy ra ngoài. Cát Tường lẩm bẩm:
- Của anh Trúc!
Thật thế, trên nắp hộp có khắc tên của Trúc. Cát Tường mỉm cười, rồi mở hộp ra. Trong trái tim nhỏ nhắn ấy chỉ vỏn vẹn có tấm ảnh của một người con gái. Một khuôn mặt hiền ngoan nổi bật lên với màu áo vàng. Ở góc phải của tấm ảnh, hai chữ “Hồng Phước” được viết thật nhỏ. Khi Cát Tường chạm đến, chút keo dán lâu ngày tróc ra, làm bức ảnh lệch đi. Cát Tường lật sau lưng tấm ảnh, và đọc được một dòng chữ viết…
Chiếc hộp được đóng lại. Và trái tim nhỏ nhắn dễ thương ấy được Cát Tường nâng niu bằng bàn tay run rẩy, áp vào ngực, nơi đó có con tim của mình đang muốn khóc òa.
|
|
|
06-23-2020
|
#115
|
R9 Tuyệt Đỉnh Tôn Sư
Join Date: Jan 2013
Posts: 37,942
Thanks: 81,070
Thanked 56,786 Times in 24,153 Posts
Mentioned: 430 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 10758 Post(s)
Rep Power: 76
|
Tủ sách Tuổi hoa "Còn dấu chân người" Chương 11 - 12 Hết
Chương 11 Bước thật nhẹ vào căn phòng, Trúc nhìn thật kỹ một lần cuối những gương mặt thân quen. Ánh đèn mờ nhạt không làm Trúc thấy rõ từng đứa, nhưng Trúc không muốn đem ánh sáng vào làm thức giấc lũ trẻ. Trúc nhìn qua những chiếc mùng sậm màu, ở đó thấy lại những đôi mắt, những bàn tay, mà suốt những ngày qua đã đem đến cho mình tiếng cười. Sự việc đó xảy ra thật, nhưng quả giống chiêm bao.
Đây là một làng cô nhi, như mọi làng cô nhi, nhưng phải chăng cũng là một xứ sở gồm những thần dân nhỏ biết yêu thương và biết cho nụ cười. Là xứ tí hon. Là nước “Chim Chích”. Còn ta là Gulliver. Ở đây ta được hưởng tràn trề những đãi ngộ. Không phải thịt cừu, rượu vang, mà cơm ghế khoai và nước lạnh. Không phải chiếc giường vương giả, mà tấm mền cũ, chiếc gối độn rơm. Nhưng tất cả đó là ân sủng của đấng thiêng liêng đã ban cho.
Những đôi mắt nhắm kín. Những bàn tay đặt ngoan ngoãn trên gối, trên mền. Thôi, giã từ nhé, nước tí hon đáng ỵêu! Những ngày sắp tới anh sẽ sống lại cuộc đời của anh. Chắc lại tiếp nối bước chân bận rộn. Nhưng cái hân hoan to lớn nhất là được gặp lại người thân, nhìn lại những khuôn mặt mà cách nay nửa tháng – khi nằm trong khu rừng nhỏ, anh đã tưởng như không còn bao giờ gặp lại. Là mẹ thân yêu, là các em thương mến, là Hồng Phước với màu áo vàng rực rỡ. Là phố phường vui vẻ tấp nập. Là bạn bè anh, những người còn sống.
Một đôi mắt mở lớn nhìn Trúc. Đôi mắt của bé Nhu Mì. Nhưng cái miệng xinh xinh như là biếng cười. Nhu Mì thức giấc tự lúc nào, ngồi trên giường. Trúc cúi xuống, nhìn đứa bé xuyên qua lớp mùng vải. Trong đôi mắt chứa chan những điều buồn bã tội nghiệp. Tự nhiên một niềm xúc động ùa đến thật mạnh mẽ, Trúc nói nhỏ:
- Bé không ngủ tiếp đi?
Nhu Mì lắc đầu. Trúc nói:
- Anh đi, nha bé!
Đứa bé gật đầu.
- Bé viết gì cho anh đi!
Một cái lắc đầu nữa. Đôi mắt Nhu Mì nhíu lại như không muốn nói thêm một điều gì. Trúc nhìn đứa bé thật lâu. Sự im lặng làm không khí trĩu xuống. Và cho đến khi có tiếng ông Năm gọi khẽ:
- Cậu Trúc! Xe đã sẵn sàng, cậu ra đi!
Trúc đành phải quay ra.
**
Cha Đạo ân cần nắm lấy bàn tay Trúc, nói:
- Cha chúc con gặp được vạn sự lành.
Và vuốt mái tóc Cát Tường, Cha cười nhẹ:
- Còn Cát Tường đây, Cha xin gửi gắm cho gia đình con. Cha mong nó sẽ hưởng được mọi thứ tình thương mà nó mong ước.
Rồi chừng như nhận thấy câu nói của mình có vẻ khách sáo quá, Cha Đạo mỉm cười yên lặng, nhìn Trúc và Cát Tường vào xe.
Cát Tường run run nói:
- Thưa Cha…
- Chi con?
Giọng nói trở nên ướt sũng:
- Con…
- Ừ, con đi bình an. Nhớ viết thư cho Cha.
- Dạ… Nhưng mà, thưa Cha…
Cát Tường nghẹn ngào. Trúc đang nói với Cha Đạo những lời tri ân và từ giã, nhưng Cát Tường nghe không rõ tiếng nào.
Ông Năm mở máy xe. Tiếng máy làm xao động không khí yên tĩnh của buổi sớm mai. Cái bóng áo đen của Cha Đạo quyện đầy khói, trắng mờ như mái tóc. Cát Tường quay đầu nhìn về phía nhà ngủ. Xem kìa!!! Tiếng máy xe rộn ràng đó đã khiến một cánh cửa sổ mở ra, hai ba cái đầu trẻ thơ xuất hiện. Có một nét hốt hoảng in trên gương mặt dại khờ. Rồi từ hai khung cửa, những bước chân cuống quít chạy ra. Đám trẻ nhỏ chạy theo xe ông Năm, vừa vẫy , vừa ríu rít lời chào từ giã. Cát Tường bấu bàn tay vào kính cửa, mà người cứng ngắc như tượng đá, trong khi Trúc đưa tay vẫy chào với bầy trẻ. Cát Tường thấy cánh cổng lùi lại sau lưng. Có tiếng chuông leng keng… leng keng… Rồi Cát Tường bỗng như nghe trong tiếng chuông đó, có vang vọng tiếng cười vui của những người được gặp gỡ. Ở đâu đây có nỗi mừng tủi của những kẻ thương yêu nhau. Mà trên đám cỏ xanh có một cội cây cô độc, trong những tiếng reo vui có lẫn một nốt nhạc buồn.
Con đường nhỏ dẫn ra lộ lớn ngắn dần, ngắn dần… Đến lúc thấy trước mắt là cái mặt đường quang đãng, khá phẳng phiu, Cát Tường nhỏm người dậy. Bây giờ mới thật sự hốt hoảng. Cát Tường kêu lên:
- Ông Năm! Ông Năm!
- Cái gì đó?
- Ngừng lại! Ông Năm ơi, ngừng lại!
Ông Năm thắng xe ngay. Két!!! Cả Trúc và ông Năm đều ngạc nhiên. Ông Năm hỏi:
- Chuyện gì vậy, Cát Tường?
Cát Tường mở cửa xe, bước xuống đường. Trúc lo lắng:
- Cát Tường, sao thế?
Cát Tường nói thảng thốt:
- Cho em về! Ông Năm, cho cháu trở vào!
Ông Năm ngơ ngác:
- Kìa, sao lạ vậy cháu?
Đôi mắt Cát Tường đỏ hoe. Cát Tường nói cứng ngắc:
- Ông Năm đưa anh Trúc đi tiếp đi, cho cháu ở lại.
Rồi Cát Tường quay mặt. Trúc xuống xe, đến bên Cát Tường, hỏi vội:
- Cát Tường, nói cho anh nghe, có chuyện gì?
Cát Tường đứng dưới một tàn cây. Cả hai gương mặt đều chìm vào bóng mát – không, là bóng tối, bởi vì mặt trời buồn bã còn chưa muốn chiếu sáng. Nhưng trong bóng tối ấy, đột nhiên Trúc đã nhìn thấy được Cát Tường – một Cát Tường không giống như Cát Tường những ngày qua. Đó là sự linh cảm, nhưng Trúc chắc chắn sự linh cảm của mình đúng.
Trong bóng tối chỉ có đôi mắt hiện rõ, long lanh. Và giọng nói như phát ra từ hai đáy nước đó:
- Em phải ở lại. Em đã thấy rồi, em không thể sống thiếu Cha Đạo…
- Cát Tường!???
- Em không thể sống thiếu bé Nhu Mì, thiếu Khánh, thiếu Hậu….
- Nhưng anh muốn…
- Cám ơn anh. Em đã bỏ một dịp để được sống bình thường. Nhưng… ở đây, em có đầy đủ…
Cát Tường nghẹn lời. Rồi lấy trong túi ra chiếc hộp hình trái tim, Cát Tường đưa cho Trúc:
- Bé Hậu nhờ em đưa lại cho anh và xin lỗi anh giùm. Vì bé không đọc được chữ nên lượm được vật này mà không biết của anh để trả lại. Đây không phải… là lý do khiến em ở lại, mà nó chỉ giúp cho em có đủ lý do … để ở lại mà thôi. Em phải ở lại vì… vì em thương Cha, thương các bé của em…
Trúc bồi hồi:
- Cát Tường đã nghĩ kỹ chưa?
- Cả đêm hôm qua em đã không ngủ. Như vậy anh đừng lo là em quyết định vội vàng. Có điều… em đã đi theo với anh được một quãng đường, và em thấy rõ là… em không thể đi thêm được nữa.
- Anh có làm gì để buồn lòng Cát Tường không?
- Không, không bao giờ.
- Anh không yên tâm chút nào.
- Em luôn luôn giữ với anh một lòng quý mến.
Trúc cầm lấy chiếc hộp, và nhận thấy hai bàn tay của Cát Tường run run. Đúng là một Cát Tường bé nhỏ, yếu đuối và đa cảm – con người đó, đôi mắt đó, mái tóc đó, cái dáng mảnh mai hiền hậu đó… Chúa ơi! Nếu điều linh cảm của con là đúng, thì con là người có lỗi phải không? Thời gian mười mấy ngày trú ngụ ở làng cô nhi chưa đủ để con cảm nhận một điều tế nhị, nhưng phải chăng đã đủ nuôi dưỡng một tình yêu kín đáo và thánh khiết của một người con gái?
Trúc cất chiếc hộp vào túi áo. Cát Tường cúi đầu xuống, mái tóc che mất hai vực nước long lanh. Nhưng ở trên cành, bỗng có tiếng của một con chim muốn dậy sớm bắt sâu. Tiếng chim làm Cát Tường nôn nóng trở về. Vì ở đó, nơi trú ngụ yêu mến của mình, những con chim nhỏ chắc cũng đang bắt sâu cho một ngày mới mẻ.
- Anh Trúc đi bình yên. Em phải trở lại.
Hai bàn tay giá lạnh của Cát Tường bỗng ấm lên, vì bàn tay rắn chắc của Trúc đang nắm lấy.
- Anh xin lỗi Cát Tường, nếu anh đã làm gì cho Cát Tường buồn.
- Không. Em đã nói là không bao giờ.
Cát Tường cố giữ nét mặt thật bình tĩnh để Trúc yên lòng. Ông Năm đứng yên ở đàng xa, lắc đầu.
Trúc thở dài:
- Cha Đạo đã gửi gắm Cát Tường cho anh. Cát Tường đổi ý như vậy, anh rất áy náy.
- Em sẽ nói cho Cha nghe ý nghĩ của em. Anh Trúc hãy đi, chẳng còn thì giờ nữa đâu!
Cát Tường rút bàn tay ra khỏi bàn tay Trúc, nói lớn với ông Năm:
- Ông Năm đi đi! Nhớ mau về, mua cho cháu nhiều sách truyện.
Mặt trời đang ló những tia mắt đầu tiên. Sau hướng đó, người sẽ tiếp tục bước chân. Cát Tường quay lưng, bước đi như chính mình không điều khiển được. Không dám ngó lại nhìn người đang vào xe. Nhưng ở sau lưng, tiếng máy nổ rộn ràng. Và khói, khói ùa tới, quyện lấy đôi chân mình, mênh mông….
Chương 12 (hết)
Đường đất ngắn còn hai bước, và đã đến cổng rào.
Cát Tường đứng dừng lại ở đó, hai bàn tay chắp vào nhau, đặt lên cánh cổng ghép bằng đủ thứ cây gỗ. Nắng dội tràn hai vai. Trên cây, chim đang hát giùm những lời thương thân. Mà sao hai mắt khô cứng, thần trí đặc quánh lại như không còn ý nghĩ.
Chỉ cần mở cánh cổng này, những tiếng chuông leng keng sẽ vang lên, ít nhất cũng lan đến phòng học, để trẻ nhỏ biết rằng có người đến, có người trở về. Nhưng kìa! Hai mắt Cát Tường mở lớn, nhìn thấy sợi dây buông thõng trên cánh cửa rào. Không còn có chiếc chuông, ai đã cắt đi? Cánh cổng mở, nhưng không có tiếng leng keng… leng keng… Không gian lạnh ngắt. Những mái nhà hờ hững. Những lối đi im lìm. Mới ban nãy khi tiếng xe nổ dòn dã, đám trẻ thơ ùa ra từ nhà ngủ, những bàn chân tí hon cuống quít, những bàn tay nhỏ bé vẫy đưa. Mình trở lại, chắc các bé không ngờ. Có lẽ giờ này sắp bắt đầu ăn sáng. Cát Tường ngơ ngác bước qua luống đất ướt. Đám bắp cải đã vừa lớn. Đám lá hành đã vừa cao. Những năm sống ở đây bình thản quá, mình chưa có một hôm nào ngồi tưởng tượng một trận mưa bão vô tình làm nát úa cỏ hoa. Mà đến nay thì đã thấy, chỉ những dấu chân trên thềm kia – dấu chân êm ái và hiền hòa biết bao – đã làm cho cõi lòng bé nhỏ của mình có những vết hằn sâu đậm. Ôi! Người đã đến, như Quy-Li-Ve, giấc ngủ ngon; người nào biết vây quanh người, là cảm tình của ta, là đôi mắt của ta. Tội nghiệp ta quá, tội nghiệp người quá – những kẻ không gặp nhau ở một môi trường thuận tiện, ở một thời gian tốt lành. Có Chúa không? Sao Chúa đã đem người đến rồi để người đi? Có Chúa không???...
Cửa nhà nguyện đã mở! Hai dãy ghế dài hun hút. Có một người, một vị thần, hay một nhà hiền triết, ở đầu xa lắc đó. Người không phải đang ban tình yêu cho thiên hạ ư? Ta thấy rồi, Người đang vui vẻ dang tay trên Thập Tự Giá. Đinh đóng trên da thịt Người. Máu đổ từ huyết quản của Người. Là Chúa đó! Là câu trả lời cho con đầy đủ nhất, phải không?
Cát Tường run run bước tới, qua từng hàng ghế. Trước mặt Thập Tự Giá, cái hình hài thân quen đang lặng im như một chiếc bóng. Tấm áo đen cũng bạc màu như đất. Mái tóc trắng là hình ảnh cô quạnh nhất đời. Và đôi mắt, khi người quay lại, không phải là hai giếng khô hạn, mà đang rơm rớm lệ.
- Thưa Cha…
- Sao con trở lại? Con quên thứ gì à?
- Thưa Cha, không.
- Chứ sao vậy? Trúc đâu?
- Anh ấy đi với ông Năm rồi. Con muốn thế. Con muốn… ở lại đây.
- Tại sao?
- Vì con không muốn xa Cha… xa các bé…
Nói xong câu ấy, Cát Tường cảm thấy mình dối trá, bật khóc nức nở. Thật lòng ta như như thế chăng? Không muốn xa Cha, xa các bé, sao ta bằng lòng về một thành phố lạ? Thương cái làng cô nhi này, sao ta bằng lòng yêu quý người hơn? Khi đi đã là mâu thuẫn, khi về lại càng mâu thuẫn hơn. Ta đã tự lừa dối chính ta khi nói “vì thương Cha, vì thương các bé”.
Cha Đạo thở dài:
- Nhưng con đi, đâu có nghĩa là con không thương Cha và các em con đâu! Chính Cha, vì thấy con đã lớn, nên Cha muốn con có đủ những điều kiện để sống thật với điều mong ước của con.
- Con không mong ước gì cả.
- Con đừng giấu giếm với Cha. Cát Tường, con yêu Trúc phải không?
Cát Tường bàng hoàng mở lớn mắt nhìn Cha Đạo. Điều gì quen thuộc quá, nhưng lạ lùng quá! Con yêu Trúc phải không? Cha Đạo hỏi một câu không ngờ. Cha nào biết câu hỏi đó có tác dụng như một cơn sóng làm nước mắt ào ạt chảy thêm. Con yêu Trúc phải không? Con có bao giờ nghĩ như vậy đâu! Hay chính con đã cảm thấy như vậy rồi, ngay từ lúc người được đưa về làng, từ dưới chân đồi nhỏ?
Cát Tường sụt sùi:
- Thưa Cha, xin Cha đừng bắt con phải nói ra những điều tồi tệ.
Cha Đạo lắc đầu:
- Yêu thương là tồi tệ à? Không, chính sự giấu giếm với Cha và giấu giếm chính con mới là tồi tệ.
Cát Tường nói như kể lể với mình:
- Anh Trúc chỉ muốn nhận con làm một đứa em. Anh ấy thương và lo cho con thật lòng, con biết vậy. Nhưng, tình cảm của con đối với anh ấy thì khác. Nếu chỉ thương anh ấy như thương một người anh, con… con… đã không rời nơi này để đi.
- Cha đã đoán như vậy.
- Nhưng thưa Cha, anh ấy đã có một người… một người yêu. Là Hồng Phước. Chiều hôm qua bé Hậu đưa cho con một chiếc hộp, trong ấy có ảnh của Hồng Phước và một dòng chữ đủ nói lên tất cả.
- Chiếc hộp ở đâu mà Hậu có?
- Dạ… ở bìa rừng, bé Hậu nhặt được từ hôm đưa Trúc về.
- Sao nó không đưa cho Trúc ngay hôm đó?
- Thưa Cha, Hậu không đọc được chữ, nên lúc ấy không biết là của anh Trúc.
Cha Đạo gật đầu:
- Cha hiểu rồi. Nhưng con đã đọc được dòng chữ gì?
Cát Tường cắn môi, nghẹn ngào:
- Xin Cha cho phép con không nói ra. Dòng chữ của một người yêu viết cho một người yêu… Con đã đưa trả cho anh Trúc ban nãy.
Cha Đạo thở dài:
- Những lần nói chuyện với Trúc, Cha thường hỏi Trúc “có ai chưa?”, anh ta chỉ cười. Cha hiểu rồi, khi chưa thì người ta sẽ đáp là chưa, còn khi người ta cười… A! Tâm lý bọn thanh niên, thật là…
- Con xin Cha tha lỗi cho con, vì con đã trở lại. Con biết như thế là làm buồn lòng Cha và anh Trúc, làm buồn… cả chính con. Nhưng Cha ơi! Con yếu đuối, tầm thường, con đã làm thế vì hình ảnh của Hồng Phước…
- Con không có lỗi. Cha thương con không hết, giận con sao được? Cha muốn con – và các con – có được một cuộc sống bình thường như mọi người, nên từ lâu Cha hằng chờ đợi có dịp gửi gắm con cho một nơi nào mà chính con cũng ưa thích. Vì mong muốn như vậy, nên Cha không hề bắt buộc con, các con, phải sống như Cha, ép mình theo một đời đạo hạnh.
Cát Tường bàng hoàng ngước nhìn Cha Đạo. Ôi, trong đôi mắt già nua đang rơm rớm lệ kia, có phải đã chứa đựng cả tình thương bát ngát của Chúa? Cha đâu có bắt chúng con học thuộc lòng kinh sách, hay phải sống như các nhà tu. Vì Cha còn muốn có một ngày Cha gửi chúng con về đời. Nhưng Cha ơi, con đã thấy, cái hạnh phúc cá nhân, tuy hân hoan lắm nhưng dễ tan vỡ lắm! Cha không ép con sống đời đạo hạnh, nhưng khi con rời bỏ nơi này, không làm một cánh tay của Cha nữa, chắc Cha cũng buồn lắm. Chính đôi mắt của Cha, bao năm khô khan, hôm nay long lanh lệ, đã nói với con đầy đủ.
Có tiếng ai gọi trước cửa nhà nguyện. Cha Đạo nhìn ra, rồi dời bước. Cát Tường còn ngồi im trên ghế. Nước mắt đã khô ở trên má. Cái cảm giác của một người-trở-lại mang mang ở trong lòng. Ta trở lại, chỉ vì chiếc hộp, chỉ vì tấm ảnh của Hồng Phước, cô bé áo vàng. Chỉ vì một dòng chữ yêu thương của một người-yêu viết cho một người-yêu. Chỉ vì con tim của ta bị tổn thương bởi chính ta. Ngoài ra, không vì lẽ gì hết. Không vì Cha Đạo, không vì các bé. Không vì lòng thương nhớ lưu luyến nơi này. Có phải như vậy không? Bây giờ thời gian bị chận lại ngoài cửa, không gian trở lại tĩnh yên như những buổi ta đem cơm vào cho Cha, ta đã nhìn thấy rõ ràng con người của ta, bé mọn, nhỏ nhoi, yếu đuối và tầm thường. Chúa ơi! Con chưa sống được một đời đạo hạnh. Có phải ở thời gian này, ở không gian này, Chúa muốn con nhìn thấy rõ Chúa? Vâng, con đã thấy rồi! Ở trước mặt con, trên cây Thập Tự Giá, hình như có những giọt máu của Chúa nhỏ ra, sáng ngời như nước mắt.
Cát Tường vùng đứng dậy, đi qua những hàng ghế, mở cửa nhà nguyện. Ánh nắng ùa vào làm nền nhà rực rỡ. Cát Tường nhìn thấy Cha Đạo đang bước nhanh qua khoảng sân đất mềm. Phía trước Cha là bé Ngoan. Bước chân của Cha khập khiễng vội vã nhưng không đi mau bằng đôi chân của đứa trẻ. Cái chân của Cha! Cái chân gỗ! Cái chân của một thời trả giá cho cuộc đời vị tha, đạo hạnh, trả giá cho một con tim bác ái. Cái chân nhắc nhở cho một đêm ở làng cô nhi này, cái chân cứu người thương binh, đêm đã trở thành một kỷ niệm se lòng…
Có việc gì ở đó? Giờ này các em ta đang ăn sáng, hay bắt đầu xuống rẫy? Có việc gì? Có việc gì? Cát Tường tự hỏi rồi hoảng hốt chạy theo hai cái bóng phía trước. Cha Đạo và bé Ngoan đã đi vào nhà cơm. Cát Tường chạy theo đến nơi. Rồi tự nhiên tim đập thật mạnh. Cát Tường khựng chân lại. Các bé có biết chị đã về đến không? Từ ngoài đường lớn vào đây là cả một không gian xa cách. Từ sáng tinh mơ khi mặt trời còn rúc đầu sau mây đến lúc này là cả một quãng thay đổi lớn của cuộc đời. Cái con người nào cũng vậy, hầu như có những khoảnh khắc cách nhau mươi- mười lăm phút là cả hai con người khác biệt. Các em biết vậy không? Cát Tường bồi hồi bước lên thềm nhà. Sau khung cửa sổ, những mái đầu lô nhô bên nhau. Là nai đàn. Là chim bầy. Nhưng đàn nai hỗn độn, bầy chim xao xác. Khánh đang đứng trước mặt Cha Đạo, phân trần:
- Thưa Cha, sáng nay Hiền, Lương và Hảo đòi nghỉ, không đi đào khoai.
- Tại sao vậy?
- Các em đó nói là khoai còn đủ ăn ngày hôm nay. Con muốn hỏi ý Cha có bằng lòng không.
- Việc đó tùy ở con sắp xếp chứ! Cha nhớ là Cát Tường đã giao cho con phần đào khoai và lượm củi.
- Thưa Cha, còn bé Hậu nữa, bé Hậu cũng xin qua phòng học để tập viết ạ.
Cha Đạo trố mắt:
- Hôm nay thằng bé siêng vậy?
- Con có bảo là làm việc xong, trưa sẽ học, Hậu không chịu.
Có tiếng bé Hậu:
- Em chưa thuộc bài. Em phải học, nếu không thì Cha bắt em lên tỉnh học nghề.
Cha Đạo cười:
- Ai nói với con vậy?
- Dạ, chị Cát Tường.
- Nhưng con cũng phải làm việc để phụ giúp anh Khánh, nghe không?
- Thưa Cha, con nghe. Nhưng… Cha đừng bắt con lên tỉnh.
- Sao? Con không thích lên tỉnh à?
- Dạ không. Lên tỉnh không vui. Con chỉ thích ở đây hà!
Trái tim Cát Tường thắt lại. Ở trong kia, Cha Đạo lại cất tiếng:
- Còn chuyện gì nữa không?
Khánh đáp:
- Thưa Cha, còn ạ. Nhiều bé áo đã rách, xin may áo khác.
- Đã có vải của ông Năm mua về.
Tiếng của Thương:
- Thưa Cha, con biết may, nhưng không biết cắt. Chị Cát Tường chưa dạy con cắt áo.
Khánh hỏi:
- Diệu đâu rồi?
- Diệu bị cháo đổ phỏng tay.
Cha Đạo lo lắng:
- Đâu? Diệu đâu? Đã xức thuốc gì chưa?
- Thưa Cha, con đây!
Cát Tường hốt hoảng nhìn thấy Diệu bước đến, cánh tay băng trắng toát. Cát Tường giật mình, thốt lên:
- Không được! Tay phỏng không được băng kín mít như vậy.
Chim đầu đàn xuất hiện ở cửa phòng, làm bầy chim nhốn nháo. Mấy mươi cái miệng mở ra, ríu rít những tiếng vui mừng:
- Chị Cát Tường!
- A! Chị Cát Tường về!
- Chị không đi nữa sao?
Cát Tường xúc động:
- Chị không đi. Không đi đâu hết.
- A! Thích quá! Thích quá!
- Nghe chị bảo đây! Sáng nay Khánh vẫn dắt các em trai xuống rẫy, đào thêm khoai để trưa nay chị làm bánh. Thương giúp chị tưới rau. Chị sẽ cắt áo quần cho các em. Hậu được nghỉ một bữa để tập viết. Còn Diệu, đưa cánh tay đây! Phỏng không bao giờ băng cột chặt như thế này.
Phút chốc, sự an ổn đã trở lại trong bầy chim xao xác. Vì sự có mặt của Cát Tường như lấp đầy một chỗ trống lớn lao. Khi ra đi tưởng mọi việc sẽ tiếp tục dù không có mình, lúc trở lại mới thấy rằng sự rời bỏ cái tổ chim thân ái này là một lầm lỗi vĩ đại. Cát Tường nhìn Cha Đạo. Ở trong đôi mắt già nua như đang rưng rưng sóng. Cha mỉm cười. Rồi Cha quay gót. Đôi chân khập khiễng. Áo màu đen. Tóc pha màu ngày tháng. Cát Tường cũng muốn nói “Cha ơi, con thương Cha…” như đêm nào có hai kẻ lạ mặt. Nhưng thôi, hãy để yên như vậy. Chắc Cha cũng biết trong lòng ta có những ý nghĩ gì rồi.
Cát Tường quay lại, hỏi:
- Các bé đã đọc lời tâm niệm chưa? Ăn sáng chưa?
Khánh đáp:
- Chưa ạ. Lúc Diệu mới bị phỏng, em bảo Ngoan qua mời Cha liền.
- Vậy các bé đọc đi! Trễ rồi, còn phải làm việc nữa.
Đàn trẻ ngồi vào bàn, trước bữa điểm tâm nóng hổi. Mấy mươi cái miệng mở ra, vui vẻ đọc:
- Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết chăm chỉ học hành, siêng năng làm việc, rèn luyện thể chất chúng con,…
Cát Tường nhíu mày, suy nghĩ. Có một cái gì thiếu vắng ở đây chăng? Hình như trong sự náo động thiếu một sự lặng yên. Hình như trong tiếng trẻ nhỏ đọc đều đều kia, thiếu một lời câm nín. Là thế nào? Cát Tường đảo mắt nhìn tất cả những khuôn mặt. Khi tiếng “A-men” vừa dứt, Cát Tường hỏi ngay:
- Nhu Mì đâu?
Không đợi nghe trả lời, Cát Tường ra lệnh:
- Các em tiếp tục ăn đi! Chị ra kiếm Nhu Mì.
Rồi bước nhanh ra cửa, Cát Tường chạy qua phòng ngủ. Không có Nhu Mì ở đó. Nhưng ở trên giường của Nhu Mì, quyển vở mở ra để hỏng hờ trên gối. Cát Tường cầm lên, thấy ở hai trang liên tiếp, Nhu Mì đã vẽ thật nhiều đèn nến – những ngọn nến nhỏ bé, mong manh như dáng nhỏ của Nhu Mì. Chiều hôm qua, Nhu Mì cũng đã vẽ như vậy. Nhưng niềm vui quá to lớn khiến Cát Tường không thấy lệ của nến lan quanh chân đèn. Bây giờ, nước mắt của Cát Tường đang rơi xuống hai trang giấy mỏng, tưởng như đông đặc lại thành sáp, tưởng như có âm vang thành tiếng chuông kêu. Cát Tường ôm quyển vở vào ngực, bàng hoàng bước ra cửa. Ở phía đó, phía mặt trời lên đó, nơi mà sáng hôm nào tiếng xe cót két hân hoan đưa người về, cái ngọn đèn nến cô độc nhỏ bé đang thất thểu đi lên. Mà Cát Tường thì hiện ra sáng chói dưới nắng. Những bước chân cuống quít chạy đến với nhau. Leng keng… Leng keng…! Tiếng chuông rung lên như từ một bản thánh ca, như từ một góc nhà thờ. Tiếng chuông từ trong giọt lệ. Tiếng chuông ở trong bàn tay của Nhu Mì!...
Nhu Mì nhé, chị đã biết bé đi đâu. Chị đã biết bé nghĩ gì. Chị chẳng đi nữa. Chị ở lại đây. Chỉ có kẻ dại khờ mới từ bỏ những thân tình hiện có. Chị chẳng muốn làm nữ tu, chẳng muốn làm thiên thần, mà chỉ muốn làm chị cả, của nai đàn, của chim bầy. Thế thôi! Chị ở lại đây, làng cô nhi chiến tranh, dấu tích có thật của chiến tranh, mà ở đây, mỗi một người chúng ta là một dấu tích đó! Cái chân của Cha Đạo, sự có mặt của em, nỗi buồn của chị… tất cả đều là dấu tích. Dấu tích chua xót. Dấu tích se lòng. Nhưng chỉ có ở đây, sáng mới thấy mặt trời lên từ rừng rẫy, chiều mới thấy bóng tối về từ đỉnh nóc nhà nguyện. Chỉ có ở đây, ta mới cất tiếng hát được những lời ca thoải mái. Mai mốt, khi các em lớn lên, khi Cha cho chúng ta về tỉnh thị, chị vẫn ở bên các em. Nhu Mì muốn vậy không? Hãy nói đi, nói bằng lời của nến. Và hãy đưa cho chị cái chuông đang nằm trong bàn tay bé nhỏ. Chị treo trở lại trên cánh cổng rào. Mai mốt còn nghe tiếng leng keng báo hiệu ông Năm về. Còn người, Quy-Li-Ve, chẳng trở lại đâu! Còn chị, đã trở lại rồi! Quy-Li-Ve, người đã đến, và đã đi, để giúp chị thấy chị nhỏ nhoi và thấy chị rộng lớn. Thế thôi!
Bước qua luống đất này đi! Đất còn mềm, còn ướt. Dấu giày của ai đó còn lún xuống như khắc vào lòng, đau đớn. Ở trên thềm nhà nguyện, dấu đất còn để lại, là những cung nhạc ngàn đời không phai. Nhu Mì hở! Kỷ niệm người để lại, nói không hết đâu! Kỷ niệm sẽ chói lòa mỗi khi bé ra cổng, mỗi khi bé ra sân, mỗi khi bé xuống rẫy, mỗi khi bé vào rừng.
Ngồi ở đây đi, thềm nhà nguyện đã vắng. Khóc với chị đi, bé thơ ngây chỉ nói chuyện bằng nước mắt và nụ cười.
Hai chị em cùng khóc. Khóc cho thấy nhớ một khuôn mặt, một mái tóc, một dáng người thân mến.
Khóc cho nước mắt rơi. Rơi thay cho mưa.
Rơi xuống thềm nhà, làm xóa mất dấu chân….
Tân Định, Sài Gòn
Mùa Đông 1974
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
|
|
|
The Following User Says Thank You to cha12 ba For This Useful Post:
|
|
|
06-25-2020
|
#116
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Những con hẻm, anh và em.
Chàng đi xe vòng qua vòng lại mấy ngõ hẻm và bối rối tự trách mình đã không hỏi Vân cho kỹ để bây giờ phải mất công suy đoán.
Hình như Vân nói hẻm nhà Quế Hương nằm gần nhà thờ hay chùa gì đó.
Chàng quẹo vào một con hẻm và vừa đi vừa hỏi thăm nhà cô Quế Hương, tuyệt nhiên không ai biết, chàng liền chìa số nhà ra hỏi thì một người nói số nhà này nằm trong con hẻm xóm chùa.
– Vậy đây là hẻm gì hả bác?
– Hẻm xóm nhà thờ. Hẻm chùa phải đi thêm một khúc nữa. Nhớ đừng đi quá xa là… sang con hẻm khác nữa đó.
Chàng nhìn túi xách trong đó có bịch dâu tây Ðà Lạt tươi ngon. Hy vọng sẽ đến đúng nhà và làm quà cho người đẹp của lòng.
Chàng lại vừa đi vừa hỏi thăm, lần này chàng quẹo vào đúng ngõ chùa, đi qua chùa thì thấy gò mả đá ong vài cái cao thấp như lời Vân kể, thế là chàng vui mừng đã thoát nợ những con hẻm.
Từ đây chàng chỉ việc quẹo trái là vào hẻm nhà Quế Hương, một hẻm ngắn có chừng hơn hai chục căn nhà, lẽ nào chàng tìm không ra.
Muốn chắc ăn chàng hỏi lũ trẻ con đang leo trèo chơi đùa trên gò mả:
– Các em có biết nhà chị Quế Hương trong con hẻm này không?
Vài đứa nhao nhao lên:
– Cái tên lạ hoắc, tụi em không biết chị này.
– Anh đi lộn hẻm rồi, hẻm tụi em không có chị Quế Hương.
Chàng cố kèo nài:
– Các em thử suy nghĩ xem biết đâu chị Quế Hương ở con hẻm nào gần đây chăng?
– Bảo đảm với anh là không.
Trẻ con chạy nhảy chơi đùa khắp xóm cả ngày mà không biết chị Quế Hương hàng xóm của chúng kể cũng lạ. Không lẽ chàng vẫn đi lạc hẻm?
Chàng dắt xe quẹo trái vào con hẻm để dò tìm số nhà xem sao. Số nhà đây rồi, là căn nhà thứ năm ngay trước mặt chàng, nhưng chàng ngại ngùng do dự chưa dám gọi cổng ngay vì lời lũ trẻ đã khẳng định không có chị nào tên Quế Hương trong hẻm này.
Một bà bán hàng lớn tuổi tay bưng thúng vừa đi vừa rao:
– Ai bánh chưng, bánh dày giò không…
Chàng liền hỏi:
– Thưa bác, cho cháu hỏi thăm nhà cô Quế Hương.
Bà già đáp ngay không cần suy nghĩ:
– Quế Hương nào ở đây? Tôi chịu thua…
Chàng lại chìa tấm giấy ghi địa chỉ ra làm bằng chứng:
– Ðây bác, đúng là căn nhà này số 95/3.
– Ối giời, anh lầm to rồi. Nhà này chỉ có con bé Tẹt thôi, tôi là hàng xóm lại bán hàng quà rong xóm này mười mấy năm còn lạ gì nó, nó thường ăn hàng của tôi, khi thì bánh chưng khi thì bánh dày giò.
– Bé…Tẹt?
– Chứ còn gì nữa, mẹ nó gọi yêu thế từ khi còn bé vì… mũi nó tẹt.
Chàng nhớ đến gương mặt xinh Quế Hương, rõ ràng là sóng mũi nàng cao, vậy là địa chỉ này có sự nhầm lẫn chăng??
Ngay lúc ấy một cô gái đi tới, cô là con của bà già:
– Anh ấy hỏi mẹ gì thế?
– Anh ấy tìm nhà cô Quế Hương nào đó.
Cô gái hiểu chuyện, trách mẹ:
– Cô ấy lớn rồi mà mẹ cứ gọi là bé Tẹt. Thật ra trong nhà này có bé Tẹt thuở nhỏ nhưng cô tên là Thoa, chứ không phải Quế Hương mà anh đang tìm kiếm.
Chàng chán nản thất vọng:
– Cả hai tên bé Tẹt hay Thoa đều xa lạ quá. Thôi, cám ơn bác và chị.
Hai mẹ con bà bán hàng kia đi khỏi, chàng còn đứng ngẩn ngơ, tiếc công mình từ sáng đến giờ đi tìm qua mấy con hẻm.
Ngay lúc ấy cánh cổng nhà 95/3 mở toang, cô gái bê thùng rác ra để ngoài sân:
– Anh làm ơn đứng xích ra, chỗ này nhà em để… thùng rác.
Chàng quay lại nhìn cô gái và mừng rỡ kêu lên như sợ nàng biến mất, chìm khuất mất trong những con hẻm rắc rối này:
– Quế Hương, Quế Hương đây rồi….
Nàng ngỡ ngàng nhìn chàng:
– Ơ,… anh đi đâu đây, sao anh biết nhà em?
Chàng phàn nàn:
– Tìm con hẻm nhà em đã khó, tìm được Quế Hương còn khó hơn. Anh sẽ trả lời câu hỏi của em sau. Ðể anh hỏi em trước đã, tại sao đã tên bé Tẹt lại là Thoa mà không là Quế Hương? Vậy tên nào là tên thật của em?
– Dĩ nhiên là tên Quế Hương vì khi mang thai em, mẹ em ốm nghén thích ngửi mùi quế nên tên em mới lạc điệu…
Chàng ngơ ngác chẳng hiểu gì:
– Lạc điệu?
– Vâng, vì tên các anh chị của em đều bắt đầu bằng TH, thế nên bố mẹ đặt em tên Thoa để gọi ở nhà cho vần điệu với tên các anh chị. Còn tên bé Tẹt…
Chàng sốt ruột ngắt lời:
– Anh đã biết lai lịch tên bé Tẹt rồi. Bà bán bánh chưng, bánh dày cho em đã khai với anh lúc nãy.
Nàng hơi vênh mặt chắc là để khoe chiếc mũi cao cao:
– Dù mũi em cao dần theo thời gian khi em lớn lên như bây giờ nè, thế mà hàng xóm cứ quen miệng. Vâng, hàng xóm chỉ biết em với hai tên ấy thôi, tên Quế Hương trong khai sinh ít ai biết đến. Mà anh tìm em…làm gì?
Bây giờ chàng đâm ra lúng túng với túi xách đựng dâu trên tay:
– À…anh…mới đi Ðà Lạt về có mua ít dâu tươi ngon mang… tặng em. Bởi thế anh mới xin Vân địa chỉ nhà em đến đây… gấp kẻo… dâu héo mất.
Cô bé bắc kỳ mới 17 tuổi nhưng thừa hiểu ý đồ anh muốn đến làm quen vì hôm gặp anh ở nhà Vân anh luôn tìm cách chuyện trò với nàng, Quế Hương giả vờ ngây thơ và khách sáo:
– Anh làm em ngại quá chỉ vì mấy quả dâu tây mà đường xa vất vả.
Nàng mời chàng vào nhà, bước qua cánh cổng có giàn hoa giấy đỏ, đi qua khoảng sân loáng thoáng những lá mít khô chắc từ nhà bên cạnh bay sang vì cây mít to cao ló đầu trên bức tường thấp giữa hai nhà.
Chàng và nàng nói chuyện, nghe chàng kể đã đi lộn vào hẻm nhà thờ, Quế Hương cười giải thích:
– Hẻm nhà thờ cũng đến hẻm chùa được mà anh, tại anh là khách lạ nên không biết đường đi.
Chàng vội nắm lấy cơ hội:
– Vậy hôm nào em rảnh đưa… anh đi thăm hết mấy con hẻm xóm em nhé, để lần sau nếu có đi lạc anh còn biết đến nhà em.
Nàng kể cho chàng nghe tên những con hẻm xóm mình. Hẻm “cổng thành” vì đối diện với xưởng Lục quân Công xưởng.
Hẻm “Nhà Thờ” vì gần ngay nhà Cha xứ và dẫn vào nhà thờ. Hẻm “Xóm Chùa” có lối vào cổng chùa, tuy trần tục vây quanh, trẻ con nghịch phá, người lớn thường cãi nhau ỏm tỏi, nhưng ngôi chùa nằm đầu con hẻm vẫn ngày ngày vọng câu kinh tiếng kệ.
Nếu đi về hướng khác thì lại có những con hẻm mang tên khác nhau cũng dẫn vào xóm, hẻm “Mộng Thành” vì có quán cà phê Mộng Thành , hẻm “Bún riêu ” vì hàng bún riêu ngon có tiếng của bà Tư ngự trị nơi đây v..v…
Nhưng dù đi hẻm nào, vào trong trận đồ bát quái ấy cũng vẫn có thể quẹo ngang quẹo dọc, đi tới đi lui, đến nơi mình muốn.
Chàng xuýt xoa:
Nghe em kể anh thấy thương… tất cả những con hẻm xóm em. Ước gì ngày nào anh cũng được đến…
Nàng hóm hỉnh:
– Ðến làm gì? chả lẽ ngày nào anh cũng… có dâu Ðà Lạt tặng em?
Quế Hương là bạn học cùng lớp với Vân.
Hôm sinh nhật Vân, đám bạn Vân đã ngồi cùng bàn với đám bạn anh trai của Vân, cả bàn cùng nói chuyện vui như Tết.
Chàng ngồi đối diện Quế Hương, nói chuyện với Quế Hương nhiều nhất, khi ra về còn xin địa chỉ, nàng kiêu kiêu từ chối lý do là nhà em trong xóm có nhiều con hẻm anh không thể nào tìm ra đâu.
Thế mà hôm nay chàng đã tìm ra.
Chàng chăm chỉ đến nhà Quế Hương, chỉ vài tháng quen nhau tình cảm hai người đã trở nên thân mật.
Lúc rảnh rỗi nàng dẫn anh lang thang xuyên qua những con hẻm trong xóm, vừa đi vừa nói chuyện và trìu mến kể về những người hàng xóm, cứ làm như anh muốn quen nàng thì phải… quen tất cả hàng xóm của nàng.
Có hẻm dài quanh co, nhà nhô ra thụt vào, có hẻm nhỏ tối sâu hun hút ngại ngùng cả bước chân, có hẻm ngắn dẫn đến những lối rẽ nếu là người lạ sẽ phân vân chẳng biết lối nào đi…
Hai người cùng ăn nhiều món quà hàng rong trong xóm. Anh thân thiện giản dị cùng nàng ngồi hàng bún riêu bà Tư và khen là bún riêu ngon hơn nhiều nơi khác anh đã từng ăn. Con hẻm mang tên “Bún Riêu” cũng không ngoa.
Nàng dẫn anh đi vòng quanh ngôi nhà thờ, chỉ cho chàng biết góc sân kia là nơi dựng hang đá mỗi mùa lễ Giáng Sinh.
Thuở bé nàng đã say mê đứng ngoài hàng rào song sắt cổng nhà thờ nhìn ngắm hang đá ấy mà không biết chán.
Nàng dẫn anh vào thăm chùa lễ Phật và hái hoa Ngọc Lan trồng ngoài sân chùa khi ra về, hương Ngọc Lan thơm tho quấn quýt cả hai người.
Chàng đã quen thuộc nhiều con hẻm trong xóm, nhưng thân nhất vẫn là con hẻm xóm chùa nhà nàng.
Mỗi lần anh đến, lũ trẻ con chơi đùa trên gò mả đá ong đầu hẻm cũng ríu rít chào anh, coi anh như một người thân của xóm.
Một hôm anh đến và hai người cùng đi lang thang trong xóm như mọi lần, nhưng lần đầu tiên anh hỏi nàng về quán cà phê “Mộng Thành” Nàng ngạc nhiên:
– Hôm nay anh thích uống cà phê ở con hẻm xa lơ xa lắc ấy hả?
– Anh thích cái tên “Mộng Thành” của nó. Có phải là những giấc mộng sẽ thành sự thật không em? Thí dụ như mộng thành… đôi.
Nàng chanh chảnh:
– Nhưng… “Anh ơi nếu mộng không thành thì sao?”
– Mặc cho người ta hát hò thế. Chúng mình sẽ khác.
Hai người vào quán cà phê hẻm “Mộng Thành”. Anh buồn buồn báo tin:
– Anh sắp đi du học rồi. Ðây là kế hoạch của cha mẹ và của anh từ trước khi anh quen em. Anh du học tự túc ở Mỹ, bậc trên đại học….
Chàng nắm lấy bàn tay nàng, tha thiết:
– Anh yêu em ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ hôm chúng ta ăn sinh nhật nhà Vân. Sắp phải xa em anh buồn lắm, nhưng cả hai chúng ta còn quá trẻ. Em chờ đợi anh nhé.
Nàng run run cảm xúc:
– Vâng em sẽ đợi anh. Chúc anh học hành thành đạt.
– Anh cũng chúc em sẽ thi đậu đại học ngành nghề mà em yêu thích. Chúng ta sẽ có ngày tái ngộ.
Chàng đi xa, nàng bắt đầu mộng mơ nhớ nhớ thương thương nhưng vẫn không xao lãng chuyện học hành. Ðầu năm ấy nàng thi đậu vào đại học sư phạm.
Hai người vẫn thường xuyên liên lạc nhau qua thư từ và cả hai cùng hứa sẽ học hành thành đạt cho ngày tái ngộ tròn vẹn niềm vui.
Còn vài tháng nữa chàng sẽ trở về và nàng sẽ tốt nghiệp cô giáo.
Bỗng đâu một bà bạn của cha mẹ nàng hí hửng muốn giới thiệu nàng cho một chàng trai mà bà rất ưng ý. Bà xuýt xoa nói với mẹ nàng:
– Tôi mà có con gái thì gả cho anh ta ngay, chẳng dại gì giới thiệu cho ai, đẹp trai học giỏi, gia thế giàu sang.
Mẹ nàng hoan hỉ thủ thỉ với nàng:
– Bé Tẹt đồng ý tìm hiểu đám này con nhé? Anh ta du học ở Mỹ và sẽ trở về nay mai.
Quế Hương kiêu hãnh khoe:
– Con cũng quen một anh đang du học ở Mỹ thua kém gì anh này đâu.
Mẹ nàng sa sầm nét mặt:
– Có phải là anh chàng từng đến nhà mình mấy lần không? Ðừng thả mồi bắt bóng, cờ đến tay thì phất, đám này bạn mẹ biết rõ gia cảnh, tính nết chàng trai. Con trông đợi gì lời hứa hẹn của một người mới quen và đã đi xa?
Nàng biết nói sao cho mẹ hiểu, tình yêu ấy cho nàng một niềm tin anh sẽ không thể quên nàng, anh sẽ trở về. Quế Hương tìm cách hoãn binh :
– Mẹ thư thả vài tháng nữa để con ra trường xong hãy bàn đến chuyện “ra mắt” người mà bạn mẹ mai mối.
Chàng đã trở về. Những con hẻm nhà nàng lại rộn rã bước chân chàng.
Cha mẹ Quế Hương thấy chàng đứng đắn đẹp trai có ăn học nên đã chấp nhận cho con gái và chàng tìm hiểu nhau thêm trước khi quyết định đi đến hôn nhân.
Họ vẫn thầm tiếc rẻ khi phải từ chối lời mai mối của bà bạn dù chưa biết mặt mũi anh chàng kia ra sao.
Thiệp cưới đã được phát đi quanh xóm, các nhà hàng xóm bây giờ mới biết con “bé Tẹt” hay “cô Thoa” tên thật là Quế Hương.
Mẹ con bà bánh chưng dày giò bảo nhau:
– Từ giờ trở đi mẹ mất mối bán bánh chưng, bánh dày giò cho bé Tẹt rồi.
– Ấy chết, mẹ đừng gọi “Bé Tẹt” nữa. Từ giờ chúng ta gọi cô ấy là Quế Hương.
Nhận tấm thiệp mời đám cưới. Bà bạn của mẹ nàng đã phát hiện ra một điều kỳ lạ, bà sững sờ nói với mẹ Quế Hương:
– Trời ơi… chàng rể tương lai nhà chị chính là chàng trai mà tôi định giới thiệu đấy. Hoá ra chúng nó đã quen nhau trước.
Mẹ nàng cũng ngạc nhiên và vui mừng:
– Nó có khoe với tôi quen chàng đang du học ở Mỹ. Ai ngờ hai chàng chỉ là một.
– Nghĩa là duyên số nhà chị nhất định phải có chàng rể này rồi. Chúc mừng nhé.
Trong khi đó chàng và Quế Hương cũng phát hiện ra điều kỳ lạ này.
Nàng mở to mắt ngạc nhiên nghe chàng kể. Khi chàng sắp về nước, mẹ chàng đã báo trước là chàng sẽ đi xem mắt một cô gái xinh ngoan nào đó, chàng vâng dạ cho xong.
Chỉ qua lời mai mối của bà bạn thân mà mẹ chàng đã thích mê, tin rằng cô gái ấy vừa xinh đẹp giỏi giang vừa con nhà nề nếp, là mẫu con dâu mẹ chàng mong muốn.
Nàng dí dỏm trêu chọc:
– May quá anh đã không đi xem mặt cô gái ấy mà… bỏ em.…
– Thì ra cô gái ấy là em. Anh đã chọn trước khi mẹ anh chọn. Chúng ta có duyên nợ với nhau sâu đậm quá, đã yêu nhau lại được người quen biết cả đôi bên gia đình chúng ta nhiệt tình đòi mai mối.
Giọng chàng trở nên mơ màng:
– Anh đã đi tìm em trong những con hẻm…
– Em biết anh muốn nói gì rồi. Những con hẻm thật dễ thương, có anh và có em…
– Ðúng thế, và mai sau dù cuộc đời có trở ngại quanh co như những con hẻm rắc rối của xóm em thì chúng mình vẫn không bao giờ lạc mất nhau em nhé…
Nguyễn Thị Thanh Dương
|
|
|
The Following 6 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-26-2020
|
#117
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện ngắn: Yêu Em hay yêu Tôi?
Mười năm với cuộc sống hôn nhân cùng người vợ đầu tiên vẫn là niềm hối tiếc dằng dặc trong lòng tôi, mặc dù chúng tôi đã chia tay và tôi đã lập gia đình khác.
Tôi vượt biên năm hai mươi sáu tuổi. Khi ấy, tôi là giáo viên cấp hai ở Sài Gòn. Người yêu của tôi – Vân – là sinh viên sư phạm, nhỏ hơn tôi bảy tuổi. Chúng tôi bịn rịn chia tay nhau trong nước mắt và hứa hẹn sẽ đợi chờ nhau cho đến ngày sum họp.
Tàu đến đảo Galang, Indonesia, và tôi ở đó hơn một năm để chờ định cư. Thời gian tạm trú tại trại tỵ nạn, tôi tham gia vào nhóm thiện nguyện làm công tác xã hội và chương trình phát thanh, phục vụ đồng hương.
Ở đây, tôi quen Duyên, một cô gái xinh xắn, vui tính, cùng trang lứa với tôi.
Qua công việc cùng chí hướng, chỉ trong thời gian ngắn, chúng tôi trở nên thân thiết và tôi đã nhanh chóng quên lãng hình bóng của Vân, để bày tỏ tình yêu tha thiết dành cho Duyên với ý muốn được kết hợp suốt đời.
Duyên rất bất ngờ trong nỗi xúc động, nhưng lại ngần ngại, đắn đo với lý do có nhiều vấn đề phải suy nghĩ cặn kẽ trước khi quyết định, mặc dù rất yêu tôi.
Hai ngày sau, với khuôn mặt đầm đìa nước mắt, Duyên nói rằng cô không xứng đáng làm vợ tôi, bởi vì quá khứ của cô có nhiều điều khó nói.
Ðể tỏ ra mình là người độ lượng, tôi âu yếm cầm tay Duyên ngọt ngào thố lộ:
– Chỉ cần Duyên thật sự yêu anh và sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu với anh là đủ rồi. Ðừng nói chuyện quá khứ. Hãy bỏ tất cả lại phía sau và bắt đầu cuộc sống mới đầy hứa hẹn ở nước thứ ba.
Ðó là những lời phát xuất từ tấm lòng chân thật của tôi, vì lúc ấy, tôi đang yêu Duyên say đắm và tin rằng cô gái nầy sẽ là người vợ tốt.
Xinh đẹp, dịu dàng, vui tính, biết sống vì người khác, đó là mẫu người tôi hằng mơ ước. Duyên sung sướng chấp nhận lời cầu hôn và chúng tôi xin điều chỉnh lại hồ sơ, sau tiệc cưới đơn sơ do bạn bè – cùng thân phận tỵ nạn – đứng ra tổ chức.
Khi chung sống, dù biết Duyên không còn trong trắng nhưng tôi chẳng hề ân hận và đoán rằng, có lẽ đó là điều Duyên đã ngần ngại khi tôi ngỏ lời cầu hôn.
Giữ đúng lời hứa và để chứng minh cho Duyên thấy mình là một người chồng quảng đại, tôi không thắc mắc về vấn đề nầy, xem như một sự tế nhị để gìn giữ hạnh phúc cho nhau.
Sau đó không lâu, chúng tôi được định cư tại Mỹ và có việc làm vững chắc. Tôi và Duyên tạo nên một mái ấm gia đình rất hạnh phúc, nhất là từ khi đứa con trai đầu lòng chào đời đúng như sự mong ước của tôi.
Duyên càng ngày càng tuyệt vời trong vai trò làm mẹ, làm vợ, đảm đang mọi chuyện từ trong ra ngoài và nhất là chiều chuộng tôi hết mực.
Có lẽ, một phần nào đó, Duyên muốn đền bù những thiệt thòi của tôi về quá khứ của cô. Thỉnh thoảng, ý nghĩ ấy lại thoáng qua, nhưng dù sao thì tôi cũng rất hài lòng về người vợ của mình.
Khi cậu con trai được tám tuổi, chúng tôi dọn đến thành phố khác, vì tôi có việc làm tốt hơn ở đây.
Thời gian nầy có rất nhiều người Việt Nam sang định cư theo chương trình con lai và HO.
Một lần, tình cờ tôi gặp lại người bạn học cũ cũng là hàng xóm của Duyên ở Cần Thơ mới biết được một chuyện đau lòng. Ðó là Duyên đã có đứa con để lại Việt Nam cho mẹ nuôi dưỡng và bé gái đã mười hai tuổi.
Tin nầy đến với tôi như sét đánh ngang đầu. Tôi giận dữ hạch hỏi, tại sao Duyên có thể giấu giếm tôi một chuyện quan trọng như thế.
Với ánh mắt chứa đầy nét khổ đau, Duyên nghẹn ngào kể lể – trong một chuyến vượt biên bị bể, Duyên bị hai tên ác ôn cưỡng bức trong lúc chạy trốn và đã mang thai.
Sau khi sinh con, mẹ Duyên giữ đứa bé lại và tìm đường cho Duyên đi tiếp. Duyên nói rằng, cô muốn thú thật khi tôi cầu hôn, nhưng lúc ấy tôi đã bảo rằng “Ðừng nói chuyện quá khứ, hãy bỏ tất cả lại phía sau”.
Hơn nữa, với Duyên, cuộc hôn nhân nầy là một ân huệ mà Trời Phật đã ban cho, nên Duyên rất trân quý và sợ sẽ bị mất đi, khi sự thật được phơi bày, dù đó không phải là lỗi của Duyên.
Tôi tin những lời Duyên nói là sự thật, nhưng sao vẫn cảm thấy bị tổn thương. Ðiều tôi lại sợ nhất là họ hàng, bè bạn xem thường, vì lấy người vợ đã có con riêng.
Lỡ đóng vai người độ lượng, tôi đành ngậm bồ hòn làm ngọt, nhưng trong lòng bắt đầu có điều gì đó không ổn. Chính tâm trạng nầy khiến tôi có thái độ lạnh nhạt với Duyên và hay kiếm cớ gây gổ vì những chuyện không đáng. Chín năm mặn nồng hạnh phúc giờ không còn nữa.
Ngay lúc ấy, tôi bỗng nhớ đến Vân, người yêu bé bỏng mà tôi đã lãng quên dễ dàng từ ngày gặp Duyên ở đảo. Tôi bắt đầu kể cho bạn bè nghe về Vân, về những kỷ niệm của mối tình đầu, ngay cả những lúc có sự hiện diện của Duyên, như một cách trả thù.
Chẳng bao lâu, tôi tìm cớ về Việt Nam thăm cha mẹ già. Việc đầu tiên là tìm gặp Vân. Cô học trò nhỏ ngày nào nay đã xấp xỉ tuổi ba mươi nhưng vẫn nõn nà, xinh đẹp.
Gặp lại nhau, sau giây phút bất ngờ mừng rỡ, Vân trách tôi bạc bẽo, vô tình. Dĩ nhiên, tôi phải viện dẫn đủ lý do – mà toàn là những lý do dối trá- để lấy lòng người yêu cũ. Vân cũng dễ dàng bỏ qua cái tội “làm cho em đau khổ gần cả chục năm trời”, để chúng tôi có được khoảng thời gian thật vui vẻ, hạnh phúc bên nhau.
Và chính ngay lúc ấy, tư tưởng bỏ vợ để trở lại với người tình đầu tiên bắt đầu manh nha trong đầu tôi.
Trở về Mỹ, tôi tìm cớ ly dị để thực hiện ý định bất chính của mình. Duyên càng chiều chuộng, tôi càng hững hờ. Và rồi tôi đã đạt được ý nguyện khi bắt gặp Duyên đang ngồi trong quán nước với một người đàn ông xa lạ – mà theo Duyên, đó là người quen của ba má Duyên, mang hồ sơ của đứa con riêng đến cho Duyên, để cô tiến hành thủ tục bảo lãnh, vì ông bà đã già cả, bệnh hoạn, sợ không đủ sức để nuôi đứa bé đến ngày khôn lớn.
“Cô định qua mặt tôi nên lén lút…”.
Tôi giận dữ hét vào mặt Duyên và không cho Duyên cơ hội giải thích, dù một câu ngắn ngủi.
Tôi quyết liệt gán cho Duyên tội ngoại tình – dù thật sự trong thâm tâm, tôi không chút nghi ngờ.
Kết quả, điều tôi mong muốn được thực hiện một cách thuận lợi.
Hồ sơ ly dị vừa hoàn tất, tôi trở về Việt Nam cưới Vân và làm thủ tục bảo lãnh.
Một năm sau, Vân sang Mỹ trong nỗi hân hoan tràn ngập của tôi, khi có được người vợ xinh đẹp, lại còn trong trắng.
Ngụp lặn trong niềm hạnh phúc nầy chưa được bao lâu tôi bắt đầu đối diện với thực tế cay đắng.
Sống với Duyên, tôi sung sướng, thảnh thơi, vì đã có vợ đảm đang tất cả mọi việc.
Với Vân thì ngược lại, tôi phải lo toan từ trong ra ngoài, cộng thêm gánh nặng gia đình ở Việt Nam.
Vân đòi tôi phải tìm người làm hôn thú giả để bảo lãnh cô em gái sang đây. Ngoài khoản tiền to lớn cho mục đích gian dối đó, tôi còn phải gửi cho anh này, chị kia, trong họ hàng, anh em, mỗi khi họ gặp hoạn nạn hay đau yếu.
Vân lại là người tiêu xài rộng tay không cần tính toán. Tôi cảm thấy bực tức, khó chịu, nhưng nói ra thì e rằng vợ chê mình ti tiện.
Hai năm sau, Vân chán công việc chân tay mà cô cho rằng không hợp và muốn đi học để có một nghề ở văn phòng.
Dù không đồng ý, nhưng tôi vẫn phải gật đầu, để ra vẻ mình là người chồng luôn chiều vợ, dù điều đó có trái ý.
Từ ngày đi học, Vân quen biết thêm nhiều bạn, mà đa số là bạn trai. Những buổi đi về thất thường của Vân khiến tôi sinh nghi. Nhưng khi tôi gặng hỏi thì Vân mắng tôi là thứ đàn ông ghen bóng, ghen gió, hẹp hòi, ích kỷ, rằng cô không phải là loại người lăng nhăng, bằng chứng là gần chục năm tôi rời xa cô, nhưng cô vẫn một lòng, một dạ đợi chờ tôi.
Dĩ nhiên tôi cứng họng, nên chỉ còn biết nuốt nỗi ấm ức vào trong lòng. Bao năm qua, Vân vẫn sống thoải mái như người tự do, trong khi tôi bắt đầu héo rũ, vì niềm hạnh phúc ngọt ngào ngắn ngủi mà tôi từng hãnh diện khoe khoang với bạn bè đã dần dần lịm chết.
Bây giờ, hơn bao giờ hết tôi nhớ Duyên và đứa con trai bất hạnh với niềm hối hận tràn dâng.
Thật sự, tôi chỉ là một người hẹp lượng. Và có phải, vì đã đối xử tệ bạc với người thật sự yêu tôi, nên hậu quả tôi phải gánh chịu ngày hôm nay cũng là đáng tội?
Nghĩ lại, tôi chỉ là người thả mồi bắt bóng!
Đặng Hiếu Sinh
|
|
|
The Following 4 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
06-27-2020
|
#118
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Truyện Ngắn : Người Mỷ cuối cùng ở Việt Nam.
Đường phố Sài Gòn nhộn nhịp một cách bất thường. Tiếng còi xe vang lên inh ỏi. Trên lòng đường, xe Jeep, 4x4 và “cam nhông”10 bánh hết xăng đứng tại chỗ, không những đã trở nên vô dụng mà còn làm cản trở lưu thông. Một vài chiếc, chắc là bị lột “dên”, khói bốc nghi ngút. Bốn góc ngã tư đều chật ních những xe. Xe đạp, xe gắn máy, scooter, xe ba bánh, xe xích lô đạp, xích lô máy, xe lam, xe ngựa, tắc xi, xe ô-tô dân sự, tất cả đều đang kẹt cứng, dậm chân tại chỗ khi Mark lái chiếc Vespa tới chỗ góc đường Hai Bà Trưng và Tú Xương.
Trên lề đường, người đi bộ không đi mà chạy, theo nhau mà chạy. Mark nghĩ đến những đoạn phim thời sự quay cảnh dân chạy loạn từ miền Trung hồi năm 72 trên Quốc Lộ số 1, đoạn đường được thế giới biết đến qua cái tên Đại Lộ Kinh Hoàng.
Những người dân miền Trung này đã “bỏ phiếu bằng chân”, bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả, tổ tiên chạy về hướng Nam lánh nạn cộng sản, tìm đường sống với chính quyền Cộng Hòa. Họ cứ chạy mà không cần biết nơi họ sắp dừng chân là đâu hoặc bao giờ thì an toàn để dừng chân.
Những người trên hai bên lề đường Hai Bà Trưng bây giờ cũng tìm đường tránh nạn cộng sản, cũng chạy loạn, nhưng phần lớn những người này biết là họ phải đi đâu, đến đâu, và biết là bao giờ, ở đâu thì được an toàn.
Những người này đang cố gắng tìm cách, càng nhanh càng tốt, để ra đến Bến Bạch Đằng tại bờ sông Sài Gòn, chỗ các tầu hải quan, tầu buôn, tầu vận tải, tầu đánh cá , tầu tư nhân đang chất người lên như xếp cá hộp trước khi nhổ neo ra khơi.
Một số những người khác chạy ngược lại, hướng về sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Không Quân, chỗ những chiếc C-47, C-130, Caribou, DC-3, L-19, Cessna, T-28, A-37, F-5, trực thăng Chinook, Huey; những chiếc máy bay cánh quạt và phản lực của Air America, Air France, TWA, Pan Am, Air Vietnam đang lũ lượt cất cánh đem hành khách - các nhân viên sở Mỹ cùng bạn bè, thân nhân, vợ con - ra khỏi không phận Việt Nam, hướng về Mỹ Châu, Âu Châu, Thái Lan, Phi Luật Tân, hạm đội Thứ Bẩy đậu sẵn ngoài khơi.
Một số nữa cũng chạy nhanh không kém hướng về tòa Đại Sứ Mỹ hay một trong những biệt thự chung quanh thành phố, nơi có những bãi trống trong khuôn viên làm chỗ đáp cho trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến hạ cánh đón người Mỹ và những người được Mỹ cho di tản trước khi cộng sản tràn vào Sài Gòn.
Những người này còn làm cho Mark liên tưởng đến đám đông kéo nhau lũ lượt vào đêm Giáng Sinh trên đường Tự do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi đi tới điểm không ai hẹn ai mà đều gặp ở đó - Vương Cung Thánh Đường - để dự lễ mừng Chúa Hài Đồng lúc nửa đêm. Trong những năm Mark làm việc ở tòa đại sứ Mỹ ờ Việt Nam, chỉ có đêm đó là lần duy nhất anh thấy các đám đông tập hợp lại, “xuống đường”, không với chủ đích chống chính quyền vì lý do này hay lý do khác.
Một tràng đạn nổ đâu đó rất gần phía bên trái làm thiên hạ chạy nhốn nháo tìm chỗ trốn. Mark trông thấy khoảng trống, rồ máy chiếc xe Vespa nhẩy lên lề đường tìm lối ra. Chạy được khoảng 5 thước thì một người đàn ông từ đâu nhẩy vào mũi xe làm Mark quẹo bánh lái gấp sang một bên, mấy ngón tay cầm ambrayage tuột ra, chiếc scooter chồm lên, khựng lại, rồi chết máy. Cuống quýt, Mark đạp lấy đạp để cả chục lần mà máy vẫn không nổ lại; anh nhìn quanh, dựa chiếc Vespa vào một gốc cây, khóa cổ lại rồi, bắt chước những người chung quanh, chạy.
Nhà Thu ở trong khu chợ Bàn Cờ, cách đó khoảng 2 cây số. Đến đầu chợ trên đường Phan Đình Phùng thì chợ chiều đã vắng. Những hộp các tông chất đống, mùi rau cỏ héo, mùi thịt cá hôi tanh, và xác một con chó chết chặn đường vào nhà Thu. Mark nhịn thở, bước nhanh. Thu ở trong một căn nhà 2 tầng trong lòng một con hẻm sát mặt chợ. Tiếng radio vang vang. Mark nghe thấy đài phát thanh Sài Gòn, đài Quân Đội, đài BBC, đài VOA…Dân trong xóm lao động với vẻ mặt lo âu nuốt từng câu từng chữ của các xướng ngôn viên, cố gắng tìm hiểu sự thực đằng sau những lời tuyên bố, những bản tin chiến trận về số phận mình, số phận thành phố Sài Gòn, số phận miền Nam Việt Nam sẽ đi đến đâu.
Trong nhà Thu cũng có tiếng radio nhưng không có tiếng người xướng ngôn mà chỉ có nhạc. Và tiếng nhạc, tuy đã biết trước, cũng làm Mark có cảm giác náo động. Bởi vì bản nhạc đang được phát ra từ chiếc máy radio nhỏ để trên chiếc tủ chè trong góc nhà là bài White Christmas của Irving Berlin do Bing Crosby hát. Từ mười ngày trước đây, tất cả những người Mỹ còn lại ở Việt Nam được lệnh mở radio trên đài FM của Mỹ 24/24 và khi nghe thấy White Christmas phát thanh liên tục thay cho chương trình thường lệ thì đó là hiệu lệnh cuộc di tản khỏi Việt Nam đã chính thức khởi đầu. Tiếng nhạc White Christmas đã khởi lên, mùa Giáng Sinh Tuyết Trắng đã tới dưới ánh mặt trời gay gắt, nhuộm đỏ thành phố Sài Gòn vào những ngày cuối tháng Tư. Và thông điệp của nó không phải là nói về một mùa Giáng Sinh thanh bình với tuyết rơi ngoài cửa sổ mà là hiệu lệnh cấp bách cho những người như Mark phải bỏ lại tất cả, tìm mọi cách di chuyển tới một trong những địa điểm ấn định sẵn để được trực thăng vận ra khỏi Việt Nam. Càng nhanh càng tốt.
Thu đang cố sức nhấn nắp chiếc va li xuống để đậy lại nhưng vì sức nàng yếu nên chiếc nắp lại bật lên. Mark đến bên cạnh, hôn trên má Thu rồi lấy tay chặn xuống, kéo chiếc fermature trên va li lại một cách dễ dàng. Xong rồi Mark đứng lên, hai tay sách hai chiếc va li.
“Mình đi đi em,” Mark nói với Thu.
“Nhưng mẹ em chưa xuống tới,” Thu trả lời.
“Mình gửi điện tín cho mẹ em mười ngày hôm nay rồi. Nếu bà muốn đi với mình thì bà đã tới rồi.”
“Thế nào mẹ em cũng xuống. Anh biết là lúc này đường từ Đơn Dương xuống đây khó khăn như thế nào.”
“Nhưng mà mình phải vào tòa đại sứ ngay bây giờ. Anh nghĩ chỉ mấy ngày nữa là mọi chuyện coi như xong. Nhiệm vụ của anh là phải trở vào tòa đại sứ ngay lập tức. Anh về để đón em chứ không phải về để chờ mẹ em.”
Thu lắc đầu.
“Em phải chờ mẹ xuống. Em không thể đi được. Em không thể bỏ mẹ lại được. Mẹ chỉ có một mình em.”
“Nếu mình không đi bây giờ thì “chúng mình” sẽ bị bỏ lại,” Mark gằn giọng rồi đi ra cửa.
“Nếu anh cần phải quay lại tòa đại sứ ngay bây giờ thì anh cứ đi trước. Em ở đây đợi mẹ rồi sẽ vào sau.”
Mark nói như quát, tuy bản tính của anh không phải là người hay nóng.
“Em không hiểu hay sao? Mình không còn nhiều thì giờ nữa. Mình không thể nào chờ mẹ em được. Chưa chắc gì mẹ em sẽ xuống.”
“Nhưng thế nào mẹ em cũng xuống với em.”
Một cái gì trong giọng Thu làm Mark dịu cơn nóng.
“Sao em biết?”
“Bởi vì mẹ thương em…và mẹ biết là lúc này em đang cần mẹ bên cạnh…”
“Em…” Mark ngừng nói, nhìn vào đôi mắt sâu thẳm mầu nâu nhạt của Thu. “Mẹ biết là em cần?...”
Thu gật đầu thật nhẹ.
“Em báo cho mẹ biết là em có thai…”
Mark sững người, đứng im một khoảnh khắc, rồi buông hai chiếc va li trên tay xuống, choàng tay ôm lấy Thu, xiết người nàng thật chặt.
“Cám ơn em.”
Khi Mark choàng tỉnh giậy thì chiếc đồng hồ trên tường chỉ tám giờ bốn mươi lăm. Mark đã bồng Thu lên lầu và hai người đã yêu nhau thật lâu, thật êm đềm vì sợ động vào cái thai còn non trong bụng mẹ. Thu vẫn ngủ thật ngon bên cạnh. Mark nhoài người ra khỏi giường, cố không gây tiếng động, sợ đánh thức Thu.
Mark mặc quần áo rồi ra ngoài ban công nhìn xuống. Trời đã tối hẳn. Đường hẻm vắng tanh. Vẫn không thấy mẹ Thu đâu.
Mark Mason, 38 tuổi, đã giữ chức vụ tham vụ báo chí của tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn từ tháng Sáu năm 1970. Thu làm việc tại phòng đánh máy ở lầu một. Hai người bắt đầu đi chơi với nhau khoảng hơn một năm, tuy thật ra Mark đã theo đuổi Thu từ lần gặp nàng đầu tiên vào ngày Thu mới vào làm việc ở tòa đại sứ hơn hai năm trước, lúc đó Thu mới 26. Có cảm tình với Mark nhưng Thu vẫn e dè với cái danh hiệu “Me Mỹ” xã hội vẫn gán cho các cô gái Việt đi bên cạnh những chàng Mỹ tóc quăn, mũi lõ, mắt xanh. Cho tới khi Mark gửi một chiếc máy bay Cessna của tòa đại sứ lên Đà Lạt đón cậu Năm, em mẹ Thu, rồi đưa vào bệnh viện dã chiến trong Tân Sơn Nhất, cứu được mạng sống của cậu Năm, thì Thu mới bằng lòng đi chơi với Mark. Cách đây 4 tháng, Mark đã lên Đơn Dương gặp mẹ Thu xin cưới nàng và mẹ Thu đã nhận lời cầu hôn. Thu nói với Mark rằng nàng đã đến chiêm tinh gia Huỳnh Liên xin ngày tốt và ông Huỳnh Liên đã nói đám cưới của hai người nên tổ chức vào ngày 30 tháng Tư, ngày tốt nhất cho cả hai tuổi.
Mark đã li dị Cathy, người vợ cũ, trước khi sang Việt Nam. Sau khi ra tòa, Cathy đem Grace, đứa con gái duy nhất của hai người đi mất vì biết Mark rất thương con và muốn trả thù Mark. Lần sau cùng Mark gặp con là ngày trước khi sang Việt Nam. Lúc đó Grace mới 6 tuổi. Những lần về phép, Mark đều về Mỹ thay vì đi nghỉ mát ở các nước khác vì anh hy vọng sẽ gặp được con. Nhưng Cathy đã đem Grace đi biệt tích. Năm năm nay Mark sống trong hy vọng và tuyệt vọng.
Có tiếng súng vọng về từ xa. Mark nhìn về hướng tòa đại sứ. Chắc giờ này cuộc di tản ở tòa đại sứ đã đi vào giai đoạn rầm rộ nhất nhưng vì nhà Thu ở khá xa nên không nghe thấy tiếng ồn của máy bay trực thăng. Mark chợt thấy đắng trong cổ họng. Một nỗi buồn khó tả dâng lên. Anh rất thích nước Việt Nam và vì thế đã xin ở lại đến nhiệm kỳ thứ hai; và sau đó thì Thu đã đóng vai chính trong việc giữ chàng nhân viên ngoại giao này ở lại Sài Gòn một nhiệm kỳ nữa. Thật đáng buồn, Mark nghĩ. Đúng là thân phận nhược tiểu. Bị dùng như một con tốt thí quân, không hề thương tiếc. Mark ở vào địa vị để có thể hiểu được những thế cờ giữa Mỹ, Trung Cộng, Nga Sô và Bắc Việt. Miền Nam đã từ lâu không còn nằm trong thế cờ đó nữa. Hai mươi lăm triệu dân miền Nam đã trở thành miếng thịt bò thơm phức để trên đĩa sẵn sàng để cho cộng sản Bắc Việt nuốt chửng.
Thấy khát nước, Mark đi vào trong. Thu vẫn ngủ say. Mark kéo chăn lên đắp cho Thu rồi xuống cầu thang. Điều đầu tiên Mark nhận thấy là chiếc radio không còn phát thanh White Chrismas nữa. Thay vào đó là những tiếng xèo xèo của làn sóng điện. Lặng người đi một giây, Mark đi nhanh ra cửa, nhẹ nhàng mở cửa ra, nhẹ nhàng khép cửa lại, rồi cắm cổ chạy ra ngoài ngõ.
Góc đường Nguyễn Thiện Thuật và Phan Đình Phùng vẫn đông người. Mấy xe bán thịt bò viên vẫn có khách. Mark nhìn quanh xem có chiếc taxi nào không. Không thấy. Xích lô thì có nhiều nhưng quá chậm. Trông thấy một ông tài xế đang ngồi trên chiếc xích lô máy cầm bát bò viên húp xì xụp, Mark tiến đến bên cạnh, nói bằng tiếng Việt rất sõi, giọng Nam:
“Bác làm ơn chở tôi tới tòa Đại sứ.”
Người lái xe xích lô máy vội vàng húp nốt chỗ nước còn lại, nhẩy xuống, đưa bát cho người bán bò viên. Mark trèo lên xe. Bác tài đạp máy. Mãi mà máy không nổ. Mark sốt ruột nhìn quanh, định bước xuống tìm cách khác đi thì máy nổ. Bác tài rồ ga vài lần rồi chạy về hướng đường Hộng Thập Tự. Tuy Mark chỉ nói vỏn vẹn có ba chữ “tòa đại sứ”, nhưng chiếc xích lô máy tự động quẹo trái rồi trực chỉ tòa đại sứ Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, gần Nhà Thờ Đức Bà. Xe quẹo trái ở Tú Xương, con đường vắng dễ chạy hơn. Gần đến Hai Bà Trưng thì Mark nẩy ra một ý tưởng ngộ nghĩnh. Anh nghĩ là cũng hơi lạ khi con đường mang tên Tú Xương - một nhà thơ “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, để vợ tần tảo kiếm ăn trong khi mình ngồi gãi rốn làm thơ – lại nối ngang với Hai Bà Trưng, nữ lưu khởi nghĩa chống ngoại xâm.
Đi ngang chỗ bỏ lại chiếc Vespa hồi chiều thì không thấy nữa. Ra hiệu cho chiếc xích lô máy ngừng ở góc đường Thống Nhất, Mark trả tiền rồi bước thật nhanh về phía tòa đại sứ Mỹ.
Dưới mấy ngọn đèn đường vàng nhợt nhạt không đủ xua đi bóng tối, đám đông bao vây tòa nhà mầu trắng vẫn còn nguyên, có khi còn đông hơn hồi chiều lúc Mark rời tòa đại sứ về đón Thu. Lại gần hơn, Mark nhìn lên mấy vọng gác trên bờ tường cao. Không còn bóng dáng của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ mặc áo giáp, đội mũ sắt, cầm tiểu liên đứng gác. Những người lính bảo vệ tòa đại sứ là những người di tản sau chót khi họ tháp tùng ông Đại Sứ Martin lên chiếc trực thăng cuối cùng, bỏ lại đằng sau hàng ngàn người đang đứng chờ một chuyến bay sẽ không bao giờ đến nữa. Và trong số những người đó, bây giờ, có cả Thu, Mark, và đứa con hãy còn trong bụng mẹ.
Vì một lý do gì đó mà chính Mark cũng không giải thích được – có lẽ là vì thói quen đảm nhận trách nhiệm giải thích sự việc liên quan đến tòa đại sứ - thay vì âm thầm quay về với Thu, anh tiến thẳng vào trong đám đông. Mark, tóc vàng, cao gần 1 mét 9, len vào giữa đám người tóc đen, trung bình trên dưới 1 mét 6. Mọi người quay lại ngước lên nhìn anh chàng người ngoại quốc cao lênh khênh tiến sâu vào trong đám đông. Mark tiến lại gần chiếc cổng chính đóng kín, leo lên một tảng đá to cạnh cây cổ thụ, giơ tay lên, nói bằng tiếng Việt. Tiếng Mark vang vang trong bóng đêm:
“Các ông các bà về nhà đi. Đừng chờ nữa. Tòa đại sứ đóng cửa rồi. Đại sứ Martin đã rời Việt nam bằng chiếc trực thăng cuối cùng. Sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã hoàn toàn chấm dứt.”
Đám đông, im lặng khi Mark bắt đầu nói, ồn ào trở lại. Cả trăm người nói cùng một lúc.
“Anh là ai?”
“Tôi…”
Mark vừa mở miệng thì những người đứng gần cổng nhất bắt đầu xô nhau tiến về phía trước trong những tiếng la ó.
“Phá cổng ra. Phá cổng ra xem còn thằng Mỹ nào trong đó không? Thằng này nói láo.”
“Tụi Mỹ bỏ rơi mình rồi.”
“việt cộng vào chắc chết quá.”
“Tôi làm cho Mỹ 20 năm mà bây giờ chúng nó bỏ rơi tôi.”
“Chồng tôi hãy còn ở trong đó, không biết đã đi chưa.”
Rổi thì đám đông bắt đầu chửi.
“Đ.M. mấy thằng chó đẻ Mỹ. Đồ phản thùng.”
“Nixon nói là không bao giờ bỏ rơi Việt Nam.”
“Thằng khốn nạn Ford yếu quá, để cho quốc hội lấn lướt.”
“Đ.M. thằng chó đẻ Kissinger.”
“Đ.M. thằng Martin.”
“Thằng khốn nạn nhất là thằng Kissinger.”
Mark thấy những câu chửi “thằng chó đẻ Kissinger” được lập lại nhiều nhất.
Những tiếng chửi nhỏ dần rồi tắt. Bỗng nhiên một giọng đàn ông cất lên rất to trong đám đông.
“Còn thằng Mỹ này nữa. Kéo nó xuống, đánh cho nó chết mẹ nó đi. Đ.M. nó.”
“Còn thằng Mỹ này nữa. Lôi nó xuống, đánh cho nó một trận cho nó chết mẹ nó đi.”
Vài chục người ồn ồn lập lại câu nói trong lúc những người đứng gần chiếc cổng kiên cố, quay lại nhìn Mark. Mark thấy họ dồn tới trước; những cánh tay đưa ra, nằm lấy quần, áo, chân, tay Mark kéo anh xuống khỏi tảng đá.
Và cứ thế, những cánh tay, những bàn chân, đấm, đá, dầy, đạp lên thân thể Mark, đại biểu cho những gì những người Việt Nam đứng quanh tòa đại sứ Mỹ chờ được di tản và bị bỏ rơi cho là những hành vi phản bội.
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Mark Mason, người Mỹ sau cùng ở Việt Nam, trước khi ngất đi dưới trận đòn thù, là anh đang hứng chịu số phận của những người Mỹ xấu xí với những cái tên quen thuộc, Nixon, Ford, McNamara, Bundy, Martin, Bunker, Kissinger,.
Và rồi Mark Mason không còn biết gì nữa trong khi đám đông dường như vẫn như chưa hả giận…
Luân Tế
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
07-01-2020
|
#119
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Con khô miệt Lục Tỉnh ăn chơi ngon hơn
ăn thiệt
Con khô là đặc sản của người Lục Tỉnh. Khô là thực phẩm hình thành trên bước đường khai hoang của tổ tiên.
Thuở đó gọi “miệt Lục Tỉnh” là nói lên cái vùng đất vừa xa, vừa lạ, mang nhiều ý nghĩa bí ẩn nữa. Nên cái ăn cái uống của người Lục Tỉnh cũng mang nhiều sắc thái lạ kỳ dưới mắt người Hà Nội.
Và con khô của miệt Lục Tỉnh, khô miền Nam, dưới mắt người di cư năm 54 không chỉ là lạ mà còn khó hiểu..
Khó hiểu từ cách gọi đến cách ăn.
Ấy thế nên Vũ Bằng đã phải lặn lội tìm hiểu, mới khám phá ra thế giới khô miền Nam hầu dạy cho người miền Bắc hiểu thế nào là khô:
“Thế thì ông có biết khô là gì không hỡi ông bạn Bắc Kỳ thân mến? Khô không phải là một dung từ, nhưng là một danh từ, khô là một biến thể chớ không phải là một trạng thái, khô là một thực thể chớ không phải là một phương pháp”
Vũ Bằng, Món lạ Miền Nam
Con khô là sản phẩm mang tánh sáng tạo của người lưu dân ngày xưa từ miền ngoài vào. Họ phát cỏ, khẩn hoang, làm ruộng mà tài sản mang theo chỉ có cái nớp và cái phản. Có gì ăn nấy, cá tôm dư thừa ăn không hết, không biết làm gì nên “biến chế” ra con khô.
Rồi con khô lần lượt được định hình, thành một phong cách ăn uống độc đáo, có mặt trong ẩm thực Việt Nam, như là một tập quán, thói quen ăn khô và ghiền khô, đến tận ngày nay.
Vậy con khô ra đời thế nào?
Xưa, theo ông bà kể lại, khi mới từ miền ngoài vào “không có một miếng đất chọi chim”; thì vùng đất giồng, đất rẫy có người chiếm hết rồi, nên đành phải đi vào vùng sâu, chèo chống tìm đất hoang để khai khẩn.
Đất vô chủ, mạnh ai nấy phát hoang để làm ruộng, vất vả nhưng “con đàn cháu đống” do tối phải chung vô nốp ngủ sớm để tránh cái cảnh muỗi bay như trấu.
Nhưng nhờ trời thương, năm nào nước trên nguồn cũng đổ về mang theo cá tôm “thôi vô kể”. Cá trồi lên mặt nước, táp mồi giống như nồi cơm sôi sùi bọt.
Ăn cơm với cá riết rồi ngán. Cá có con bự tổ chảng, cái đầu con rô bằng bàn tay xòe. Nhà nào cũng rộng đầy lu, đầy hũ, riết rồi phải đào hầm rộng để ăn lâu.
Vào cuối năm, gió chướng non thổi về thì cứ ra đồng đào hầm, vét mương để bắt cả nhảy hầm. Cá nhiều chở cả ghe, đựng bằng thùng thiếc, bằng cần xé, không biết làm gì cho hết, thương lái đâu có ai vô đó thâu mua!
Thế là phải xẻ cá, móc bỏ ruột, ướp muối đổ ra đệm, trên lá chầm, thậm chí trên sân quanh nhà để phơi khô...
Lâu lâu chèo ghe ra tỉnh bán đổi lấy trà, đường tán, thuốc rê, giấy hút thuốc, đá lửa, dầu hôi. Hồi đó chèo cả ngày mới tới tỉnh; còn lên Sài Gòn đi cả đôi mươi ngày, mà đâu phải ai cũng đi được.
Con khô miệt vườn ra đời nhiều truân chuyên như thế, cuộc đời con khô từ đó lưu lạc nơi này đến nơi khác, theo chân ghe thương hồ về tới Gia Định, Đồng Nai, có khi theo ghe bầu ra tận xứ Quảng.
Miệt Lục Tỉnh làm ruộng dựa vào nước sông Tiền, sông Hậu; thủy triều ở đây lên xuống hai lần trong ngày, không như miền Bắc chỉ có một, nên sanh nhiều tôm cá. Người dân ở đây trị thủy bằng cách đào kinh, khai mương; trong khi miền Bắc lại đắp đê trị thủy. Sông rạch, thủy triều ở miền Nam giúp sức cho người lưu dân có nhiều cá, làm nhiều khô là như vậy.
Đó là con khô cá đồng.
Còn khô cá biển nó ra đời nào có kém gian truân đâu, thậm chí còn nguy hiểm nữa.
Xưa ghe đi biển đánh cá vài ngày, không có phương tiện lưu trữ nên phải làm khô. Con cá sau khi mổ bụng, bỏ ruột, ướp muối đổ lan trên mui, dưới khoang phơi tạm cho ráo rồi đem vô bờ bán cho thương lái, phơi lại thành con khô cá biển. Gặp lúc mưa dầm làm cho con khô bị ươn, bị bủn thịt nên khô cá biển nhiều lúc có mùi khăn khẳn là vậy.
Có lúc gặp bão, phải đổ khô xuống biển cho nhẹ ghe để chèo lẹ vào bờ.
Xem như vậy, vì dư thưa không biết làm gì mà người miệt Lục Tỉnh làm ra con khô. Nay con khô trở thành món ăn quen thuộc, nên làm khô, chế biến con khô là vì nhu cầu và vì nhiều người mình còn khoái ăn khô.
Ngày nay bất cứ người Việt nào cũng biết con khô. Chỗ nào có người mình là có mặt con khô.
Cùng với con người văn minh, con khô nay cũng văn minh sau bao phen đổi mới cho hợp với thời đại nhưng không vì thế mà con khô đánh mất bản chất, sắc thái đã làm ra nó: Là đơn sơ, dân dã.
Do vậy con khô vẫn còn thấy bày bán ở vỉa hè Sài Gòn vào ban đêm, bên bếp lửa than, cạnh xị rượu đế, rượu thuốc, bất kể dòng họ nó là gì, xuất thân từ đâu.
Vào các cửa hàng chuyên bán sĩ, thấy đủ loại khô:
Đầu tiên là khô cá đồng. Đây là loại nhiều nhứt và cũng được nhiều người ưa chuộng. Loại to, bự cao cấp như khô cá lóc, cá tra rồi cá chạch, đến loại khô tạp nhưng không kém hấp dẫn như khô cá bống kèo, cá trắng, cá đối, cá sặc. Khô lươn, khô lịch, khô chuột, ếch, nhái cũng không thiếu.
Khô cá biển, mặc dầu mùi khó chịu, nhưng lại ngon. Như cá đuối, cá hố, cá lẹp, cá khoai, cá lù đù, cá chim, cá chìa vôi…
Riêng tôm khô và khô mực là loại khô cao cấp, ngự trị riêng biệt một vùng, ngồi riêng một chiếu, tự hào ngon hơn mấy loại khác.
Tôm khô, khô mực nằm trong danh mục sơn hào hải vị. Con tôm, con mực từ khi thành con khô thì nó chiếm địa vị đầu bảng trong dòng họ khô..
Khô mực, tôm khô, ngon hơn mực tươi, tôm tươi, mùi vị quyến rũ, và màu sắc cũng mời gọi người ăn nữa.
Người Việt mình không có thói quen ăn khô làm bằng các loại thịt như gà, heo cả bò nữa. Khô gà, vịt, heo, bò là loại đồ ăn để lâu như hột vịt muối, lạp xưởng là sản phẩm của người Tàu.
Duy có khô nai là sản phẩm khô làm bằng thịt rừng của người Việt, được dân ăn nhậu thích và ít thấy bán.
Người sành điệu ăn khô không ai nướng đến chín con khô. Con khô vừa thấy lửa là có mùi thơm và ăn được liền. Như khô cá hố, cá khoai, khô cá lẹp.
Khô cá hố, cá khoai, chắm nước mắm me (me chín) hoặc nước mắm xoài hay nước dấm cay ngọt thì rất ngon. Nước chấm phải làm sẵn, khô vừa nướng xong bẻ ra, chấm nước “chua cay ngọt” đưa vào miệng nhai nghe “dòn khướu” , nuốt xong mà miếng khô chưa kịp mềm.
Đưa cay phải là rượu đế, rượu nếp than hay ngon nữa là rượu thuốc thì hết biết.
Ăn khô, uống rượu đế, ngồi dưới đất và phải có vài ba người thì mới vui, rôm rả.
Còn khô cá lóc, cá tra loại khô có nhiều thịt thì nướng lửa than, già lửa một chút. Con khô để trên vỉ, lửa làm cho con khô sôi bọt, chảy mở, mùi khô, mùi mỡ bốc bay tỏa cả nhà như mời gọi.
Khô nướng vừa chín tới phải xé ra, còn bốc khói, cho vào chén nước chấm me, xoài hoặc nước dấm chua cay. Nước chấm hòa cùng mở con khô rỉ ra làm cho chén nước chấm trở thành món nhậu ngon hết chỗ chê. Món khô này nhậu rất bắt mồi và không kém náo nhiệt. Càng về khuya thì lại càng có thêm tay mới vào, thế chỗ một vài tay vừa cho chó ăn chè sau gốc chuối.
Riêng con khô cá đuối lại có cách nướng, cách ăn khác. Không ai dạy bảo ai mà dân ghiền khô người nào cũng biết nướng khô cá đuối.
Khô cá đuối phải nướng thật khét, sau đó phải đập cho mềm, cho thịt cá tưa ra thành xớ. Nếu nướng không tới, thì đập con khô không tưa được và làm cho con khô có mùi khai, ăn không vô. Khô cá đuối phải chấm nước dấm chua và cay và đưa cay bằng rượu đế mới đúng bộ.
Con khô cá sặc thì thịt nhiều, dày cơm, thường rất mặn. Nướng chín, xé nhỏ ra, trộn với dưa chuột, dưa leo xắc mỏng với nước mắm chua cay ngọt, gọi là gỏi khô cá sặc, ăn rất ngon mà nhậu cũng được.
Con khô mực thì tuy quý phái nhưng chế biến đơn giản và dễ dàng. Có thể nhậu với rượu bia, rượu đế, ruợu Martel càng ngon.
Dân có tiền, chủ điền, ở nhà ngói nướng khô mực bằng rượu đế. Ruợu đế “cao chữ ” rót trên dĩa châm lửa cháy ngọn xanh bốc mùi tỏa thơm dễ chịu. Hơ con khô mực, trở qua trở lại một hai lần mùi thơm của khô, của rượu làm ta phải chảy nước miếng.
Khô mực xé nhỏ, nhai nhóc nhách như nhai kẹo cao su, mùi ngọt khô mực hòa tan cùng nước bọt khiến ta dằn lòng không được, phải nuốt ngay. Khô mực ăn không hoặc chấm nước tương chua cay thì ngon hơn.
Khô mực tuy là loại cao cấp nhưng nó vẫn có mặt ở hè phố, làm bạn tri kỷ với xích lô, xe kéo, giang hồ tứ chiếng, ai cũng ưa, cũng thích.
Riêng con tôm khô là món khô sẵn sàng để ăn, không cần nướng.
Từ khi con tôm khô ra đời thì hình như ai đó đã làm mai mối nó với củ kiệu rồi. Cuộc tình tôm khô củ kiệu là cuộc tình đẹp, bền vững khiến cho bao “mối tình khô” khác phải ghen tức.
Gặp khi không có củ kiệu, riêng một mình con tôm khô cũng làm tròn nhiệm vụ cho bạn đưa cay, bên ly bia lạnh. Dầu ngồi một mình bạn cũng không thấy cô đơn thiếu vắng là nhờ tôm khô.
Ăn khô như vậy đúng là ăn chơi.
Và ai dám bảo ăn khô không ngon, ăn khô là ăn chơi mà ngon hơn ăn thiệt là vậy.
Theo chân con khô, lần về miệt Lục Tỉnh, vô tận vùng sâu mới thấy hết được lịch sử con khô xứ mình.
Ăn khô mà nhớ về tổ tiên bỏ xứ miệt ngoài xuôi Nam tìm cuộc sống mới.
Ngày nay, món ngon vật lạ ê hề, nhưng con khô vẫn còn là món ăn không thể thiếu trong bữa cơm, bữa nhậu của người mình.
Ăn khô bây giờ không chỉ là sở thích mà là lối sống, văn hóa trong ẩm thực của chúng ta.
Nếu có dịp về thăm lại Việt Nam, chúng ta làm một chuyến về thăm Lục Tỉnh, tìm cho được mấy ông già Nam Bộ để nghe kể chuyện ngày xưa, chuyện nghĩa khí Lục Vân Tiên với ly rượu và con khô thì không gì bằng.
Nam Sơn Trần Văn Chi
Trích từ cuốn Hương Vị Ngày Xưa
  
|
|
|
The Following 5 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
07-04-2020
|
#120
|
R8 Võ Lâm Chí Tôn
Join Date: Jun 2011
Posts: 17,288
Thanks: 19,043
Thanked 64,869 Times in 16,419 Posts
Mentioned: 126 Post(s)
Tagged: 0 Thread(s)
Quoted: 4457 Post(s)
Rep Power: 59
|
Con trai ngày nào cũng biến mất khỏi nhà, ông bố tò mò theo dõi con thì phát hiện việc làm xúc động của cậu bé.
Không còn nghi ngờ gì nữa, con cái đích thị là niềm tự hào của bố mẹ, nhất là chúng có thể trở thành một con người tốt bụng và biết chia sẻ. Đó là trường hợp của cậu bé 9 tuổi tên Ken sóng ở Philippines.
Mỗi ngày, Ken đều biến mất khỏi nhà và đi đâu đó trong một khoảng thời gian mà không hề nói với bố. Tất nhiên, bố Ken rất tin tưởng con trai nhưng anh không thể tránh khỏi cảm giác tò mò muốn biết đứa trẻ này đi đâu, làm gì.
Thế là một ngày họ, bố Ken quyết định đi theo con trai bí mật trước khi phát hiện đứa trẻ này mỗi ngày đều làm chuyện tốt đẹp. Ken đi khắp các con phố để mang thức ăn đến cho những chú chó hoang. Các con vật ốm yếu, suy dinh dưỡng, cứ thế mà bu xung quanh đứa trẻ 9 tuổi và tập trung vào khay thức ăn. Cuộc sống đầu đường xó chợ khiến chúng không dám tiếp cận con người nhưng với Ken thì khác, giữa cậu bé và các con chó được gắn kết bằng một sợi dây vô hình. Chứng kiến việc làm của con trai, bố Ken không khỏi xúc động.
Sau này, Ken kể lại rằng ban đầu, em chỉ dám đứng cách khay đựng thức ăn cho các chú chó 50 mét vì không muốn các con vật biết đến sự hiện diện của mình. Giờ đây, Ken đã không chỉ trở nên gần gũi mà còn được vuốt ve những con vật.
Sau khi lén chụp một vài bức ảnh xong, bố của Ken bỏ chiếc máy ảnh xuống và đi đến giúp con trai một tay. Vì những chú chó hoang này có thể mang trong người mầm bệnh nên bố con Ken đã cẩn thận đi tiêm ngừa trước để được thoải mái chơi đùa cùng các con vật này.
2 bố con Ken đã cùng nhau đặt tên cho 3 trong số các chú chó lần lượt là Brownie, Blackie, White. Sau này, cả hai mới biết Blackie chính là mẹ của 2 con chó còn lại. Bất chấp tình hình sức khỏe không mấy tốt của mình, Blackie vẫn luôn ra sức bảo vệ các con.
Trở về nhà, 2 bố con Ken tin rằng họ cần phải làm gì đó cho những con chó đáng thương này, đặc biệt là Ken, em luôn muốn làm mọi thứ vì các con vật bị người ta bỏ rơi này.
Thế là một tổ chức tình nguyện giúp đỡ những chú chó cơ nhỡ được ra đời được đặt tên là Happy Animals Club. Chương trình này nhanh chóng gây chú ý và gặt hái được thành công ngoài sự mong đợi của 2 bố con Ken. Bố của Ken đã mua một mảnh đất nhỏ gần nhà và xây dựng một trong những nơi ở nhà cho chó lớn nhất trong khu vực. Kết quả là họ đã cứu sống được hàng trăm con chó và mèo, giúp chúng thoát khỏi cuộc sống khốn khổ trên đường.
   
|
|
|
The Following 3 Users Say Thank You to wonderful For This Useful Post:
|
|
|
|
|